Impact of winter monsoon circulations on aerosol optical depth (AOD) in Bac Giang and Bac Lieu stations are
analyzed through the wind speed data series of the National Center for Environmental Prediction/Department of Energy
(NCEP/DOE-2) and the AOD data obtained from AERONET stations network (AErosol RObotic NETwork) of the
National Aeronautic and Space Administration (NASA) in Bac Giang and Bac Lieu. To accomplish this, first we defined
the rules change over time of AOD at Bac Giang and Bac Lieu stations. The correlation between AOD at Bac Lieu
station with wind speed of Asia, and the relationship between the rules of variation of AOD at Bac Giang station and the
winter monsoon are determined. The results show that the value of AOD at Bac Lieu in the middle of winter (December,
January and February) is the highest while the value of AOD at Bac Giang in the early winter (October) and the last
winter (February, March) is the highest. The correlation between wind speed in the middle of winter from AOD at Bac
Lieu and from southeastern China and northern Vietnam has the highest value (from +0.4 to +0.5). This result shows
the affect of East Asia winter monsoon to the AOD at Bac Lieu. On the basis of analysis of wind speed on the surface
and on the high levels for period of early winter and last winter showed the circulation period for accumulation of aerosol
particles high AOD value at Bac Giang station.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của hoàn lưu gió mùa mùa đông tới độ dày quang học sol khí tại Bạc Liêu và Bắc Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
266
34(3), 266-274 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 9-2012
ẢNH HƯỞNG CỦA HOÀN LƯU GIÓ MÙA
MÙA ĐÔNG TỚI ĐỘ DÀY QUANG HỌC SOL KHÍ
TẠI BẠC LIÊU VÀ BẮC GIANG
PHẠM XUÂN THÀNH, NGUYỄN XUÂN ANH,
ĐỖ NGỌC THÚY, LÊ VIỆT HUY
E-mail: pxthanh@igp-vast.vn
Viện Vật lý Địa cầu - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 25 - 4 - 2012
1. Mở đầu
Những thập kỷ gần đây, mức độ phát thải sol
khí (các hạt thể rắn hoặc lỏng tồn tại lơ lửng trong
không khí) vào khí quyển ngày càng tăng liên quan
đến quá trình phát triển công nghiệp của các quốc
gia. Nồng độ sol khí trong không khí tăng lên tác
động trực tiếp tới sức khoẻ và đời sống con người
do giảm chất lượng không khí, ngoài ra còn tác
động gián tiếp thông qua ảnh hưởng tới thời tiết,
khí hậu [12]. Sol khí hấp thụ và tán xạ năng lượng
bức xạ mặt trời làm thay đổi cân bằng năng lượng
mặt đất ảnh hưởng tới thời tiết khí hậu [2, 5, 8].
Ngược lại, điều kiện khí hậu, đặc biệt là gió và
mưa ảnh hưởng đến phân bố của sol khí, từ đó làm
thay đổi mật độ sol khí. Độ dày quang học sol khí
(đại lượng đặc trưng cho sự suy giảm của tia bức
xạ mặt trời do hấp thụ và tán xạ của các phần tử sol
khí) thường được sử dụng để nghiên cứu mối quan
hệ tương tác giữa sol khí và khí hậu thời tiết. Saha
và Moorthy, 2004 [9] thấy rằng những trận mưa
rào mạnh trong mùa khô có ảnh hưởng tới độ dày
quang học sol khí (AOD: Aerosol optical depth) và
kích thước của các phần tử sol khí. Liu và cộng sự,
2011[7] chứng minh rằng dị thường AOD khu vực
Đông Bắc và Đông Nam (nam) Trung Quốc có liên
quan đến cường độ hoạt động của gió mùa mùa hè
Ấn Độ. Độ dày quang học sol khí và mật độ các
hạt sol khí thô trên đảo Midway (trung tâm Thái
Bình Dương) phụ thuộc đáng kể vào tốc độ gió bề
mặt [10].
