Ảnh hưởng của mật độ trồng đến
hàm lượng protein tổng số các giống
diêm mạch nhập nội trên đất nâu đỏ
bazan tại Buôn Ma Thuột
Diêm mạch là cây lương thực có giá
trị dinh dưỡng cao (hàm lượng protein 15-
21%, là một trong số rất ít loại hạt có đủ các
acid amin cần thiết cho con người, hàm
lượng sắt 5%, hàm lượng vitamin cao
(FAO, 2013).
Mỗi giống diêm mạch khác nhau cho
hàm lượng protein tổng số là khác nhau và
phần lớn do đặc tính di truyền của giống
quyết định. Kết quả phân tích về hàm lượng
protein tổng số của các giống được ghi nhận
tại Bảng 8 cho thấy giống Atlas cho hàm
lượng cao nhất trung bình đạt 18,49%, kế
đến là các giống Cahuil, Haiwan và
Moradas, sự sai khác này có ý nghĩa thống
kê ở mức 95% giữa hàm lượng protein của
giống Atlas với tất cả các giống còn lại. Đối
với từng mật độ trồng, hàm lượng protein
tổng số có sự sai khác giữa các mật độ khác
nhau nhưng không có ý nghĩa thống kê. Xét
ảnh hưởng giữa hai yếu tố là mật độ và
giống cho thấy hàm lượng protein tổng số
trung bình đạt thấp nhất là công thức
(G3M2 - 14,75%) đến cao nhất là công thức
(G2M3 - 18,83%) và sự sai khác này có ý
nghĩa thống kê giữa giống Atlas trồng ở các
mật độ so với tất cả các giống còn lại ngoại
trừ giống Cahuil trồng ở mật độ 80.000
cây/ha. So sánh với hàm lượng protein tổng
số của một số giống diêm mạch tại Hà Lan
mà tác giả Janssen và cs., 1996 đã phân tích
(đạt 13,5%), 4 giống diêm mạch trong thí
nghiệm tại Buôn Ma Thuột cao hơn (đạt từ
15,01% đến 18,49%), kết quả này có thể do
các giống diêm mạch khác nhau được trồng
trên các điều kiện sinh thái, thổ nhưỡng và
chế độ bón phân khác nhau ở từng vùng.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất và hàm lượng protein một số giống diêm mạch (chenopodium quinoa willd) nhập nội tại Buôn Ma Thuột, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1815-1823
1815
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ TRỒNG ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ HÀM LƯỢNG
PROTEIN MỘT SỐ GIỐNG DIÊM MẠCH (Chenopodium quinoa Willd.)
NHẬP NỘI TẠI BUÔN MA THUỘT
Nguyễn Văn Minh
Khoa Nông Lâm nghiệp, Trường Đại học Tây Nguyên
Tác giả liên hệ: minhcpdhtn@gmail.com
Nhận bài: 11/10/2019 Hoàn thành phản biện: 06/03/2020 Chấp nhận bài: 02/04/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu này thực hiện nhằm xác định mật độ trồng cho năng suất và hàm lượng protein tốt
nhất đối với 4 giống diêm mạch nhập nội trồng trên đất nâu đỏ bazan tại thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk. Bố trí thí nghiệm theo khối ngẫu nhiên đầy đủ hai nhân tố (Randomized Complete Block
design - RCBD) ba lần nhắc lại. Kết quả nghiên cứu đã xác định được giống diêm mạch Atlas cho năng
suất thực thu cao nhất trong 4 giống, trung bình đạt 22,48 tạ/ha/vụ và hàm lượng protein tốt nhất đạt
trung bình 18,49%; Mật độ trồng phù hợp nhất là 80.000 cây/ha cho năng suất thực thu trung bình đạt
20,59 tạ/ha/vụ. Giống Atlas trồng ở mật độ 80.000 cây/ha cho năng suất thực thu trung bình đạt cao
nhất 26,03 tạ/ha/vụ, hàm lượng protein đạt 18,83%.
Từ khóa: Diêm mạch, Đất nâu đỏ bazan, Năng suất, Thành phố Buôn Ma Thuột
EFFECT OF CROP DENSITY ON YIELD AND PROTEIN CONTENT OF
SOME IMPORTED QUINOA (Chenopodium quinoa Willd.) CULTIVARS IN
BUON MA THUOT CITY
Nguyen Van Minh
Faculty of Agriculture and Forestry, Tay Nguyen University
ABSTRACT
This study aimed at determining suitable crop density for the highest yield and protein content for
four imported quinoa varieties grown on red brown bazal soil in Buon Ma Thuot city, Dak Lak province.
The experiments were designed according to Randomized Complete Block Design (RCBD) for two
factors with three replicates. The results showed that Atlas variety had the highest actual yield and
protein content among the investigated varieties (22.48 quinals/ha/crop and 18,49%). The most suitable
crop density was 80.000 plants/ha which resulted in an average actual yield of 20.59 quinals/ha/crop.
