Cần nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ương
lên tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá khoang
cổ cam giai đoạn cá bột.
Cần nghiên cứu ảnh hưởng một số yếu tố
môi trường như: nhiệt độ, độ mặn, chế độ chiếu
sáng,. nhằm tạo môi trường thích hợp cho ương
giống cá khoang cổ cam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 841 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của mật độ lên sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá khoang cổ cam amphiprion percula (lacepede, 1801) giai đoạn giống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10
Soá 9, thaùng 6/2013 10
Khoa hoïc Coâng ngheä
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ LÊN SINH TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG
 CỦA CÁ KHOANG CỔ CAM Amphiprion percula (Lacepede, 1801) 
GIAI ĐOẠN GIỐNG
Trần Thị Lê Trang*
Nguyễn Thị Hà Trang**
Tóm tắt
Trong nghiên cứu này, 5 nghiệm thức được thử nghiệm nhằm tìm ra mật độ ương thích hợp cho cá 
khoang cổ cam giai đoạn giống (1, 2, 3, 4 và 5 con/L). Kết quả cho thấy, cá được ương ở mật độ 1, 2 và 
3 con/L đạt tốc độ sinh trưởng đặc trưng cao nhất (1,14; 1,05 và 0,98%/ngày), tiếp theo là ương ở mật 
độ 4 con/L (0,79%/ngày), thấp nhất là ở mật độ 5 con/L (0,51%/ngày); (p < 0,05). Tương tự, cá được 
ương ở mật độ 1, 2 và 3 đạt chiều dài cuối cao nhất (25,63; 24,90 và 24,41 mm), tiếp theo là ở mật độ 
ương 4 con/L (23,03 mm) và thấp nhất là ở 5 con/L (21,20 mm); (p < 0,05). Tỉ lệ sống của cá đạt được 
cao nhất ở mật độ ương 1, 2 và 3 con/L (100; 100 và 94,44%), tiếp theo là ở mật độ ương 4 con/L (71%) 
và thấp nhất là 5 con/L (50%). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, mật độ ương thích hợp cho cá khoang 
cổ cam giai đoạn giống là 3 con/L nhằm đảm bảo tốc độ sinh trưởng, tỉ lệ sống và hiệu quả kinh tế.
Từ khóa: mật độ ương, tốc độ sinh trưởng, tỉ lệ sống, cá khoang cổ cam, Amphiprion percula.
Abstract
In this study, the five different densities experimented has been conducted in order to identify the 
most suitable density for rearing juvenile orange clownfish (1, 2, 3, 4 and 5 ind./L). Results showed that 
the fish reared at the densities of 1, 2 and 3 ind./L had the highest specific growth rate (1,14; 1,05 and 
0,98%/day), the less is at 4 ind./L (0,79%/day) and the lowest at 5 ind./L (0,51%/ngày) with (p < 0,05). 
Similarly, the fish reared at the densities of 1, 2 and 3 ind./L had the highest length (25,63; 24,90 and 
24,41 mm), the less is at 4 ind./L (23,03 mm) and the lowest at 5 ind./L (21,20 mm) with p < 0,05. Fi-
nally, the fish reared at the densities of 1, 2 and 3 ind./L obtained the highest survival rate (100; 100 và 
94,44%), the less is at 4 ind./L (71%) and the lowest at 5 ind./L (50%). Such results show that, in order 
to optimize the growth, survival rate and economic efficiency, the juvenile orange fish should be reared 
at 3 ind./L which is the most appropriate density. 
Key words: density, growth rate, survival rate, orange clownfish, Amphiprion percula.