Việt Nam nằm trong khu vực các quốc gia đang
phát triển, quá trình phát thải các chất vào khí
quyển đa dạng về thành phần, phong phú về số
lượng. Thêm vào đó, chế độ hoàn lưu trên khu vực
Việt Nam rất phức tạp, nên sự vận chuyển sol khí
từ các vùng khác nhau của thế giới đến Việt Nam
và sự khuếch tán sol khí từ Việt Nam vào khí
quyển cũng rất đa dạng. Lin và cộng sự, 2007 [6]
cho rằng, trong mùa gió mùa Đông Bắc (từ tháng
10 đến tháng 4), các hạt sol khí mịn chủ yếu trên
khu vực Biển Đông Việt Nam có nguồn gốc từ các
hạt sol khí nhân tạo do đốt nhiên liệu trong khu
vực Đông Trung Quốc. Cohen và cộng sự, 2010 [3]
cho rằng 76% ngày quan sát thấy hiện tượng cực
đoan bụi gió (windblown dust) tại Hà Nội có
nguồn gốc từ sa mạc Taklamakan và Gobi, và 50%
số ngày quan sát thấy hiện tượng cực đoan của bụi
than tại Hà Nội có nguồn gốc từ 4 nhà máy nhiệt
điện khu vực phía đông Trung Quốc. Trên cơ sở từ
hai trạm quan trắc sol khí trong mạng trạm
AERONET (AErosol Robotic NETwork) của Cơ
quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đặt tại Bạc
Liêu và Bắc Giang, năm 2008, Nguyễn Xuân Anh
và Lê Việt Huy đã bước đầu đánh giá một số đặc
trưng cơ bản về sol khí thu được từ hai trạm này.
Năm 2011, Phạm Xuân Thành, Nguyễn Xuân Anh
và nnk, sử dụng số liệu AOD và số liệu mưa tại
Bạc Liêu để nghiên cứu ảnh hưởng của mưa tới độ
dày quang học sol khí. Kết quả cho thấy AOD
trong mùa mưa giảm đáng kể so với mùa khô. Trận
mưa đầu mùa năm 2003 làm giảm AOD từ 0,4
xuống 0,1. Giá trị AOD, tính trung bình từ năm
2003 đến 2009, trong 4 tháng mùa mưa (tháng 6, 7,
8, và 9), là 0,19, trong khi AOD trong 4 tháng mùa
khô (tháng 12, 1, 2 và 3) là 0,29. Để tiếp tục hướng
267
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng số liệu quan sát
sol khí tại Bắc Giang và Bạc Liêu và số liệu gió
khu vực châu Á trên các mực khác nhau của Trung
tâm Quốc gia dự báo môi trường Mỹ/Phòng năng
lượng (NCEP/DOE-2) để nghiên cứu ảnh hưởng
của hoàn lưu gió mùa mùa đông đến độ dày quang
học sol khí tại Bạc Liêu và Bắc Giang.
2. Cơ sở số liệu và phương pháp
2.1 Cơ sở số liệu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng hai
nguồn số liệu: (i) số liệu về độ dày quang học sol
khí của trạm Bắc Giang và Bạc Liêu; (ii) số liệu
gió của NCEP/DOE-2. Trạm quan trắc sol khí Bắc
Giang và Bạc Liêu nằm trong mạng trạm
AERONET của NASA (hình 1). Thiết bị sử dụng
để quan sát là quang phổ kế tự động CIMEL 318
do Pháp chế tạo. Thiết bị thực hiện hai phép đo cơ
bản là trực xạ và tán xạ. Phép đo được tiến hành
trong 10 giây và lặp lại 3 lần (triplet). Thời gian đo
được bắt đầu tự động khi khối lượng khí quyển (air
mass) bằng 7 vào buổi sáng và kết thúc vào buổi
chiều khi khối lượng quang học cũng bằng 7. Từ
chuỗi số liệu này, có thể tính được độ dày quang
học sol khí tại các dải phổ khác nhau (340, 380,
440, 500, 675, 870 và 1020nm), lượng hơi nước
trong khí quyển và thông số Angstrom (thông số
đặc trưng cho kích thước của hạt). Để đặc trưng
cho độ dày quang học sol khí tại Bạc Liêu và Bắc
Giang, chúng tôi sử dụng chuỗi số liệu AOD tại
bước sóng 500nm (AOD_500), thế hệ 2,0 (thế hệ
số liệu có chất lượng đảm bảo nhất). Thời gian sử
dụng số liệu từ năm 2003 đến năm 2009.
Hình 1. Mạng trạm quan sát sol khí toàn cầu (AERONET) của NASA
Số liệu tốc độ gió của NCEP/DOE-2 được lấy
trong khu vực châu Á có toạ độ (10°S-40°N; 80°E-
140°E), trên 10 mực độ cao (1000, 925, 850, 700,
600, 500, 400, 300, 250, và 200hPa), từ tháng 01
năm 2003 đến tháng 12 năm 2009. Nguồn số liệu
này dùng để thành lập bản đồ vận tốc gió tại các độ
cao, tính toán hệ số tương quan giữa vận tốc gió và
AOD, phân tích ảnh hưởng của tốc độ gió đến AOD.