The Atlas variety grown at the density of 80.000 plants/ha was the formulation having the highest actual
yield and protein content (26.03 quinals/ha/crop and 18,83%).
Keywords: Quinoa, Red brown bazal soil, Yield, Buon Ma Thuot city
1. MỞ ĐẦU
Cây diêm mạch (Chenopodium
quinoa Willd.) mặc dù được xem là cây
trồng lâu đời nhất trên thế giới (với lịch sử
trồng trọt khoảng 10.000 năm trước đây)
nhưng nghiên cứu sâu về cây trồng này tập
trung trong khoảng 20 năm trở lại đây sau
khi cộng đồng thế giới nhận thức được tiềm
năng to lớn về giá trị dinh dưỡng, giá trị
kinh tế và khả năng chống chịu các điều
kiện ngoại cảnh bất thuận. Diêm mạch là
cây ôn đới nhưng hiện nay đang được
nghiên cứu trồng và phát triển ở các vùng
nhiệt đới khác nhau. Tuyển chọn giống phù
hợp với điều kiện từng vùng sinh thái khác
nhau có thể dựa vào các giống có tính trạng
đặc thù thích ứng giúp cây sinh trưởng, phát
triển và cho năng suất, chất lượng tốt giúp
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1815-1823
1816 Nguyễn Văn Minh
tạo ra giá trị kinh tế cao. Trong tự nhiên luôn
tồn tại biến dị di truyền do môi trường mang
lại, do vậy luôn tồn tại những giống có
những tính trạng khác nhau để thích hợp với
những vùng đặc thù (Aguilar và cs., 2003).
Diêm mạch được trồng và phát triển
đầu tiên tại Việt Nam trong giai đoạn 1986
- 2000 với giống HV1 tại nhiều tỉnh thành ở
miền bắc, năng suất 14,0 - 20,6 tạ/ha (Trịnh
Ngọc Đức, 2001). Bertero và cs., (2004)
cho biết cây diêm mạch thích nghi khá tốt
với điều kiện khí hậu, đất đai ở Việt Nam,
thậm chí năng suất còn cao hơn so với một
số vùng nguyên sản. Từ năm 1991-1992,
Việt Nam đã nghiên cứu bình tuyển giống
HV1 nhằm chọn ra giống diêm mạch có khả
năng thích ứng với miền Bắc Việt Nam;
những năm 1991-1994 giống diêm mạch
HV1 đã được sản xuất thử tại Hải Dương
cho năng suất trên 1 tấn/ha; và năng suất 8
tạ/ha tại Tuyên Quang (Trần Đình Long,
1996; Vũ Tuyên Hoàng và Vũ Thị Na,
1993; Lyakhovkin và Trần Đình Long,
1994; Trịnh Ngọc Đức, 1996 và 2001). Để
phát triển cây diêm mạch thành cây trồng
hàng hóa, công tác tuyển chọn giống mới và
nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác
phù hợp là hết sức cần thiết, đặc biệt mật độ
trồng là biện pháp kỹ thuật quan trọng góp
phần tăng năng suất cây trồng.
Việt Nam cũng là một nước chịu ảnh
hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu toàn
cầu (Nguyễn Văn Bộ, 2012). Đánh giá riêng
về tác động của hạn hán, Việt Nam đứng thứ
13/16 nước có diện tích sản xuất nông
nghiệp chịu tác động lớn nhất của hạn hán
trong 30 năm tới (theo báo cáo của Viện
Maplecroft, Anh, 10/2010). Biến đổi khí
hậu toàn cầu đã làm mực nước biển dâng lên
2,15 mm mỗi năm, đồng thời mùa khô kéo
dài và sự xâm nhiễm mặn ngày càng tăng
(Trần Thị Hương Giang và Nguyễn Thị
Vòng, 2013). Theo Trần Thọ Đạt và Vũ Thị
Hoài Thu (2013), nếu mực nước biển tiếp
tục tăng lên một mét thì Việt Nam sẽ mất
50% diện tích đất canh tác so với hiện nay,
đồng thời hệ số sử dụng đất cũng bị giảm đi
đáng kể.
Tại khu vực Tây nguyên, theo thống
kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn năm 2016, 2017 hạn hán, thiếu nước
xảy ra ở khắp khu vực như: ở Đắk Lắk có
56.138 ha cà phê bị hạn, Gia Lai 25.000 ha
lúa và 21.000 ha cây công nghiệp bị hạn,
Đắk Nông có 22.000 ha cây cà phê bị thiếu
nước và Lâm Đồng có 31.600 ha các cây
trồng bị thiếu nước, chưa kể một số diện tích
khá lớn bị mất trắng do hạn hán. Diêm mạch
là cây trồng có thể chịu được điều kiện khó
khăn như những vùng đất nhiều acid, khô
hạn, mặn, vùng ở vĩ độ cao (Ruiz-carrasco
và cs., 2011). Trước tình hình cấp thiết như
vậy, nghiên cứu chuyển đổi giống cây trồng
mới thích hợp ở những vùng có điều kiện
khó khăn khắc nghiệt là cần thiết và cấp
bách để góp phần vào đảm bảo an ninh
lương thực đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn
trong khu vực Tây Nguyên và cả nước.
