Tỷ lệ sống và năng suất của tôm
Tỷ lệ sống của tôm nuôi ở mật độ 300 con/m3 cao
hơn mật độ 600 con/m3 (p < 0,05) trong khi giữa các
nghiệm thức khác không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Nghiên cứu của Trần Ngọc Hải
và Châu Tài Tảo (2020) nuôi tôm thẻ chân trắng mật
độ 300 con/m3 theo công nghệ biofloc sau 90 ngày
nuôi tỷ lệ sống của tôm dao động từ 56,0 đến 75,0%
tương đương với mật độ từ 300 đến 500 con/m3 của
nghiên cứu này.
Năng suất tôm nuôi ở mật độ 500 con/m3 (4,7 ±
0,5 kg/m3) cao hơn khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05) so vơi các nghiệm thức còn lại. Do tỷ lệ
sống của tôm ở nghiệm thức mật độ 600 con/m3
thấp nên năng suất thấp nhất, năng suất của tôm
ở mật độ 300 và 400 con/m3 khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05).
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Các chỉ tiêu môi trường nước nuôi tôm đều
nằm trong khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng và
phát triển của tôm thẻ chân trắng.
- Thể tích biofloc, mật độ vi khuẩn tổng và vi
khuẩn Vibrio của các nghiệm thức nằm trong khoảng
thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển tốt.
- Ở nghiệm thức mật độ 500 con/m3 tôm có khối
lượng (13,83 ± 0,50 g/con), tỷ lệ sống (68,4 ± 6,9 %)
và năng suất (4,7 ± 0,5 kg/m3) tốt nhất.
4.2. Đề nghị
Ứng dụng mật độ 500 con/m3 cho các nghiên cứu
tiếp theo để xây dựng qui trình nuôi tôm thẻ chân
trắng siêu thâm canh theo công nghệ biofloc.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh bằng công nghệ Biofloc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
132
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ LÊN TĂNG TRƯỞNG
VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
SIÊU THÂM CANH BẰNG CÔNG NGHỆ BIOFLOC
Châu Tài Tảo1, Nguyễn Phú Son1, Lý Văn Khánh1,
Cao Mỹ Án1, Trần Ngọc Hải1
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của nuôi tôm thẻ chân trắng siêu
thâm canh bằng công nghệ biofloc. Nghiên cứu gồm 4 nghiệm thức ở các mật độ khác nhau (i) 300 con/m3, (ii) 400
con/m3, (iii) 500 con/m3, và (iv) 600 con/m3. Mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần, cách bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôm
giống có khối lượng ban đầu là 0,005 g nuôi trong bể có thể tích 10 m3, độ mặn 15‰, sử dụng rỉ đường để tạo biofloc,
tỷ lệ C : N = 12. Kết quả sau 90 ngày nuôi cho thấy tôm ở nghiệm thức mật độ 300 con/m3 có khối lượng trung bình
(15,76 ± 1,43 g/con) và tỉ lệ sống (70,6 ± 2,6 %) cao hơn so với nghiệm thức mật độ 600 con/m3 (p < 0,05). Giữa các
nghiệm thức còn lại không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Năng suất của tôm ở nghiệm thức
mật độ 500 con/m3 (4,7 ± 0,5 kg/m3) cao hơn các nghiệm thức còn lại (p < 0,05). Xét về tổng thể hiệu quả, nuôi tôm
thẻ chân trắng bằng công nghệ biofloc ở mật độ 500 con/m3 là tốt nhất.