*Khoa Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 
**Trung tâm Thí nghiệm Thực hành - Trường Đại học Nha Trang 
1. Đặt vấn đề
Cá khoang cổ cam (Amphiprion percula) là 
một trong những loài cá cảnh được ưa chuộng 
nhất trong giống cá khoang cổ do chúng có màu 
sắc sặc sỡ và khả năng thích nghi cao trong điều 
kiện nuôi nhốt (Allen, 1972; Hoff, 1996). Nhìn 
chung, cá khoang cổ cam có giá cao hơn từ ba 
đến năm lần so với các loài cá khoang cổ khác, 
dao động từ 200 - 400 ngàn đồng/con (Johnston, 
2000). Do nhu cầu thị trường cao trong khi khả 
năng cung cấp con giống nhân tạo hạn chế đã 
làm gia tăng nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi tự nhiên 
của nhiều loài cá cảnh, nhất là trong trường hợp 
sử dụng các biện pháp khai thác mang tính hủy 
diệt (Hà Lê Thị Lộc, 2005). Để khắc phục vấn 
đề này, nhiều nước như Thái Lan, Philippines 
và Malaysia đã và đang quan tâm nghiên cứu 
sinh sản nhân tạo nhiều loài cá khoang cổ, trong 
đó có cá khoang cổ cam. Ở nước ta, các nghiên 
cứu về sinh sản nhân tạo được bắt đầu từ năm 
2000 và đã đạt được những thành công nhất định 
trên 3 đối tượng chính là cá khoang cổ đen đuôi 
vàng (A. clarkii), cá khoang cổ đỏ (A. frenatus) 
và cá khoang cổ nemo (A. ocellaris) (Hà Lê Thị 
Lộc, 2005; Hà Lê Thị Lộc và Nguyễn Thị Thanh 
Thủy, 2009). 
Việc ương nuôi cá cảnh nói chung và cá 
khoang cổ nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố 
như: hệ thống, kỹ thuật nuôi, dinh dưỡng, mật 
độ ương, các yếu tố môi trường và dịch bệnh 
(Allen, 1972; Hoff, 1996; Johnston, 2000). 
Trong đó, mật độ ương là một trong những yếu 
tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế và 
kỹ thuật nuôi. Việc gia tăng mật độ ương giúp 
11
Soá 9, thaùng 6/2013 11
Khoa hoïc Coâng ngheä
tận dụng tốt diện tích nuôi, gia tăng hiệu quả 
kinh tế, tuy nhiên, nó lại đi kèm với nhiều rủi 
ro như làm giảm tốc độ sinh trưởng, tỉ lệ sống, 
đồng thời làm tăng tỉ lệ phân đàn và nguy cơ 
ô nhiễm môi trường nuôi, đặc biệt trong điều 
kiện ương nuôi với mật độ cao (EI-Sayed, 1995; 
Johnston, 2000 Li và ctv., 2012). Tuy nhiên, các 
nghiên cứu về mật độ ương trên cá khoang cổ 
nói chung còn rất hạn chế, đặc biệt là trên loài 
cá khoang cổ cam. Nghiên cứu được thực hiện 
nhằm xác định mật độ ương thích hợp cho ương 
nuôi cá khoang cổ cam giai đoạn cá giống góp 
phần nâng cao tốc độ sinh trưởng, tỉ lệ sống và 
hiệu quả ương nuôi loài cá này.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu là loài cá khoang 
cổ cam (A. percula) giai đoạn giống (60 ngày 
tuổi) với chiều dài toàn thân 18,19 ± 0,08 mm. 
Nguồn cá thí nghiệm được sản xuất tại Trại Thực 
nghiệm, Trường Đại học Nha Trang. Cá đưa vào 
thí nghiệm là những cá thể khỏe mạnh, vận động 
linh hoạt, đồng cỡ, không dị hình, màu sắc tự 
nhiên. Nguồn nước cho thí nghiệm được bơm 
trực tiếp từ biển, xử lý bằng phương pháp lắng, 
lọc và chlorine 20 ppm trước khi sử dụng.
2.2. Bố trí thí nghiệm
Nghiên cứu được thực hiện với năm nghiệm 
thức: 1, 2, 3, 4 và 5 con/L. Cá được nuôi trong 
các bể thủy tinh với thể tích 10 L/bể, kết hợp sử 
dụng cục lọc sinh học (bio - filter) nhằm ổn định 
chất lượng nước (Hình 1). Thời gian ương là 
60 ngày trong điều kiện chiếu sáng nhân tạo 12 
sáng: 12 tối. Tất cả các nghiệm thức được thực 
hiện với ba lần lặp cùng thời điểm.