2.2. Phương pháp
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương
pháp thống kê để xác định một số đặc trưng cơ bản
về độ dày sol khí như sau:
- Kỳ vọng mẫu x (trung bình số học) của chuỗi
quan trắc{ }tx với n phần tử:
∑
=
=
n
t
txn
x
1
1
- Phương sai mẫu Sx :
2
1
1
2)(1 ⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡ −= ∑
=
n
t
tx xxn
S
- Hệ số biến động Cv (hệ số biến thiên): đại
lượng phản ánh tương quan so sánh giữa mức độ
dao động trung bình Sx và độ lớn của chuỗi x.
%100.
x
S
C xv =
- Dị thường khí hậu: dị thường cao cấp 1
(DC1), dị thường cao cấp 2 (DC2) và dị thường
268
cao cấp 3 (DC3) được tính từ phương sai mẫu như
sau [4]:
DC1 = 1,84*S
DC2 = 2,05*S
DC3 = 2,35*S
- Hệ số tương quan mẫu:
∑∑
∑
==
=
−−
−−
=
n
t
t
n
t
t
n
t
tt
xx
n
xx
n
xxxx
nr
1
2
22
1
2
11
1
2211
12
)(1)(1
))((1
Trong đó 1x và 2x là giá trị trung bình của hai
biến khí quyển X1 và X2 với n cặp trị số quan sát:
{xt1, xt2} = {(x11, x12), (x21, x22), (xn1, xn2)}.
Chuỗi số liệu vận tốc gió ứng với các ngày
quan sát được AOD tại Bạc Liêu được sử dụng để
tính hệ số tương quan giữa vận tốc gió và AOD tại
từng nút lưới và lập các bản đồ tương quan (hình
5, 6).
3. Ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc tới AOD
tại Bạc Liêu
3.1. Biến đổi theo thời gian của AOD tại Bạc Liêu
Trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm
2009, trạm Bạc Liêu có 453 ngày ghi được số liệu
với tổng số 6157 lần đo. Giá trị trung bình
AOD_500 tính cho cả chuỗi số liệu này là 0,23.
Hình 2 biểu diễn giá trị trung bình AOD_500 của
0 50 100 150 200 250 300 350 400 450 500
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1
Ngày quan sát
Hình 2. Diễn biến độ dày quang học thời kỳ quan trắc
2003-2009 tại Bạc Liêu. Dấu “” chỉ ngưỡng dị thường
cao cấp 1, “c” dị thường cao cấp 2, “³” dị thường
cao cấp 3. Đường liền nét biểu diễn giá trị trung bình
453 ngày quan sát và các ngày ghi nhận được dị
thường của AOD. Kết quả cho thấy, hệ số biến
động của AOD giữa các ngày quan sát cao (Cv =
60%). Trong 453 ngày quan sát, có 35 ngày xảy ra
dị thường cao cấp 1; 24 ngày dị thường cao cấp 2
và 16 ngày dị thường cao cấp 3. Trong đó, đa phần
các dị thường (20 trên tổng số 35 dị thường cao cấp
1) xảy ra vào các tháng giữa mùa khô (các tháng
12,1 và 2). Điều này do trong các tháng mùa khô
không có mưa nên các phần tử sol khí không bị
cuốn trôi. Ngoài ra, còn có thể do khoảng thời gian
mùa khô trùng với mùa gió mùa Đông Bắc, hoàn
lưu gió mùa đưa các phần tử sol khí từ phương bắc
tới. Phần sau, chúng tôi sẽ minh giải cho nhận định
này bằng việc xét tương quan giữa AOD và tốc độ
gió khu vực châu Á.
Hình 3 biểu diễn biến trình ngày và biến trình
năm của AOD_500 quan sát tại Bạc Liêu trong giai
đoạn 2003-2009. Nhìn chung, AOD trong ngày
biến đổi không nhiều (hệ số biến động của AOD tại
bước sóng 500nm chỉ bằng 8%). AOD_500 dao
động quanh giá trị trung bình 0,23. Giá trị thấp
nhất trong ngày rơi vào khoảng 10 giờ và cao nhất
trong khoảng 16 giờ. Ngược lại, biến trình năm của
AOD thay đổi đáng kể từ mùa khô sang mùa mưa.