Từ khóa: Tôm thẻ chân trắng, biofloc, mật độ, tăng trưởng, tỷ lệ sống
1 Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) là một trong những đối tượng nuôi phổ
biến trên thế giới và Việt Nam. Theo Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn (2017), diện tích nuôi tôm
thẻ chân trắng cả nước năm 2017 là 110.100 ha và
sản lượng tôm đạt 430.500 tấn. Trong những năm
gần đây ở Việt Nam phát triển mô hình nuôi tôm thẻ
chân trắng siêu thâm canh trong ao lót bạt chủ yếu là
qui trình thay nước có sử dụng chế phẩm sinh học,
Do thay nước nhiều dẫn đến lượng nước thải ra môi
trường rất lớn làm môi trường nuôi tôm ngày càng
bị ô nhiễm, tình hình dịch bệnh xảy ra nhiều hơn. Vì
thế, tìm ra qui trình mới, ít thay nước, an toàn sinh
học trong nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh
hiện nay là rất cần thiết. Theo Avnimelech (2006) và
Ray và Avnimelech (2012) cho rằng trong hệ thống
nuôi trồng thủy sản thâm canh khi bổ sung nguồn
carbohydrate có nhiều lợi ích (i) cải thiện chất lượng
nước, giảm áp lực của nghề nuôi đến môi trường,
(ii) do vậy có thể tăng mật độ nuôi và cho năng suất
cao (iii) ít bùng phát dịch bệnh do vi khuẩn có khả
năng tạo chất kháng khuẩn poly-β-hydroxybutyrate
(PHB), (iv) nhờ đó giúp tôm tiêu hóa tốt và lớn
nhanh điều này giúp tiết kiệm thức ăn cũng như
giảm chi phí thuốc hóa chất phòng trị bệnh. Hiện
nay các nghiên cứu ứng dụng công nghệ biofloc
chủ yếu tập trung ở giai đoạn ương giống tôm thẻ
chân trắng (Châu Tài Tảo và ctv., 2015), nuôi thâm
canh tôm thẻ chân trắng (Taw Nyan, 2010; Tạ Văn
Phương, 2016). Tuy nhiên, các nghiên cứu ứng dụng
công nghệ biofloc trong nuôi tôm thẻ chân trắng
siêu thâm canh ở Việt Nam chưa được thực hiện.
Vì vậy, nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của mật độ
lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của nuôi tôm thẻ chân
trắng siêu thâm canh bằng công nghệ biofloc là rất
cần thiết, nhằm xác định mật độ nuôi tôm tốt nhất
để ứng dụng vào thực tế sản xuất.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Nước ót có độ mặn 90‰ được lấy từ ruộng
muối ở huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng sau đó xử
lý bằng chlorine 100 ppm sục khí liên tục đến hết
chlorine rồi pha với nước ngọt (nước máy sinh hoạt)
để được nước có độ mặn 15‰. Sử dụng bicarbonate
để nâng độ kiềm lên 160 mg CaCO3/L rồi cấp nước
vào bể nuôi thông qua túi lọc 5 µm.
- Biofloc được tạo bằng nguồn carbohydrate từ rỉ
đường có hàm lượng carbon là 46,7%.
- Tôm thẻ chân trắng giống có khối lượng trung
bình là 0,005 ± 0,001 g và chiều dài 1,15 ± 0,01 cm,
có chất lượng tốt và sạch bệnh được ương tại trại
thực nghiệm nước lợ, Khoa Thủy sản, Trường Đại
học Cần Thơ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với các mật độ nuôi
khác nhau là 300 con/m3; 400 con/m3; 500 con/m3
và 600 con/m3. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần
và được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôm được nuôi
trong bể 10 m3 với thời gian nuôi là 90 ngày.
2.2.2. Chăm sóc và quản lý
Tôm được cho ăn 4 lần/ngày (6 h, 11 h, 16 h
và 20 h) bằng thức ăn Grobest có hàm lượng đạm
133
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
40 - 42%. Khẩu phần ăn hàng ngày dựa theo bảng
hướng dẫn của nhà sản xuất kết hợp quan sát thực
tế. Biofloc được tạo bằng nguồn cacbon từ rỉ đường
với tỷ lệ C/N = 12. Nguồn cacbon được bổ sung định
kỳ mỗi ngày một lần với lượng bổ sung tương ứng
với khẩu phần ăn của tôm và được tính toán theo
công thức của Avnimelech (2012).
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
- Nhiệt độ nước và pH được đo 2 lần/ngày (sáng
lúc 7 h và chiều lúc 14 h, bằng nhiệt kế và máy đo
pH (Hanna HI98127). Các yếu tố khác như độ
kiềm, oxy, TAN và NO2- được thu 7 ngày/lần (lúc
7 h). Ôxy được đo bằng máy đo ôxy (HI9147-04),
độ kiềm được phân tích theo phương pháp chuẩn
độ acid, TAN được phân tích theo phương pháp
Indophenol Blue, NO2- được phân tích theo phương
pháp so màu 4500-NO2-B (APHA et al., 1995).
- Thể tích biofloc (FV): Được thu định kỳ 15 ngày/
lần bằng cách đong 1 lít nước mẫu cho vào phễu lắng
imhoff và để lắng khoảng 30 phút, ghi nhận thể tích
lắng trong phễu theo đơn vị ml/L.