Diêm mạch là cây dễ trồng, không
kén đất, sinh trưởng và phát triển tốt trên
hầu hết các loại đất: đất nghèo dinh dưỡng,
đất khô cằn, đất nhiều sỏi đá, đồi gò, đất
chua, đất kiềm, đất mùn, đất bị nhiễm mặn,
đất cát ven biển...chịu được khoảng pH rộng
(4,8 - 8,5). Diêm mạch là cây trồng mới, khả
năng chịu hạn và chịu mặn tốt, giá trị kinh
tế và dinh dưỡng rất cao và lần đầu tiên
được nhóm tác giả đưa vào trồng thử
nghiệm thành công tại Đắk Lắk năm 2017
và 2018. Nghiên cứu mật độ trồng một số
giống diêm mạch nhằm xác định được mật
độ cho năng suất và hàm lượng protein tốt
nhất trong 4 giống diêm mạch nhập nội trên
đất nâu đỏ bazan tại thành phố Buôn Ma
Thuột góp phần đa dạng hóa cây trồng trong
tình hình hạn hán thiếu nước tại các tỉnh Tây
Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói
riêng là cần thiết.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1815-1823
1817
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu, thời gian và địa điểm nghiên
cứu
+ Vật liệu nghiên cứu
- Các giống diêm mạch nhập nội là 4
giống Cahuil, Atlas, Moradas và Haiwan
với đặc điểm cụ thể như ở Bảng 1.
Bảng 1. Một số giống diêm mạch nhập nội sử dụng trong nghiên cứu
Tên giống
Nguồn gốc/
vùng địa lý
Nguồn cung cấp
Đặc điểm chính
(điều kiện nhiệt đới)
Cahuil Chile
Netherlands,
cung cấp bởi Học viện NN Việt Nam
TGST 85-110 ngày, năng suất từ 1,0 -
1,5 tấn/ha, chịu hạn
Atlas Netherlands
Netherlands,
cung cấp bởi Học viện NN Việt Nam
TGST 90-120 ngày, năng suất từ 1,0 -
1,5 tấn/ha, chịu hạn
Moradas Chile
Netherlands,
cung cấp bởi Học viện NN Việt Nam
TGST 85-110 ngày, năng suất từ 1,0 -
1,5 tấn/ha, chịu hạn
Haiwan Argentina
Argentina,
cung cấp bởi Học viện NN Việt Nam
TGST 85-110 ngày, năng suất từ 1,0 -
1,5 tấn/ha, chịu hạn
+ Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thí nghiệm thực hiện trong mùa
khô (từ tháng 11 năm 2018 đến tháng 3 năm
2019) trên đất nâu đỏ bazan tại thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
- Bố trí thí nghiệm theo khối ngẫu
nhiên đầy đủ hai nhân tố (Randomized
Complete Block design - RCBD) ba lần
nhắc lại diện tích ô thí nghiệm là 14 m2, (5
m × 2,8 m), khoảng cách giữa các lần nhắc
1m. Tổng cộng 48 ô thí nghiệm (672 m2)
không bao gồm diện tích bảo vệ. Với 4
giống: G1 (Cahuil), G2 (Atlas), G3
(Moradas), G4 (Haiwan) và 4 mật độ M1:
133.333 cây/ha (hàng × hàng 50cm; cây ×
cây 15 cm); M2: 100.000 cây/ha (hàng ×
hàng 50 cm; cây × cây 20 cm); M3: 80.000
cây/ha (hàng × hàng 50 cm; cây × cây 25
cm); M4: 66.666 cây/ha (hàng × hàng 50
cm; cây × cây 30 cm). Nền phân bón cho
toàn thí nghiệm 1ha/vụ: 1.000 kg phân hữu
cơ vi sinh + 500 kg vôi bột + 90 kg N + 60
kg P2O5 + 60 kg K2O (Đinh Thái Hoàng và
cs., 2014).
+ Công thức thí nghiệm:
- Mỗi lần gồm 16 công thức: G1M1,
G1M2, G1M3, G1M4, G2M1, G2M2,
G2M3, G2M4, G3M1, G3M2, G3M3,
G3M4, G4M1, G4M2, G4M3, G4M4. Ba
lần nhắc lại là 48 công thức.
+ Chỉ tiêu theo dõi:
- Các yếu tố cấu thành năng suất: Số
bông/cây, số hạt/bông, khối lượng 1.000 hạt
(g).
- Năng suất cá thể (g/cây): cây toàn
bộ số hạt trên cây.
- NSLT (tạ/ha/vụ) = số bông/cây × số
hạt/bông × KL1.000 hạt × mật độ
(cây/ha)/10.000.
- NSTT (tạ/ha/vụ) = số bông/cây × số
hạt/bông × KL1.000 hạt × số cây sống
(cây/ha)/10.000.