Tính trung bình từ năm 2003 đến năm 2009, sự
chênh lệch AOD_500 giữa 3 tháng mùa đông
(tháng 12, 1, 2) và 3 tháng mùa hè (tháng 6, 7, 8),
là 0,13.
3.2. Gió mùa mùa đông
Mùa gió mùa mùa đông khu vực Đông Á
thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Nguồn gốc của gió mùa mùa đông là từ áp cao
lạnh Siberi - Mongoli (Mông Cổ). Theo sự phát
triển của các lưỡi áp cao từ tâm áp cao này, không
khí cực đới tràn xuống phía nam theo từng đợt (đợt
không khí lạnh). Nửa đầu mùa đông (các tháng 10,
11, 12) luồng gió này di chuyển thẳng theo đường
lục địa Trung Quốc tới Việt Nam theo hướng đông,
đông bắc, tạo thành kiểu thời tiết lạnh khô (hanh)
trên khu vực miền Bắc. Ngược lại, nửa cuối mùa
đông (các tháng 1, 2, 3), luồng gió di chuyển theo
đường vòng, qua biển Nhật Bản, Biển Đông Trung
Hoa, qua vịnh Bắc Bộ vào miền Bắc theo hướng
đông đến đông - nam (hình 4). Khi vào tới đất liền,
luồng khí đã bão hoà này tạo nên kiểu thời tiết lạnh
ẩm (mưa phùn) rất đặc trưng của khu vực miền
Bắc Việt Nam [11]. Trong khi đó, trên khu vực
miền Nam, dù là đầu mùa hay cuối mùa, gió đều có
hướng đông bắc ổn định.
Đ
ộ
dà
y
qu
an
g
họ
c
so
l k
hí
269
5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 180
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
a
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
b
Hình 3. Biến trình ngày (a) và biến trình năm (b) của AOD_500 tại trạm Bạc Liêu thời kỳ 2003-2009
a)
96oE 104oE 112oE 120oE 128oE 0
o
6oN
12oN
18oN
24oN
30oN
b)
96oE 104oE 112oE 120oE 128oE 0
o
6oN
12oN
18oN
24oN
30oN
Hình 4. Bản đồ vận tốc gió mực 925hPa trung bình các tháng 10, 11, 12 (a),
trung bình các tháng 1, 2, 3 (b), thời kỳ 1979-2004
3.3. Quan hệ giữa gió mùa mùa đông và AOD tại
Bạc Liêu
Hình 5 biểu diễn tốc độ gió tại 1000hPa khu
vực châu Á trung bình trong những ngày quan sát
được AOD trong khoảng thời gian giữa mùa đông
(tháng 12, 1 và 2) từ năm 2003 đến 2009 (mũi tên)
và tương quan giữa chuỗi số liệu gió này với chuỗi
số liệu AOD trạm Bạc Liêu (đường liền nét). Kết
quả cho thấy, luồng gió đến khu vực miền Nam
Việt Nam được bắt nguồn từ khu vực Đông Trung
Quốc qua khu vực Bắc Biển Đông. Kết quả tương
quan cho thấy AOD tại Bạc Liêu có tương quan
mật thiết với tốc độ gió tại khu vực Bắc Việt Nam
và Đông Nam Trung Quốc (một trong những khu
vực có AOD lớn nhất trên toàn cầu). Trong đó,
tương quan lớn nhất tại khu vực Nam Trung Quốc
(vỹ độ 22.5°N-25°N ; 110°E-112.5°N) đạt tới hơn
+0,5. Trên khu vực vịnh Bắc Bộ cũng đạt từ +0,4
đến +0,5. Có nghĩa là tốc độ gió tại khu vực Đông
Nam Trung Quốc lớn tương ứng với AOD trên khu
vực miền Nam lớn. Điều này chứng tỏ rằng, gió
mùa đông khu vực Đông Á có ảnh hưởng đến độ
dày quang học sol khí khu vực Bạc Liêu. Ngoài ra,
trên hình 5, chúng ta cũng có thể quan sát thấy một
vùng có trị số tương quan âm trên khu vực miền
Tây Nam Bộ và vịnh Thái Lan. Điều này có thể lý
giải rằng, gió tại khu vực này làm khuếch tán các
phần tử sol khí và làm giảm AOD.
Giờ
Đ
ộ
dà
y
qu
an
g
họ
c
so
l k
hí
Đ
ộ
dà
y
qu
an
g
họ
c
so
l k
hí
Tháng
270
0.
2
0.2
0.
2
0.2
0.2
0.2
0.
2
0.
2
0.