- Các chỉ tiêu vi sinh: Thu mẫu và phân tích vi
khuẩn tổng số và vi khuẩn Vibrio 30 ngày/lần trong
nước, và trong tôm khi kết thúc thí nghiệm. Mật độ
vi khuẩn tổng được xác định bằng phương pháp pha
loãng và cấy, đếm trên đĩa thạch Nutrient agar có
bổ sung 1,5% NaCl (NA). Tương tự, mật độ Vibrio
tổng số được xác định bằng phương pháp pha loãng
và đếm trên đĩa thạch TCBS (Thiosulfat Citrate Bile
Salt Surcose) (Huys, 2002).
- Các chỉ tiêu theo dõi tôm: Tôm nuôi được thu
mẫu 2 tuần/lần, mỗi lần 30 con/bể để đánh giá các
thông số về tốc độ tăng trưởng, bao gồm tốc độ tăng
trưởng chiều dài tuyệt đối (DLG), tốc độ tăng trưởng
chiều dài tương đối (SGRL), tốc độ tăng trưởng khối
lượng tuyệt đối (DWG), tốc độ tăng trưởng khối
lượng tương đối (SGR). Tỷ lệ sống và năng suất của
tôm được thu khi kết thúc thí nghiệm.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được tính toán dưới dạng
giá trị trung bình, độ lệch chuẩn bằng phần mềm
Excel 2010. Phân tích thống kê (One-way ANOVA
với phép thử DUNCAN) để tìm ra sự khác biệt giữa
các nghiệm thức bằng phần mềm SPSS 20.0 ở mức ý
nghĩa p < 0,05.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện từ tháng 8 đến tháng
10 năm 2018 tại Trại thực nghiệm nước lợ, Khoa
Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các yếu tố môi trường
Nhiệt độ nước trong suốt quá trình thí nghiệm
ở tất cả các nghiệm thức dao động không lớn, buổi
sáng từ 26,20 đến 26,38 oC và buổi chiều từ 26,76
đến 26,99 oC, đều nằm trong ngưỡng thích hợp với
tôm thẻ chân trắng là 26 - 30oC (Trần Viết Mỹ, 2009).
pH buổi sáng dao động từ 7,84 đến 7,86 và buổi
chiều từ 7,92 đến 7,96, đều nằm trong khoảng phù
hợp, vì theo Trần Ngọc Hải và cộng tác viên (2017),
khoảng pH thích hợp trong nuôi tôm thẻ chân trắng
từ 7,5 đến 8,5.
Hàm lượng ôxy ở các nghiệm thức dao động từ
5,34 - 5,58 mg/L, đều nằm ở múc phù hợp nhu cầu
oxy cho nuôi tôm thẻ chân trắng (Trần Ngọc Hải và
cộng tác viên (2017) ngưỡng phù hợp là > 4 mg/L).
Độ kiềm trong suốt quá trình thí nghiệm ở các
nghiệm thức dao động trong khoảng 160,1 - 164,1 mg
CaCO3/L. Theo Trần Viết Mỹ (2009), độ kiềm lý
tưởng cho tăng trưởng và phát triển của tôm thẻ
chân trắng từ 120 - 160 mgCaCO3/L. Như vậy độ
kiềm ở các nghiệm thức cao hơn nhưng không vượt
nhiều ngưỡng khuyến cáo nên không ảnh hưởng
đến tôm nuôi.
Bảng 1. Trung bình các yếu tố môi trường của các nghiệm thức
Chỉ tiêu
Nghiệm thức mật độ
300 con/m3 400 con/m3 500 con/m3 600 con/m3
Nhiệt độ
(°C)
Sáng 26,28 ± 1,09 26,27 ± 1,10 26,20 ± 1,08 26,38 ± 1,14
Chiều 26,84 ± 1,13 26,83 ± 1,12 26,76 ± 1,10 26,99 ± 1,19
pH
Sáng 7,86 ± 0,47 7,85 ± 0,47 7,84 ± 0,46 7,85 ± 0,46
Chiều 7,96 ± 0,45 7,94 ± 0,45 7,92 ± 0,45 7,93 ± 0,46
Oxy (mg/L) 5,58 ± 0,84 5,49 ± 0,86 5,45 ± 0,81 5.34 ± 0,87
Độ kiềm (mgCaCO3/L ) 160,1 ± 20,9 164,1 ± 20,3 161,6 ± 17,9 160,6 ± 20,7
TAN (mg/L) 0,71 ± 1,04 0,44 ± 0,36 0,46 ± 0,45 0,51 ± 0,46
NO2- (mg/L) 0,72 ± 0,61 0,74 ± 0,59 0,76 ± 0,57 0,83 ± 0,55
134
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Hàm lượng TAN trung bình ở các nghiệm thức
dao động trong khoảng 0,44 - 0,71 mg/L, NO2- dao
động trong khoảng 0,72 - 0,83 mg/L. Theo Boyd
(1998) và Chanratchakool (2003) thì hàm lượng
TAN thích hợp cho nuôi tôm nhỏ hơn 2 mg/L. Theo
Chen và Chin (1998), nồng độ an toàn của NO2- đối
với tôm là nhỏ hơn 4,5 mg/L.