- Hàm lượng protein tổng số (%).
- Hàm lượng protein được tính theo
công thức:
X (%) =
𝑎.0,00142.𝑏.𝑉.100
𝑣.𝑐
Trong đó:
a (ml): Lượng H2SO4 dùng để chuẩn độ
sau khi đã trừ đi ở bình đối chứng
0.00142: Số mg nitơ tương đương với
1ml H2SO4 0,1N
V (ml): Số ml dung dịch mẫu pha loãng
(50ml)
v: Số ml dung dịch mẫu đem chưng cất
ammoniac (20 ml)
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1815-1823
1818 Nguyễn Văn Minh
c (g): Khối lượng mẫu đem phân tích
b: Hệ số chuyển nitơ (b= 6,25)
2.3. Phương pháp xử lý số liệu và quy
chuẩn áp dụng
- Xử lý số liệu: Các số liệu thu thập
được lấy trung bình của các lần lặp lại tại
địa điểm thí nghiệm sau đó tổng hợp, xử lý
bằng chương trình EXCEL phiên bản 2010
và phần mềm xử lý thống kê chuyên dụng
Minitab 16.
- Quy trình kỹ thuật áp dụng và các
chỉ tiêu theo dõi: Các chỉ tiêu theo dõi
được tiến hành theo tài liệu “Mô tả cây
Quinoa và loại hoang dại” (FAO, 2013).
Mọi yêu cầu thí nghiệm được áp dụng
đồng đều và thống nhất toàn thí nghiệm.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến
các yếu tố cấu thành năng suất một số
giống diêm mạch nhập nội trên đất nâu
đỏ bazan tại Buôn Ma Thuột
3.1.1. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến số
bông trên cây một số giống diêm mạch
Khi thay đổi mật độ trồng từ 66.666
cây/ha đến 133.333 cây/ha dẫn đến số bông
trên cây có sự thay đổi, thấp nhất đạt 24,23
bông/cây đến cao nhất đạt 27,71 bông/cây;
Đối với từng giống diêm mạch, thấp nhất
đạt 24,63 bông/cây (giống Moradas) và cao
nhất đạt 27,44 bông/cây (giống Atlas) và sự
sai khác này có ý nghĩa thống kê ở mức
95%.
Bảng 2. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến số bông/cây ở một số giống diêm mạch
Mật độ trồng (M)
Giống diêm mạch (G)
Trung bình (M)
G1 (Cahuil) G2 (Atlas) G3 (Moradas) G4 (Haiwan)
M1 25,69ab 24,35ab 24,43ab 22,47 b 24,23B
M2 25,48ab 26,54ab 25,42ab 25,57ab 25,75AB
M3 28,72ab 30,39a 24,84ab 26,87ab 27,71A
M4 26,89ab 28,48ab 23,83ab 25,70ab 26,23AB
Trung bình (G) 26,70AB 27,44A 24,63B 25,15AB
Các chữ cái khác nhau trong từng hàng và cột biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p=0,05
(chữ cái in biểu thị từng nhân tố, chữ cái thường biểu thị kết hợp hợp hai nhân tố)
Khi tương tác giữa hai nhân tố, số
bông trên cây cũng có sự thay đổi từ 22,47
bông/cây (G4M1) đến 30,39 bông/cây
(G2M3), sự sai khác này có ý nghĩa thống
kê giữa các công thức thí nghiệm đặc biệt là
giống Atlas ở mật độ trồng M3 đối với
giống Haiwan trồng ở mật độ M1.
3.1.2. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến số
hạt trên bông một số giống diêm mạch
Khi thay đổi mật độ trồng từ 66.666
cây/ha đến 133.333 cây/ha dẫn số lượng
hạt/bông có sự thay đổi từ 240,22 hạt/bông
(M1) đến 284,58 hạt/bông (M4), sự sai khác
này có ý nghĩa thống kê mức 95% ở mật độ
M3 và M4 đối với các mật độ trồng còn lại.