3
0.3
0.3
0.3
0.3
0.3
0.4
0.4
0.4
0.5
−0.4
−0.3
−0.2
−
0.
2
−0.2
−
0.
1
−0.1
−0.1
−0.1
−0.1
−0.1
−0.1
−0.1
84oE 96oE 108oE 120oE 132oE 10
oS
0o
10oN
20oN
30oN
40oN
Trên bản đồ tương quan giữa trường gió mực
925hPa và AOD khu vực Nam Bộ (hình 6), chúng
ta cũng quan sát thấy kết quả tương tự như tại
mặt đất. Tuy nhiên, mức độ tương quan âm trên
khu vực vịnh Thái Lan ở mực 925hPa cao hơn ở
mặt đất.
0.
2
0.2
0.2
0.2
0.2
0.
2
0.2
0.2
0.3 0
.3
0.3
0.3
0.3
0.4
0.4
0.4
0.5
−0.4
−0.3
−0.3
−
0.
2
−0.2
−0.2
−0.2
−0.1
−
0.1
−0.1
−0.1
−0.1
−0.1
−0.1
−0.1
−0.1
84oE 96oE 108oE 120oE 132oE 10
oS
0o
10oN
20oN
30oN
40oN
4. Ảnh hưởng của gió mùa mùa đông tới AOD
tại Bắc Giang
4.1. Biến đổi theo thời gian của AOD tại Bắc Giang
Trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm
2009, trạm Bắc Giang có 634 ngày ghi được số liệu
với tổng số 11829 lần đo. Giá trị trung bình
AOD_500 tính cho cả chuỗi số liệu này là 0,68.
Hình 7 trình bày giá trị trung bình AOD_500 của
634 ngày quan sát, và các ngày ghi nhận được dị
thường của AOD. Kết quả cho thấy, hệ số biến
động của AOD giữa các ngày quan sát là rất lớn
← Hình 5. Vận tốc gió (mũi tên)
trung bình các ngày quan sát được AOD
trong các tháng mùa đông (12, 1 và 2) mực
1000hPa và tương quan giữa tốc độ gió và
AOD trạm Bạc Liêu. Đường nét liền: tương
quan +, đường nét đứt: tương quan -
→ Hình 6. Vận tốc gió (mũi tên) trung bình
các ngày quan sát được AOD trong các
tháng mùa đông (12, 1 và 2) mực 925hPa,
và tương quan giữa tốc độ gió và AOD trạm
Bạc Liêu. Đường nét liền: tương quan +,
đường nét đứt: tương quan -
271
0 50 100 150 200 250 300 350 400 450 500 550 600 650
0
0.3
0.6
0.9
1.2
1.5
1.8
2.1
2.4
2.7
3
Ngày quan sát
Hình 7. Diễn biến độ dày quang học thời kỳ quan trắc
2003-2009 tại Bắc Giang. Dấu “” chỉ ngưỡng dị thường
cao cấp 1, “c” dị thường cao cấp 2, “³” dị thường
cao cấp 3. Đường liên nét biểu diễn giá trị trung bình
(Cv = 65%). Trong 634 ngày quan sát, có 38 ngày
xảy ra dị thường cao cấp 1; 27 ngày dị thường cao
cấp 2 và 16 ngày dị thường cao cấp 3. Các dị
thường này chủ yếu xảy ra vào khoảng thời gian
đầu mùa đông (tháng 10) và cuối mùa đông (tháng
2, 3).
Biến trình ngày và biến trình năm của
AOD_500 tại Bắc Giang thể hiện trên hình 8.
Trong một ngày, buổi sáng AOD thấp, tăng lên đến
cực đại trong khoảng 8 giờ và giữ ổn định cho đến
15 giờ, sau đó AOD lại giảm. Giá trị AOD_500
trung bình ngày là 0,68, cao hơn giá trị trung bình
tại Bạc Liêu là 0,45 (giá trị trung bình ngày tại Bạc
Liêu là 0,23). Biến trình năm của AOD tại Bắc
Giang có 2 cực đại và 2 cực tiểu. Cực đại thứ nhất
vào tháng 2 và 3, cực đại thứ hai vào tháng 10. Cực
tiểu chính vào các tháng giữa mùa mưa (tháng 5, 6,
7 và 8) trong đó tháng 7 có trị số thấp nhất. Cực
tiểu phụ vào các tháng giữa mùa khô (tháng 12 và
1). Chênh lệch giữa tháng cực đại và cực tiểu (giữa
tháng 10 và tháng 7) rất lớn (0,76). Các tháng có
AOD đạt cực đại trùng với thời kỳ đầu mùa đông
(tháng 10) và cuối mùa đông (tháng 2, 3). Trong
phần tiếp theo, chúng tôi sẽ phân tích điều kiện
hoàn lưu trong các tháng cực đại AOD để thấy rõ
ảnh hưởng của hoàn lưu tới mức độ tập trung của
các phẩn tử sol khí khu vực Bắc Giang.