Như vậy, nhìn chung tất cả các yếu tố môi trường
nước nuôi tôm của các nghiệm thức trong quá trình
thí nghiệm đều nằm trong khoảng thích hợp cho
tôm sinh trưởng và phát triển tốt.
3.2. Thể tích biofloc
Bảng 2 cho thấy thể tích biofloc sau 15 ngày nuôi
dao động trong khoảng 0,33 - 0,85 ml/L, cao nhất ở
nghiệm thức mật độ 600 con/L khác biệt không có
ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với nghiệm thức mật
độ 500 con/m3, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. Đến
30 ngày nuôi thể tích biofloc cao nhất ở nghiệm
thức mật độ 600 con/L khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Đến
45 và 60 ngày nuôi thể tích biofloc thấp nhất ở
nghiệm thức mật độ 300 con/L khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05) so với nghiệm thức mật độ 600
con/m3, nhưng không khác so với 2 nghiệm thức
còn lại. Đến 75 và 90 ngày nuôi thể tích biofloc giữa
các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05). Theo Avnimelech (2015), khi nuôi
tôm cần duy trì hàm lượng biofloc trong khoảng
3 - 15 ml/L. Nhìn chung thể tích biofloc ở các
nghiệm thức đều nằm trong khoảng thích hợp cho
tôm sinh trưởng và phát triển tốt.
Bảng 2. Trung bình thể tích biofloc của các nghiệm thức
Ngày nuôi
Nghiệm thức mật độ
300 con/m3 400 con/m3 500 con/m3 600 con/m3
15 ngày 0,37 ± 0,30a 0,33 ± 0,15a 0,57 ± 0,05ab 0,85 ± 0,35b
30 ngày 1,83 ± 0,29a 2,5 ± 0,5a 2,83 ± 1,15a 6,67 ± 3,78b
45 ngày 3,17 ± 0,76a 4,33 ± 1,5ab 4,33 ± 3,2ab 7,33 ± 0,57b
60 ngày 3,67 ± 0,57a 3,67 ± 0,46ab 4,67 ± 0,57ab 5,67 ± 2,08b
75 ngày 7,67 ± 1,52a 6,00 ± 1,04a 6,67 ± 0,57a 7,67 ± 0,57a
90 ngày 9,00 ± 1,73a 9,33 ± 2,51a 8,00 ± 1,05a 9,35 ± 0,57a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.3. Vi khuẩn tổng và vi khuẩn Vibrio của các
nghiệm thức
3.3.1. Vi khuẩn tổng
Sau 30 ngày nuôi mật độ vi khuẩn tổng của các
nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05). Đến 60 ngày nuôi mật độ vi khuẩn tổng
cao nhất ở nghiệm thức mật độ 600 con/m3 khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nghiệm
thức mật độ 300 con/m3, nhưng khác biệt không có
ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với 2 nghiệm thức còn
lại. Đến 90 ngày nuôi mật độ vi khuẩn tổng của các
nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05). Khi phân tích mật độ vi khuẩn tổng trong
ruột tôm cho thấy ở nghiệm thức mật độ 500 con/m3
thấp nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
so với nghiệm thức mật độ 400 con/m3, nhưng khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với
2 nghiệm thức còn lại. Theo Burford và cộng tác viên
(2004), mật độ vi khuẩn tổng trong nước < 50,6*106
CFU/mL không gây ảnh hưởng đến sự phát triển của
nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh. Từ đó cho thấy
mật độ vi khuẩn tổng của nghiên cứu này không ảnh
hưởng đến tôm nuôi.