Hình 1. Bố trí thí nghiệm trong các bể thủy tinh 
có lọc sinh học (bio – filter)
Tất cả các lô thí nghiệm đều được cho ăn 
Artemia xen kẽ với thức ăn tổng hợp VANNA 
(INVE, Thái Lan). Trong đó, cá được cho ăn ấu 
trùng Artemia 2 lần/ngày (7.00 và 14.00 giờ) với 
lượng 3 – 5 con/mL. Thức ăn tổng hợp VANNA 
được cho ăn 2 lần/ngày (10.00 và 17.00 giờ) với 
lượng 5 – 7% khối lượng thân. Hằng ngày, bể 
ương được tiến hành xi-phông kết hợp với thay 
nước 30 - 50%. Các yếu tố môi trường nước 
như độ mặn, nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, NH
3
+ và 
NO2- được kiểm tra và duy trì ổn định trong suốt 
quá trình thí nghiệm ở tất cả các nghiệm thức.
2.3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu 
Phương pháp xác định tốc độ sinh trưởng
Để xác định tốc độ sinh trưởng, cá được gây 
mê bằng dung dịch MS-222 10% và dùng giấy 
thấm loại bỏ hết nước trước khi tiến hành đo 
chiều dài. Chiều dài toàn thân, khoảng cách từ 
mõm cá đến cuối vây đuôi, được xác định bằng 
thước có độ chính xác 1 mm. 
Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về chiều dài 
(SGR) được xác định theo công thức:
Trong đó: 
SGR: tốc độ tăng trưởng đặc trưng về chiều 
dài (%/ngày).
L1: chiều dài của cá ở thời điểm T1 (mm).
L2: chiều dài của cá ở thời điểm T2 (mm).
Phương pháp xác định tỉ lệ sống
Tỉ lệ sống được xác định bằng cách đếm toàn 
bộ số cá tại thời điểm kết thúc thí nghiệm và tính 
toán theo công thức:
Trong đó:
S: Tỉ lệ sống của cá (%).
Sc: Số cá còn lại khi kết thúc thí nghiệm 
(con).
Sđ: Số cá ban đầu (con).
100 SGR
12
12 x
TT
LnLLnL
S = 
Sđ
Sc x 100 
12
Soá 9, thaùng 6/2013 12
Khoa hoïc Coâng ngheä
Phương pháp xác định các yếu tố môi trường
Các yếu tố môi trường như nhiệt độ nước, 
hàm lượng oxy hòa tan (đo 1 lần/ngày), pH, 
hàm lượng NO2- và NH3 (đo 2 lần/tuần) được 
kiểm tra định kỳ bằng các dụng cụ (nhiệt kế, test 
oxy, pH, test nitrit và test ammonium) và duy trì 
trong phạm vi thích hợp với sự sinh trưởng và 
phát triển của cá.
Phương pháp xử lí số liệu
Các số liệu sau khi thu thập được phân tích 
bằng phép phân tích phương sai một yếu tố 
(ANOVA) trên phần mềm SPSS 16.0. Khi có sự 
khác biệt giữa các giá trị trung bình về chiều dài, 
tốc độ tăng trưởng đặc trưng và tỉ lệ sống của 
c 
c 
b 
bc 
a 
c c bc b 
a 
các nghiệm thức, phép kiểm định Duncan’s Test 
được sử dụng để xác định sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với mức ý nghĩa p < 0,05. Tất cả các số 
liệu trong thí nghiệm được trình bày dưới dạng 
Trung bình (Mean) ± Sai số chuẩn (SE).
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
3.1. Các yếu tố môi trường trong thí nghiệm
Nhìn chung, các yếu tố môi trường được duy 
trì ổn định và thích hợp với sinh trưởng của cá 
khoang cổ cam trong suốt quá trình thí nghiệm. 
Nhiệt độ dao động từ 28 – 30oC, pH từ 7,8 – 8,3, 
hàm lượng oxy hòa tan 5 – 6,5 mg O2/L, hàm 
lượng NH3 (< 0,01 mg/L) và hàm lượng NO2- (< 
0,1 mg/L) (Bảng 1). 
Bảng 1: Biến động các nhân tố môi trường nước
Nhiệt độ (oC) pH Độ mặn
(‰)
NH3+
(mg/l)
NO2-
(mg/l)
Oxy hòa 
tan (mg/l)
28 – 30 7,8 – 8,3 31 – 32 0 – 0,01 0 – 0,1 5 – 6,5
3.2. Tốc độ sinh trưởng của cá khoang cổ cam
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mật độ ương có 
ảnh hưởng lớn đến tốc độ sinh trưởng đặc trưng 
về chiều dài toàn thân của cá khoang cổ cam. 