Giữa hai mật độ M3 và M4 có sự sai khác
nhưng không có ý nghĩa thống kê. Tương
tự, khi thay đổi các giống khác nhau cho kết
quả số hạt/bông trung bình từ 249,09
hạt/bông (Moradas) đến 281,05 hạt/bông
(Atlas) và duy nhất giống Moradas có số
hạt/bông có sai khác với ba giống còn lại có
ý nghĩa thống kê ở mức 95%. Phân tích số
liệu chỉ tiêu số hạt/bông khi phối hợp giữa
hai yếu tố là mật độ và giống cho kết quả
khác nhau và sự sai khác này có ý nghĩa
thống kê.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1815-1823
1819
Bảng 3. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến số hạt/bông một số giống diêm mạch
Mật độ trồng (M)
Giống diêm mạch (G)
Trung bình (M)
G1 (Cahuil) G2 (Atlas) G3 (Moradas) G4 (Haiwan)
M1 233,00bc 268,67abc 222,45c 236,76bc 240,22C
M2 260,75abc 281,17ab 233,58bc 274,32ab 262,46B
M3 286,52a 280,89ab 269,67abc 292,34a 282,36A
M4 294,97a 293,45a 270,65abc 279,25ab 284,58A
Trung bình (G) 268,81A 281,05A 249,09B 270,67A
Các chữ cái khác nhau trong từng hàng và cột biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p=0,05
(chữ cái in biểu thị từng nhân tố, chữ cái thường biểu thị kết hợp hợp hai nhân tố)
3.1.3. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến
khối lượng 1.000 hạt một số giống diêm
mạch
Khi thay đổi mật độ trồng từ M1 đến
M4 làm ảnh hưởng đến khối lượng trung
bình 1.000 hạt từ thấp nhất đạt 2,39 g đến
cao nhất đạt 3,96 g, sự sai khác này có ý
nghĩa thống kê ở mức 95% giữa mật độ M3
và M4 đối với các mật độ khác. Tương tự,
mỗi giống diêm mạch khác nhau cho kết
quả khối lượng trung bình từ 3,14 g (giống
Haiwan) đến 3,44 g (giống Atlas) và có ý
nghĩa thống kê ở mức 95% giữa hai giống
này. Phân tích ảnh hưởng giữa hai yếu tố là
mật độ và giống cho thấy thấp nhất là công
thức (G2M2 - 2,15 g) đến cao nhất là công
thức (G2M4 - 4,35 g) và sự sai khác này có
ý nghĩa thống kê, rõ nhất ở các giống trồng
với mật độ thưa hơn so với các giống được
trồng với mật độ dày.
Bảng 4. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến khối lượng 1.000 hạt (g) một số giống diêm mạch
Mật độ trồng (M)
Giống diêm mạch (G)
Trung bình (M)
G1 (Cahuil) G2 (Atlas) G3 (Moradas) G4 (Haiwan)
M1 2,29f 2,15f 2,52ef 2,61def 2,39C
M2 3,36bcd 3,23b-e 3,33b-e 2,85c-f 3,19B
M3 3,66abc 4,01ab 3,90ab 3,30b-e 3,72A
M4 3,94ab 4,35a 3,79ab 3,78ab 3,96A
Trung bình (G) 3,31AB 3,44A 3,38AB 3,14B
Các chữ cái khác nhau trong từng hàng và cột biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p=0,05
(chữ cái in biểu thị từng nhân tố, chữ cái thường biểu thị kết hợp hợp hai nhân tố)
3.2. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến
năng suất một số giống diêm mạch nhập
nội trên đất nâu đỏ bazan tại Buôn Ma
Thuột
3.2.1. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến
năng suất cá thể một số giống diêm mạch
Khi thay đổi mật độ trồng khác nhau
dẫn năng suất cá thể có sự thay đổi từ 13,77
g/cây đến 29,56 g/cây, sai khác này có ý
nghĩa thống kê mức 95% giữa mật đột M3
và M4 đối với hai mật độ còn lại, giữa mật
độ M3 và M4 có sự sai khác nhưng không
có ý nghĩa thống kê; Đối với các giống diêm
mạch, giống cho năng suất cá thể thấp nhất
đạt 21,26 g/cây (giống Moradas) và cao
nhất đạt 26,16 g/cây (giống Atlas) và sự
khác nhau này có ý nghĩa thống kê ở mức
95% giữa giống Atlas đối với giống
Moradas và Haiwan.
Bảng 5. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất cá thể (g/cây) của một số giống diêm mạch
Mật độ trồng (M)
Giống diêm mạch (G)
Trung bình (M)
G1 (Cahuil) G2 (Atlas) G3 (Moradas) G4 (Haiwan)
M1 13,50f 13,53f 13,88f 14,17f 13,77C
M2 22,07c-f 24,16b-e 19,57ef 19,67def 21,36B
M3 29,50a-d 32,35ab 26,57 a-e 25,38 a-e 28,45A
M4 30,89abc 34,62a 25,03a-e 27,69 a-e 29,56A
Trung bình (G) 23,99AB 26,16A 21,26B 21,73B
Các chữ cái khác nhau trong từng hàng và cột biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p=0,05
(chữ cái in biểu thị từng nhân tố, chữ cái thường biểu thị kết hợp hợp hai nhân tố)
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1815-1823
1820 Nguyễn Văn Minh
Khi có sự tương tác giữa hai nhân tố
thì năng suất cá thể cũng có sự thay đổi từ
13,50 g/cây (G1M1) đến 34,62 g/cây
(G2M4), sai khác này có ý nghĩa thống kê
giữa các công thức đặc biệt là các giống
diêm mạch trồng ở mật độ trồng M3 và M4
so với mật độ M1 (Bảng 6). Kết quả của
nhóm tác giả Đinh Thái Hoàng và cs. (2014)
khi nghiên cứu về lượng đạm bón cho hai
giống diêm mạch là Green và Red cho năng
suất cá thể tương ứng đạt 24,30 g/cây và
23,06 g/cây, kết quả nghiên cứu trong thí
nghiệm của chúng tôi có biên độ dao động
lớn hơn (từ 21,26 g/cây - giống Moradas
đến 26,16 g/cây - Atlas) do chúng tôi sử
dụng 4 giống thí nghiệm tại vùng đất có
điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai ở Đắk
Lắk. Nhóm tác giả Trần Thị Hân và cs.