Bảng 3. Mật độ vi khuẩn tổng trong nước (104CFU/ml) và trong ruột tôm (104CFU/g)
Chỉ tiêu Ngày thu
Nghiệm thức
300 con/m3 400 con/m3 500 con/m3 600 con/m3
Trong nước
30 0,85 ± 0,36a 1,05 ± 0,30a 0,78 ± 0,28a 0,72 ± 0,15a
60 1,21 ± 0,17a 1,45 ± 0,33ab 1,63 ± 0,23ab 1,82 ± 0,35b
90 2,02 ± 0,70,6a 2,75 ± 0,99a 2,13 ± 0,80a 2,70 ± 0,18a
Trong ruột tôm 90 0,97 ± 0,6ab 1,06 ± 0,21b 0,70 ± 0,20a 0,93 ± 0,15ab
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
135
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
3.3.2. Vi khuẩn Vibrio
Bảng 4 cho thấy sau 30 ngày nuôi mật độ vi khuẩn
Vibrio cao nhất ở nghiệm thức mật độ 600 con/m3
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các
nghiệm thức còn lại. Đến 60 và 90 ngày nuôi mật
độ vi khuẩn Vibrio thấp nhất ở nghiệm thức mật độ
400 con/m3 khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
so với nghiệm thức mật độ 600 con/m3, nhưng khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với
2 nghiệm thức còn lại. Khi kết thúc thí nghiệm phân
tích mật độ vi khuẩn Vibrio trong ruột tôm cho thấy
giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05).
Bảng 4. Mật độ vi khuẩn Vibrio trong nước (104CFU/ml) và trong ruột tôm (104CFU/g)
Chỉ tiêu Ngày thu
Nghiệm thức
300 con/m3 400 con/m3 500 con/m3 600 con/m3
Trong nước
30 0,04 ± 0,01a 0,03 ± 0,02a 0,04 ± 0,02a 0,11 ± 0,02b
60 0,76 ± 0,34ab 0,42 ± 0,21a 0,77 ± 0,24ab 0,95 ± 0,05b
90 4,53 ± 3,48ab 2,67 ± 0,59a 3,72 ± 2,03ab 5,58 ± 3,73b
Trong ruột tôm 90 0,58 ± 0,22a 0,34 ± 0,12a 0,57 ± 0,19a 0,60 ± 0,20a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.4. Tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng ở các
nghiệm thức
3.4.1. Tăng trưởng về chiều dài
Sau 90 ngày nuôi chiều dài tôm ở các nghiệm thức
dao động từ 10,2 đến 11,3 cm, các nghiệm thức khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tốc độ
tăng trưởng tuyệt đối và tăng trưởng tương đối của
tôm ở các nghiệm thức dao động từ (0,10 - 0,11 cm/
ngày và 2,46 - 2,58%/ngày) và không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) giữa các nghiệm thức.
Bảng 5. Tăng trưởng về chiều dài của tôm sau 90 ngày nuôi
Chỉ tiêu
Nghiệm thức mật độ
300 con/m3 400 con/m3 500 con/m3 600 con/m3
Lđ (cm/con) 1,15 ± 0,01 1,15 ± 0,01 1,15 ± 0,01 1,15 ± 0,01
Lc (cm/con) 11,3 ± 0,10a 10,8 ± 0,55a 10,2 ± 0,06a 10,2 ± 0,17a
DLG (cm/ngày) 0,11 ± 0,01a 0,11 ± 0,01a 0,10 ± 0,01a 0,10 ± 0,01a
SGRL (%/ngày) 2,58 ± 0,01a 2,52 ± 0,06a 2,46 ± 0,01a 2,47 ± 0,15a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.4.2. Tăng trưởng về khối lượng
Sau 90 ngày nuôi khối lượng tôm ở các nghiệm
thức dao động từ 12,23 - 15,76 g/con. Ở nghiệm
thức mật độ 300 con/m3 tôm có khối lượng cao nhất
(15,76 g/con) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
so với nghiệm thức mật độ 600 con/m3 tôm có khối
lượng thấp nhất (12,23 g/con) nhưng khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với nghiệm
thức mật độ 400 và 500 con/m3. Tốc độ tăng trưởng
tuyệt đối và tương đối về khối lượng của tôm dao
động từ 0,14 - 0,17 g/ngày và 8,67 - 8,96 %/ngày.