Trong đó, cá được nuôi ở mật độ 1, 2 và 3 con/L 
cho tốc độ sinh trưởng đặc trưng cao nhất (1,14; 
1,05 và 0,98%/ngày), tiếp theo là ương ở mật độ 
4 con/L (0,79%/ngày) và thấp nhất là ở mật độ 5 
con/L (0,51%/ngày); (p < 0,05) (Hình 2). 
Hình 2. Ảnh hưởng của mật độ ương đến tốc độ 
sinh trưởng đặc trưng của cá khoang cổ cam
Các kí tự chữ cái khác nhau trên cột thể hiện 
sự khác biệt thống kê (p < 0,05)
Tương tự, mật độ ương cũng ảnh hưởng đến 
chiều dài cuối của cá. Trong đó, cá được nuôi 
ở mật độ 1, 2 và 3 con/L đạt chiều dài lớn nhất 
(25,63; 24,90 và 24,41 mm), tiếp theo là ương ở 
mật độ 4 con/L (23,03 mm) và thấp nhất là ở mật 
độ 5 con/L (21,20 mm); (p < 0,05) (Hình 3). 
Hình 3. Ảnh hưởng của mật độ ương đến chiều 
dài cuối của cá khoang cổ cam
Các kí tự chữ cái khác nhau trên cột thể hiện 
sự khác biệt thống kê (p < 0,05)
Tốc độ sinh trưởng chậm ở các lô thí nghiệm 
ương với mật độ cao hơn (4 và 5 con/L) có thể 
do sự cạnh tranh thức ăn, không gian sống chật 
hẹp, cá bị stress, hàm lượng ôxy hòa tan thấp, 
suy giảm chất lượng nước,... Ngoài ra, việc gia 
tăng mật độ nuôi còn làm giảm hiệu quả sử dụng 
13
Soá 9, thaùng 6/2013 13
Khoa hoïc Coâng ngheä
c 
b 
a 
c c 
thức ăn, hàm lượng một số loại hormone sinh 
trưởng, khả năng tiêu hóa thức ăn và tỉ lệ ăn mồi 
ở cá. (EI-Sayed, 1995).
3.3. Tỉ lệ sống của cá khoang cổ cam
Tỉ lệ sống của cá khoang cổ cam cũng chịu 
ảnh hưởng lớn bởi mật độ ương. Sau 60 ngày thí 
nghiệm, cá được ương ở mật độ 1, 2 và 3 con/L 
đạt tỉ lệ sống cao nhất (100; 100 và 94,44%), tiếp 
theo là cá được nuôi ở mật độ 4 con/L (71%) 
và thấp nhất khi cá được nuôi ở mật độ 5 con/L 
(50%); (p < 0,05) (Hình 4). 
Hình 4. Ảnh hưởng của mật độ ương đến tỉ lệ 
sống của cá khoang cổ cam
Các kí tự chữ cái khác nhau trên cột thể hiện 
sự khác biệt thống kê (p < 0,05)
Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của 
Hà Lê Thị Lộc (2005) và Thái Quốc Đại (2010) 
trên cá khoang cổ đen đuôi vàng (A. clarkii) và 
cá khoang cổ nemo (A. ocellaris) đều cho tỉ lệ 
sống trên 90% khi nuôi ở mật độ 1 – 3 con/L. 
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ương nuôi cá ở 
mật độ cao làm gia tăng nguy cơ cạnh tranh thức 
ăn, không gian sống, lượng chất thải, ô nhiễm 
môi trường, cá dễ bị stress và nhiễm bệnh (Li và 
ctv., 2012), hậu quả làm giảm tỉ lệ sống trong quá 
trình ương (Papoutsoglou, 1998).
4. Kết luận và đề nghị
4.1. Kết luận
Cá được ương ở mật độ ương 1, 2 và 3 con/L 
đạt tốc độ sinh trưởng đặc trưng cao nhất (1,14; 
1,05 và 0,98%/ngày), tiếp theo là ương ở mật 
độ 4 con/L (0,79%/ngày), thấp nhất là ở mật độ 
ương 5 con/L (0,51%/ngày).
Tương tự, cá được ương ở mật độ ương 1, 2 
và 3 con/L đạt chiều dài cuối cao nhất (25,63; 
24,90 và 24,41 mm), tiếp theo là ương ở mật độ 
4 con/L (23,03 mm), và thấp nhất là ở mật độ 5 
con/L (21,20 mm).