5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18
0
0.3
0.6
0.9
1.2
1.5
a
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
0
0.3
0.6
0.9
1.2
1.5
b
Hình 8. Biến trình ngày (a) và biến trình năm (b) của AOD_500 tại trạm Bắc Giang thời kỳ 2003-2009
4.2. Ảnh hưởng của gió mùa mùa đông đến AOD
tại Bắc Giang
Để thấy được ảnh hưởng của hoàn lưu khu vực
tới phân bố của AOD tại Bắc Giang, dựa vào số liệu
gió của NCEP/DOE-2, chúng tôi thành lập: (i) Bản
đồ vận tốc gió tại mặt đất khu vực châu Á trong các
tháng 10 và tháng 3 (tương ứng với khoảng thời gian
cực đại của AOD); (ii) Profile vận tốc gió theo chiều
cao tại khu vực miền Bắc (tọa độ 20°N-22.5°N,
105°E-107.5°E). Quan sát profile gió theo chiều cao
ta thấy trong các tháng mùa mưa, từ tháng 5 đến
tháng 9, dòng thăng xuất hiện ở tất cả các độ cao từ
mặt đất cho đến độ cao mực 200hPa (hình 9). Mây
đối lưu phát triển từ dòng thăng này thường xuyên
tạo ra các đợt mưa rào và dông. Kết quả là các phần
Giờ
Đ
ộ
dà
y
qu
an
g
họ
c
so
l k
hí
Đ
ộ
dà
y
qu
an
g
họ
c
so
l k
hí
Tháng
Đ
ộ
dà
y
qu
an
g
họ
c
so
l k
hí
272
tử sol khí liên tục bị cuốn trôi theo các hạt nước mưa
(quá trình sa lắng ẩm [12]), dẫn đến AOD các tháng
mùa mưa thấp (trung bình AOD tại Bắc Giang các
tháng này là 0,54).
J F M A M J J A S O N D
1000
925
850
700
600
500
400
300
250
200
a
J F M A M J J A S O N D
1000
925
850
700
600
500
400
300
250
200
b
Hình 9. Profile vận tốc gió khu vực miền Bắc (tọa độ 20°N-22.5°N; 105°E-107.5°E) thời kỳ 2003-2009:
a) thành phần U và W; b) thành phần V và W
Trên bản đồ mặt đất (hình 10a) cho thấy, trong
tháng 10, gió có hướng đông bắc thổi từ phần lục
địa phía Đông Trung Quốc tới miền Bắc Việt Nam,
luồng gió thăng lên (hình 9). Tuy nhiên, dòng
thăng này chỉ phát triển tới độ cao 850hPa. Điều
kiện hoàn lưu này làm hình thành một tầng kết
nhiệt ổn định, tạo kiểu thời tiết hanh khô trên khu
vực miền Bắc Việt Nam. Không khí khô, chứa
nhiều bui tại mặt đất được gió đưa lên trên cao và
giữ lại ở đó. Quá trình này không bị gián đoạn bởi
mưa nên các phần tử sol khí không bị mưa rửa trôi
và kết quả là AOD thời gian này rất cao. Tương tự
như vậy, trong tháng 2 và 3, gió thổi từ vùng biển
phía Đông Trung Quốc vòng qua vịnh Bắc Bộ tới
miền Bắc Việt Nam (hình 10b), luồng gió này
thăng lên và cũng bị chặn lại ở độ cao mực 850hPa
(hình 9). Không khí bão hoà hơi nước đi lên và bị
chặn lại, tạo thành một lớp mây, mưa (mưa phùn)
từ mặt đất đến độ cao khoảng 1,5km (dưới
850hPa). Các phần tử sol khí tích tụ trong suốt
mùa khô trong lớp không khí sát đất được đưa
vào trong mây tạo thành một lớp mây có nồng độ
rất cao của các phần tử sol khí (một trong những
loại mây bẩn nhất thế giới - nhận định của TS.