Nghiệm thức 600 con/m3 tôm có tốc độ tăng trưởng
chậm nhất 0,14 g/ngày và 8,67 %/ngày, khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nghiệm thức
300 con/m3 nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. Theo Trần
Ngọc Hải và Châu Tài Tảo (2020), nuôi tôm thẻ chân
trắng mật độ 300 con/m3 theo công nghệ biofloc
sau 90 ngày nuôi khối lượng của tôm từ 10,0 đến
13,7 g/con, qua đó cho thấy tăng trưởng của tôm ở
nghiên cứu này tốt hơn.
136
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Bảng 6. Tăng trưởng về khối lượng của tôm sau 90 ngày nuôi
Chỉ tiêu
Nghiệm thức mật độ
300 con/m3 400 con/m3 500 con/m3 600 con/m3
Wđ (g/con) 0,005 ± 0,001 0,005 ± 0,001 0,005 ± 0,001 0,005 ± 0,001
Wc (g/con) 15,76 ± 1,43b 13,43 ± 1,76ab 13,83 ± 0,50ab 12,23 ± 1,36a
DWG (g/ngày) 0,17 ± 0,02b 0,15 ± 0,02ab 0,15 ± 0,01ab 0,14 ± 0,02a
SGR (%/ngày) 8,96 ± 0,12b 8,73 ± 0,15ab 8,80 ± 0,01ab 8,67 ± 0,15a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.5. Tỷ lệ sống và năng suất của tôm
Tỷ lệ sống của tôm nuôi ở mật độ 300 con/m3 cao
hơn mật độ 600 con/m3 (p < 0,05) trong khi giữa các
nghiệm thức khác không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Nghiên cứu của Trần Ngọc Hải
và Châu Tài Tảo (2020) nuôi tôm thẻ chân trắng mật
độ 300 con/m3 theo công nghệ biofloc sau 90 ngày
nuôi tỷ lệ sống của tôm dao động từ 56,0 đến 75,0%
tương đương với mật độ từ 300 đến 500 con/m3 của
nghiên cứu này.
Năng suất tôm nuôi ở mật độ 500 con/m3 (4,7 ±
0,5 kg/m3) cao hơn khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05) so vơi các nghiệm thức còn lại. Do tỷ lệ
sống của tôm ở nghiệm thức mật độ 600 con/m3
thấp nên năng suất thấp nhất, năng suất của tôm
ở mật độ 300 và 400 con/m3 khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 7. Tỷ lệ sống và năng suất
Chỉ tiêu
Nghiệm thức mật độ
300 con/m3 400 con/m3 500 con/m3 600 con/m3
Tỷ lệ sống % 70,6 ± 2,6b 66,0 ± 8,2b 68,4 ± 6,9b 35,5 ± 4,3a
Năng suất (kg/m3) 3,3 ± 0,4b 3,5 ± 0,3b 4,7 ± 0,5c 2,6 ± 0,2a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Các chỉ tiêu môi trường nước nuôi tôm đều
nằm trong khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng và
phát triển của tôm thẻ chân trắng.
- Thể tích biofloc, mật độ vi khuẩn tổng và vi
khuẩn Vibrio của các nghiệm thức nằm trong khoảng
thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển tốt.
- Ở nghiệm thức mật độ 500 con/m3 tôm có khối
lượng (13,83 ± 0,50 g/con), tỷ lệ sống (68,4 ± 6,9 %)
và năng suất (4,7 ± 0,5 kg/m3) tốt nhất.
4.2. Đề nghị
Ứng dụng mật độ 500 con/m3 cho các nghiên cứu
tiếp theo để xây dựng qui trình nuôi tôm thẻ chân
trắng siêu thâm canh theo công nghệ biofloc.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ
chương trình Tây Nam Bộ (Mã số: KHCN-TNB.
ĐT/14-19/C07).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2017. Báo
cáo kết quả thực hiện kế hoạch tháng 12 năm 2017
ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Châu Tài Tảo, Hồ Ngọc Ngà, Trần Ngọc Hải, 2015.
Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống
của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
ương giống theo công nghệ biofloc. Tạp chí khoa học,
Đại học Cần Thơ, 37 (1): 65-71.
Tạ Văn Phương, 2016. Phát triển quy trình công nghệ
biofloc và khả năng ứng dụng trong nuôi tôm thẻ chân
trắng (Litopenaeus vannamei). Luận án Tiến sĩ ngành
Nuôi trồng Thủy sản - Đại học Cần Thơ.