(2017) khi nghiên cứu về mật độ trồng từ
160.000 cây/ha đến 300.000 cây/ha cho
giống diêm mạch Real White tại Cam Lộ và
Vĩnh Linh cho kết quả năng suất cá thể
trung bình đạt dưới 5 g/cây, thấp hơn rất
nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi, có
thể do giống khác nhau và mật độ trồng quá
dày và điều kiện đất đai, khí hậu ở Quảng
Trị khác Đắk Lắk.
3.2.2. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến
năng suất lý thuyết một số giống diêm
mạch nhập
Số liệu về năng suất lý thuyết của các
giống diêm mạch (Bảng 7) khi trồng ở các
mật độ khác nhau cho kết quả năng suất trung
bình đạt từ 18,46 tạ/ha (M1) đến 23,25 tạ/ha
(M3) và sự sai khác này có ý nghĩa thống kê
ở mức 95%, rõ nhất giữa mật độ M3 đối với
mật độ M1 và M4; Đối với các giống diêm
mạch, giống Atlas cho năng suất trung bình
cao nhất (23,29 tạ/ha) và có sự khác biệt khá
lớn so với hai giống Moradas và Haiwan. Kết
hợp hai yếu tố mật độ và giống cho thấy năng
suất lý thuyết cao nhất ở công thức M3G2
(giống Atlas trồng ở mật độ 80.000 cây/ha) và
đạt thấp nhất ở công thức thí nghiệm G3M4
(giống Moradas trồng ở mật độ 66.666
cây/ha), sự sai khác này có ý nghĩa thống kê
mức 95% giữa công thức M3G2 so với tất các
các giống trồng ở mật độ M1 và công thức
M4G4. Các công thức còn lại có sự sai khác
nhưng không có ý nghĩa thống kê. So sánh với
kết quả của nhóm tác giả Đinh Thái Hoàng
và cs. (2014) khi nghiên cứu về lượng đạm
bón cho hai giống diêm mạch là Green và
Red cho năng suất lý thuyết tương ứng đạt
21,30 tạ/ha và 19,40 tạ/ha thì trong nghiên
cứu của chúng tôi có hai giống diêm mạch
là Atlas và Cahuil cho năng suất lý thuyết
đạt trung bình cao hơn lần lượt là 23,66
tạ/ha/vụ và 21,37 tạ/ha/vụ mặc dù cùng
lượng phân bón như nhau nhưng được trồng
trên hai vùng đất có điều kiện thời tiết, khí
hậu, đất đai khác nhau. Kết quả của nhóm tác
giả Phan Thị Phương Nhi và cs. (2017) khi
nghiên cứu về thời vụ trồng cho giống diêm
mạch Green tại Cam Lộ, Quảng Trị cho
năng suất lý thuyết trung bình ở các thời vụ
trồng khác nhau đạt dưới 10 tạ/ha/vụ, thấp
hơn khá nhiều so với nghiên cứu về các
giống diêm mạch ở 4 mật độ khác nhau
trong mùa khô tại Đắk Lắk của chúng tôi,
có thể do giống và điều kiện khí hậu, đất đai
không giống nhau.
Bảng 6. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất lý thuyết (tạ/ha/vụ) một số giống diêm mạch
Mật độ trồng (M)
Giống diêm mạch (G)
Trung bình (M)
G1 (Cahuil) G2 (Atlas) G3 (Moradas) G4 (Haiwan)
M1 18,34b 18,81b 18,23b 18,48b 18,46B
M2 22,29ab 24,13ab 19,75ab 20,07ab 21,56AB
M3 24,03ab 27,40a 21,00ab 20,58ab 23,25A
M4 20,80ab 24,29ab 16,29b 18,05b 19,86B
Trung bình (G) 21,37AB 23,66A 18,82B 19,29B
Các chữ cái khác nhau trong từng hàng và cột biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p=0,05
(chữ cái in biểu thị từng nhân tố, chữ cái thường biểu thị kết hợp hợp hai nhân tố)
3.2.3. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến
năng suất thực thu một số giống diêm
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1815-1823
1821
mạch nhập
Năng suất thực thu là kết quả cuối
cùng của quá trình sinh trưởng, phát triển
của cây trồng và các biện pháp kỹ thuật
canh tác cây diêm mạch trong điều kiện
thực tế tại địa phương trên đất nâu đỏ bazan,
đây cũng là chỉ tiêu quan trọng mà người
trồng diêm mạch cũng như nhà nghiên cứu,
các công ty, nhà máy chế biến các sản phẩm
có liên quan đến cây diêm mạch đặc biệt
quan tâm. Thực tế nghiên cứu này, ngoài
yếu tố thí nghiệm là mật độ trồng và giống,
các yếu tố khác được xem là đồng nhất, kết
quả ở Bảng 7 cho thấy cả hai yếu tố có ảnh
hưởng khá rõ đến năng suất thực thu của cây
diêm mạch.