Tỉ lệ sống của cá đạt được cao nhất ở mật độ 
ương 1, 2 và 3 con/L (100; 100 và 94,4%), tiếp 
theo là cá được nuôi ở mật độ 4 con/L (71%) và 
thấp nhất là ở 5 con/L (50‰).
Tóm lại, mật độ ương 3 con/L thỏa mãn các 
chỉ tiêu về tốc độ sinh trưởng, tỉ lệ sống, diện tích 
ương nuôi và hiệu quả kinh tế trong ương nuôi cá 
khoang cổ cam giai đoạn giống. 
4.2. Đề nghị
Cần nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ương 
lên tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá khoang 
cổ cam giai đoạn cá bột.
Cần nghiên cứu ảnh hưởng một số yếu tố 
môi trường như: nhiệt độ, độ mặn, chế độ chiếu 
sáng,... nhằm tạo môi trường thích hợp cho ương 
giống cá khoang cổ cam. 
14
Soá 9, thaùng 6/2013 14
Khoa hoïc Coâng ngheä
Tài liệu tham khảo
Allen G. R. 1972. Anemone fishes, T. F. H publication Inc. Ltd, Perth.
Canario, A.V.M. Condeca, J., Power, D.M. & Ingleton, P.M. 1998. The effect of stocking density on 
growth in the gilthead seabream, Sparus aurata (L.). Aquaculture Research, 29: 177-181.
Thái Quốc Đại. 2010. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ muối, mật độ và thức ăn đến tỉ lệ sống, tốc độ 
tăng trưởng và màu sắc cá khoang cổ nemo (Amphiprion ocellaris Cuvier, 1830) thương mại. Luận văn 
Cao học. Trường Đại học Nha Trang.
EI-Sayed, A. M., Mostafa, K.A., AI-Mohammadi, J.S., EI-Dehaimi, A.A. & Kayid, M.1995. Effects 
of stocking density and feeding levels on growth rates and feed utilization of rabbitfish Siganus cana-
liculatus. Journal of the World Aquaculture Society, 26 (2): 212-216.
Hoff F. H. 1996. Conditioning, spawning and rearing of fish with emphasis on marine clownfish. 
Aquaculture Consultants Inc. Florida; United States of America.
Johnston G. 2000. Effect of feeding regimen, temperature and stocking density on growth and 
survival of juvenile clownfish (Amphiprion percula). Master of Science. Rhodes University.
Jorgensen, E.H., J.S. Christiansen and M. Jobling. 1993. Effects of stocking density on food intake, 
growth performance and oxygen consumption in Arctic charr (Salvelinus alpines). Aquaculture 110: 
191-204.
Li, D., Liu, J., Xie, C. 2012. Effect of stocking density on growth and serum concentrations of thyroid 
hormones and cortisol in Amur sturgeon, Acipenser schrenckii. Fish Physiology and Biochemistry, 38 
(2): 511-520.
Hà Lê Thị Lộc. 2005. Nghiên cứu cơ sở sinh học phục vụ cho sinh sản nhân tạo cá khoang cổ (Am-
phirion sp.) vùng biển Khánh Hòa. Luận án Tiến sĩ Ngư Loại Học. Viện Hải dương học Nha Trang.
Hà Lê Thị Lộc, Bùi Thị Quỳnh Thu. 2009. Ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng, tỉ lệ sống của 
cá khoang cổ đỏ (Amphiprion frenatus Brevoort, 1856). Tuyển tập Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh 
học biển và phát triển bền vững. Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ năm 2009. tr. 443-450.
Hà Lê Thị Lộc, Nguyễn Thị Thanh Thuỷ. 2009. Quá trình phát triển phôi và biến thể của cá khoang 
cổ nemo (Amphiprion ocellaris Cuvier 1830) trong điều kiện thí nghiệm. Tạp chí Khoa học và công nghệ 
biển. tr. 103
Papoutsoglou, S.B., Tziha, G., Vrettos, X. & Athanasiou, A. 1998. Effects of stocking density on 
behavior and growth rate of European sea bass (Dicentrarchus labrax) juveniles reared in a closed 
circulated system. Aquaculture Engineering. 18: 135-144.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 anh_huong_cua_mat_do_len_sinh_truong_va_ti_le_song_cua_ca_kh.pdf anh_huong_cua_mat_do_len_sinh_truong_va_ti_le_song_cua_ca_kh.pdf