Trần Ngọc Hải, Châu Tài Tảo và Nguyễn Thanh
Phương, 2017. Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi giáp
xác. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, 211 trang.
Trần Ngọc Hải, Châu Tài Tảo, 2020. Nghiên cứu chu kỳ
bổ sung rỉ đường trong nuôi siêu thâm canh tôm thẻ
chân trắng theo công nghệ biofloc. Tạp chí Khoa học
Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam số 2 (111), 98-102.
Trần Viết Mỹ, 2009. Cẩm nang nuôi tôm chân trắng
thâm canh (Penaeus vannamei). Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm
Khuyến nông.
137
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
APHA, AWWA and WEF, 1995. Standard Methods
for the Examination of Water and Wastewater, 19th
Edition. APHA, AWWA VÀ WEF, FRANSON,
M.A.H., (Ed.).
Avnimelech Y., 2012. Biofloc technology - a practical
guide book. Second edition, The World Aquaculture
Society, Baton Rouge, Louisiana, United States,
272 pp.
Avnimelech, Y., 2006. Bio filters: The need for an new
comprehensive approach. Aquaculture Engineering,
34: 172-178.
Avnimelech, Y., 2015. Biofloc Technology - A Practical
Guide Book, 3rd Edition. The World Aquaculture
Society, Baton Rouge, Louisiana, United States.
182 pp.
Burford, M.A., Thompson, P.J., McIntosh, P.R.,
Bauman, R.H., Pearson, D.C., 2004. The
contribution of flocculated material to shrimp
(Litopenaeus vannamei) nutrition in a high-intensity,
zero exchange system. Aquaculture 232, 525-537.
Boyd, C.E., 1998. Pond water aeration systems.
Aquaculture Engineering, 18: 19-40.
Chanratchakool, P., 2003. Problem in Penaus monodon
culture in low salinity areas. Aquacuture Asia, 8 (1):
54-55.
Chen, J. C and T. S. Chin, 1998. Accute oxicty of nitrite
to tiger praw, Penaeus monodon, larvae. Aquaculture,
69: 253-262.
Huys, G., 2002. Preservation of bacteria using
commercial cry preservation systems. Standard
Operation Procedure, Asia resist. 35 pages.
Ray A and Avnimelech Y., 2012. Biofloc technology for
super-intensive shrimp culture. Biofloc Technology - a
practical guide book, 2nd ed., The World Aquaculture
Society, Baton Rouge, Louisiana, USA. pp. 167-188.
Taw Nyan, 2010. Biofloc technology expanding at white
shrimp farms. Biofloc systems deliver high productivity
with sustainability. In Global Aquaculture. T3-9, KPMG
Tower, 8 First Avenue Persiaran Bandar Utama,
47800, Petaling Jaya, Selangor, Malaysia.
Effect of stocking densities on growth performance and survival rate
of super-intensive white shrimp farming by using biofloc
Chau Tai Tao, Nguyen Phu Son, Ly Van Khanh,
Cao My An, Tran Ngoc Hai
Abstract
The study aimed to determine the effect of the density on growth and survival rate of super-intensive whiteleg shrimp
culture using biofloc technology. The study consisted of 4 treatments at various densities including 300 ind/m3,
400 ind/m3, 500 ind/m3 and 600 ind/m3. Each treatment had 3 replicates, each consisted of a shrimp tank with a
volume of 10 m3 filled with seawater of 15 ppt salinity modified with molasses at C/N ratio of 12 : 1. Shrimp seeds with
initial weight of 0.005 g were reared for 90 days using Grobest feed for shrimp. Results showed that the 300 ind/m3
treatment gave significant higher individual weight (15.76 ± 1.43 g/individual) and higher survival rate (70.6 ± 2.6%)
(p 0.05)
compared to those of the other two treatments. Shrimp yield of the treatment of 500 ind/m3 (4.7 ± 0.5 kg/m3)
was significantly higher (p < 0.05) than those of the remaining treatments. It can be concluded that best density for
super-intensive culture of whiteleg shrimp using biofloc technology is at 500 ind/m3.
Keywords: White leg shrimp, biofloc, density, growth, survival rate
Ngày nhận bài: 15/3/2020
Ngày phản biện: 20/3/2020
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Nguyên
Ngày duyệt đăng: 23/3/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_mat_do_len_tang_truong_va_ty_le_song_cua_nuoi.pdf