Bảng 7. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất thực thu (tạ/ha/vụ) một số giống diêm mạch
Mật độ trồng (M)
Giống diêm mạch (G)
Trung bình (M)
G1 (Cahuil) G2 (Atlas) G3 (Moradas) G4 (Haiwan)
M1 16,50bcd 17,87bcd 14,95cd 15,71bcd 16,26C
M2 20,07a-d 22,93ab 16,19bcd 17,06bcd 19,06AB
M3 21,63abc 26,03a 17,22bcd 17,49bcd 20,59A
M4 18,72bcd 23,07ab 13,36d 15,34cd 17,62BC
Trung bình (G) 19,23B 22,48A 15,43C 16,40C
Các chữ cái khác nhau trong từng hàng và cột biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p=0,05
(chữ cái in biểu thị từng nhân tố, chữ cái thường biểu thị kết hợp hợp hai nhân tố)
Khi thay đổi mật độ trồng diêm mạch
từ 66.666 cây/ha đến 133.333 cây/ha làm
ảnh hưởng đến năng suất thực thu trung
bình đạt từ 16,26 tạ/ha (M1) đến 20,59 tạ/ha
(M3), sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ở
mức 95% giữa mật độ trồng M3 so với mật
độ M1 và M4 nhưng không có ý nghĩa đối
với mật độ M2. Tương tự, mỗi giống diêm
mạch khác nhau cho kết quả năng suất thực
thu trung bình là khác nhau, cao nhất đạt
22,48 tạ/ha/vụ (giống Atlas) và thấp nhất là
15,43 tạ/ha/vụ (giống Moradas), sự sai khác
này có ý nghĩa thống kê ở mức 95% giữa
giống Atlas với tất cả các giống còn lại.
Phân tích ảnh hưởng giữa hai yếu tố là mật
độ và giống cho thấy năng suất thực thu
trung bình đạt thấp nhất là công thức
(G3M4 - 13,36 tạ/ha/vụ) đến cao nhất là
công thức (G2M3 - 26,03 tạ/ha/vụ) và sự sai
khác này có ý nghĩa thống kê ở mức 95%,
rõ nhất ở giống Atlas trồng với mật độ thưa
hơn so với các giống khác trồng với mật độ
dày. Năng suất thực thu của 4 giống thí
nghiệm ở tất cả các mật độ trồng khác nhau
trong nghiên cứu của chúng tôi đạt từ 13,36
tạ/ha/vụ đến 26,03 tạ/ha/vụ, cao hơn rất
nhiều so với năng suất thực thu cây diêm
mạch giống HV1 trong nghiên cứu của tác
giả Trịnh Ngọc Đức (2001) đạt 9,0 tạ/ha/vụ
đến 12,0 tạ/ha/vụ ở tất cả các mật độ thí
nghiệm. Sự khác biệt này có thể do các
giống diêm mạch trong hai thí nghiệm là
khác nhau và trồng tại các địa điểm với điều
kiện khí hậu thời tiết, đất đai và chế độ chăm
sóc khác nhau mặc dù mật độ trồng là tương
đương.
3.3. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến
hàm lượng protein tổng số các giống
diêm mạch nhập nội trên đất nâu đỏ
bazan tại Buôn Ma Thuột
Diêm mạch là cây lương thực có giá
trị dinh dưỡng cao (hàm lượng protein 15-
21%, là một trong số rất ít loại hạt có đủ các
acid amin cần thiết cho con người, hàm
lượng sắt 5%, hàm lượng vitamin cao
(FAO, 2013).
Mỗi giống diêm mạch khác nhau cho
hàm lượng protein tổng số là khác nhau và
phần lớn do đặc tính di truyền của giống
quyết định. Kết quả phân tích về hàm lượng
protein tổng số của các giống được ghi nhận
tại Bảng 8 cho thấy giống Atlas cho hàm
lượng cao nhất trung bình đạt 18,49%, kế
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1815-1823
1822 Nguyễn Văn Minh
đến là các giống Cahuil, Haiwan và
Moradas, sự sai khác này có ý nghĩa thống
kê ở mức 95% giữa hàm lượng protein của
giống Atlas với tất cả các giống còn lại. Đối
với từng mật độ trồng, hàm lượng protein
tổng số có sự sai khác giữa các mật độ khác
nhau nhưng không có ý nghĩa thống kê. Xét
ảnh hưởng giữa hai yếu tố là mật độ và
giống cho thấy hàm lượng protein tổng số
trung bình đạt thấp nhất là công thức
(G3M2 - 14,75%) đến cao nhất là công thức
(G2M3 - 18,83%) và sự sai khác này có ý
nghĩa thống kê giữa giống Atlas trồng ở các
mật độ so với tất cả các giống còn lại ngoại
trừ giống Cahuil trồng ở mật độ 80.000
cây/ha. So sánh với hàm lượng protein tổng
số của một số giống diêm mạch tại Hà Lan
mà tác giả Janssen và cs., 1996 đã phân tích
(đạt 13,5%), 4 giống diêm mạch trong thí
nghiệm tại Buôn Ma Thuột cao hơn (đạt từ
15,01% đến 18,49%), kết quả này có thể do
các giống diêm mạch khác nhau được trồng
trên các điều kiện sinh thái, thổ nhưỡng và
chế độ bón phân khác nhau ở từng vùng.