Jeffrey S. Reid (Phòng thí nghiêm Hải quân Mỹ),
trong chuyến khảo sát thực địa cùng các
chuyên gia Việt Nam tại vịnh Hạ Long tháng 3
năm 2012).
a
96oE 104oE 112oE 120oE 128oE 0
o
6oN
12oN
18oN
24oN
30oN
b
96oE 104oE 112oE 120oE 128oE 0
o
6oN
12oN
18oN
24oN
30oN
Hình 10. Bản đồ vận tốc gió trung bình mực 1000hPa tháng 10 (a) và tháng 3 (b) thời kỳ 2003-2009
Tháng
M
ự
c
áp
s
uấ
t (
hP
a)
M
ự
c
áp
s
uấ
t (
hP
a)
Tháng
273
Như vậy, điều kiện hoàn lưu trong gió mùa
mùa đông thời kỳ đầu mùa (tháng 10) và cuối mùa
(tháng 2, 3) tạo điều kiện cho sự tích tụ phần tử sol
khí trong khí quyển tầng thấp khu vực miền Bắc
Việt Nam làm cho AOD thời kỳ này rất cao.
5. Kết luận
Mục đích của bài báo này là nghiên cứu ảnh
hưởng của hoàn lưu gió mùa mùa đông khu vực
Đông Á tới độ dày quang học sol khí tại Bắc Giang
và Bạc Liêu. Để thực hiện điều này, trước hết
chúng tôi xác định biến đổi theo thời gian của
AOD hai trạm Bắc Giang và Bạc Liêu từ chuỗi số
liệu thời kỳ (từ năm) 2003-2009. Sau đó xác định
tương quan giữa AOD trạm Bạc Liêu với vận tốc
gió khu vực Đông Á, mối quan hệ giữa quy luật
biến đổi AOD trạm Bắc Giang và gió mùa mùa
đông. Kết quả cụ thể có thể tóm tắt như sau:
- Giá trị trung bình của AOD tại bước sóng
500nm quan sát được tại trạm Bạc Liêu là 0,23.
Chênh lệch giữa 3 tháng cực đại AOD (tháng 1, 2
và 3) và 3 tháng cực tiểu (tháng 6, 7 và 8) là 0,13.
Tương quan giữa tốc độ gió khu vực Đông Nam
Trung Quốc và Bắc Việt Nam với AOD khu vực
Bạc Liêu trong các tháng giữa mùa đông (tháng 12,
1 và 3) đạt cao nhất trong khu vực (có giá trị từ
+0,4 đến +0,5). Điều này cho thấy gió mùa mùa
đông khu vực Đông Á có ảnh hưởng đến độ dày
quang học sol khí tại Bạc Liêu.
- Giá trị trung bình của AOD tại bước sóng
500nm quan sát được tại Bắc Giang trong giai đoạn
2003-2009 là 0,68. Các tháng đầu mùa đông (tháng
10) và cuối mùa đông (tháng 2, 3) có AOD cao nhất
trong năm (có AOD tại Bắc Giang cao nhất trong
năm). Hoàn lưu thời kỳ đầu và cuối mùa đông trên
khu vực miền Bắc Việt Nam tạo điều kiện cho việc
tích tụ các phần tử sol khí tại khu vực này làm cho
độ dày quang học sol khí ở đây tăng cao.
Những kết quả trên đã chứng minh ảnh hưởng
của hoàn lưu gió mùa mùa đông khu vực Đông Á
tới độ dày quang học sol khí tại Bắc Giang và
Bạc Liêu.
Lời cảm ơn: Bài báo được hoàn thành với sự trợ
giúp kinh phí của đề tài nghiên cứu cơ bản
“Nghiên cứu khả năng dự báo ngày bắt đầu gió
mùa mùa hè - mùa mưa trên khu vực Nam Bộ”
thuộc quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ Quốc
gia (NAFOSTED) và đề tài nghiên cứu cơ bản định
hướng ứng dụng: “Nghiên cứu đánh giá thông
lượng và các đặc trưng cơ bản của sol khí (aerosol)
và đề xuất các giải pháp ứng dụng nhằm nâng cao
chất lượng công tác dự báo thời tiết, ứng phó biến
đổi khí hậu và bảo vệ môi trường”. Trong bài báo
có sử dụng số liệu AERONET của NASA và số
liệu của NCEP. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến
các tổ chức trên.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyễn Xuân Anh, Lê Việt Huy, 2008:
Nghiên cứu aerosol qua trạm Bắc Giang và Bạc
Liêu. Tuyển tập các công trình nghiên cứu vật lý
địa cầu 2008, tr.307-320.
[2] Chung C.E., Ramanathan V., Kim D.,
Podgorny I.A., 2005: Global anthropogenic aerosol
direct forcing derived from satellite and ground-based
observations. Journal of Geophyical Research, Vol.
110, D24207, doi:10.1029/2005JD006356, 2005.
[3] Cohen D.D., Jagoda C., Eduard S., Vuong
Thu Bac, 2010: Long range transport of fine
particle windblown soils and coal fired power
station emissions into Hanoi between 2001 to
2008. Atmospheric Environment 44, 3761-3769.
[4] Nguyễn Trọng Hiệu, Phạm Thanh Hương,
Lê Thị Bảo Ngọc, 2005: Một số dị thường khí hậu
tiêu biểu ở Việt Nam thời kỳ 1961-2000. Tạp chí
Khí tượng Thủy văn, tr.1-9.
[5] Lau K.-M., et al, 2008: The joint Aerosol-
Monsoon Experiment: A New Challenge for
Monsoon Climate Research. Bulletin of the
American Meteorological Society, Vol 89, 369-383.
[6] I-I Lin, Chen J.-P, George T.F.W, Huanga
C.W, Lien C.C, 2007: Aerosol input to the South
China Sea: Results from the MODerate Resolution
Imaging Spectro-radiometer, the Quick
Scatterometer, and the Measurements of Pollution
in the Troposphere Sensor. ScienceDirect, Deep-
Sea Research II 54 (2007) 1589-1601.
[7] Liu X., Yan K., Yang P., Yin Z.-Y., and
North G. R, 2011: Influence of Indian Summer
Monsoon on Aerosol Loading in East Asia.
J. Appl. Meteor. Climatol., 50, 523-533.
[8] Ramanathan V., et al, 2005: Atmospheric
brown clouds: Impact on South Asian climate and
hydrologic cycle. Proc. Natl. Acad. Sci. USA, 102,
5326-5333.
274
[9] Saha A. and Moorthy K.K., 2004: Impact of
Precipitation on Aerosol Spectral Optical Depth
and Retrieved SizeDistributions: A Case Study.
Journal of Applied Meteorology, Vol 43, 902-914.
[10] Smirnov A., Holben B. N., Eck T. F.,
Dubovik O., and Slutsker I., 2003: Effect of wind
speed on columnar aerosol optical properties at
Midway Island. Journal of Geophysical Research,
Vol. 108, No. D24, 4802, doi:10.1029/2003JD003879.
[11] Pham Xuan Thanh, 2008. Étude climatique
de la mousson vietnamienne et applications à la
prévísion saisonnière. Centre de Recherches de
Climatologie, Université de Bourgogne, France,
207p.
[12] Phạm Xuân Thành, Nguyễn Xuân Anh, Lê
Việt Huy, Lê Như Quân, Hoàng Hải Sơn, Phạm Lê
Khương, 2011: Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới
độ dày quang học sol khí tại Bạc Liêu. Tạp chí Các
Khoa học về Trái Đất, 33(1), tr.10-17.
SUMMARY
Impact of winter monsoon circulations on aerosol optical depth in Bac Lieu and Bac Giang
Impact of winter monsoon circulations on aerosol optical depth (AOD) in Bac Giang and Bac Lieu stations are
analyzed through the wind speed data series of the National Center for Environmental Prediction/Department of Energy
(NCEP/DOE-2) and the AOD data obtained from AERONET stations network (AErosol RObotic NETwork) of the
National Aeronautic and Space Administration (NASA) in Bac Giang and Bac Lieu. To accomplish this, first we defined
the rules change over time of AOD at Bac Giang and Bac Lieu stations. The correlation between AOD at Bac Lieu
station with wind speed of Asia, and the relationship between the rules of variation of AOD at Bac Giang station and the
winter monsoon are determined. The results show that the value of AOD at Bac Lieu in the middle of winter (December,
January and February) is the highest while the value of AOD at Bac Giang in the early winter (October) and the last
winter (February, March) is the highest. The correlation between wind speed in the middle of winter from AOD at Bac
Lieu and from southeastern China and northern Vietnam has the highest value (from +0.4 to +0.5). This result shows
the affect of East Asia winter monsoon to the AOD at Bac Lieu. On the basis of analysis of wind speed on the surface
and on the high levels for period of early winter and last winter showed the circulation period for accumulation of aerosol
particles high AOD value at Bac Giang station.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2542_8333_1_pb_8139_2108020.pdf