Bảng 8. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến hàm lượng protein tổng số (%) của các giống diêm mạch
Mật độ trồng (M)
Giống diêm mạch (G)
Trung bình (M)
G1 (Cahuil) G2 (Atlas) G3 (Moradas) G4 (Haiwan)
M1 15,49bc 18,11a 14,84c 15,06bc 15,88NS
M2 15,69bc 18,33a 14,75c 14,97c 15,93NS
M3 16,12ab 18,83a 15,25 bc 15,15bc 16,34NS
M4 15,37bc 18,71a 15,21bc 15,38bc 16,17NS
Trung bình (G) 15,67B 18,49A 15,01C 15,14C
Các chữ cái khác nhau trong từng hàng và cột biểu thị sự sai khác có ý nghĩa thống kê với p=0,05
(chữ cái in biểu thị từng nhân tố, chữ cái thường biểu thị kết hợp hợp hai nhân tố), NS: sai khác
không có ý nghĩa thống kê.
4. KẾT LUẬN
Giống diêm mạch thích hợp nhất
trồng trên đất nâu đỏ bazan tại thành phố
Buôn Ma Thuột là giống Atlas cho năng
suất thực thu cao nhất trong 4 giống thí
nghiệm, trung bình đạt 22,48 tạ/ha/vụ, hàm
lượng protein tổng số tốt nhất đạt 18,49%.
Mật độ trồng phù hợp nhất trong 4 mật độ
thí nghiệm là 80.000 cây/ha (hàng cách
hàng 50 cm, cây cách cây 25 cm) cho năng
suất thực thu trung bình đạt 20,59 tạ/ha/vụ.
Công thức G2M3 (giống diêm mạch Atlas
trồng ở mật độ 80.000 cây/ha) trên nền phân
bón 90 kg N + 60 kg P2O5 + 60 kg K2O +
1.000 kg phân hữu cơ vi sinh Huco + 500
kg vôi bột/ha/vụ, cho năng suất thực thu
trung bình cao nhất đạt 26,03 tạ/ha/vụ và
hàm lượng protein tổng số tốt nhất đạt
18,83%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Trần Thị Hương Giang và Nguyễn Thị Vòng.
(2013). Thực trạng và định hướng sử dụng
đất tỉnh Nam Định trong điều kiện biến đổi
khí hậu. Tạp chí Khoa học và Phát triển,
(11), 672-680.
Trần Thị Hân, Trần Bảo Khánh, Nguyễn Thị
Phương Thảo, Phan Thị Phương Nhi, Dương
Thị Hương Quế, Phạm Thị Thúy Hoài và Lê
Tuấn Anh. (2017). Ảnh hưởng của phương
thức gieo và mật độ trồng đến chỉ tiêu sinh
trưởng, phát triển và năng suất cây Diêm
mạch (Chenopodium quinoa
Willd.) tại Quảng Trị. Tạp chí Khoa học
Công nghệ Việt Nam, 17(6), 13-20.
Đinh Thái Hoàng, Nguyễn Tất Cảnh và Nguyễn
Việt Long. (2015). Ảnh hưởng của lượng
đạm bón đến sinh trưởng năng suất một số
giống diêm mạch nhập nội. Tạp chí Khoa
học và Phát triển, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, 13(2), 173-182
Trần Đình Long. (1996). Chọn giống cây trồng
lấy hạt và biện pháp thâm canh (Mì, mạch,
cao lương, kê và Hạt vàng). Hà Nội: Nhà
xuất bản Nông Nghiệp.
Lyakhovkin, A.G và Trần Đình Long. (1994).
Cây trồng mới và ít phổ biến tại Việt Nam.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1815-1823
1823
Hà Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp, 31
trang.
Đinh Thái Hoàng, Nguyễn Tất Cảnh và Nguyễn
Việt Long. (2015). Ảnh hưởng của lượng
đạm bón đến sinh trưởng năng suất một số
giống diêm mạch nhập nội. Tạp chí Khoa
học và Phát triển, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, 13(2), 173-182
Vũ Tuyên Hoàng và Vũ Thị Na. (1993). Giống
HV1 và kỹ thuật gieo trồng. Tạp chí Nông
nghiệp và Công nghệ thực phẩm, 294-296.
Phan Thị Phương Nhi, Trần Thị Hân, Dương Thị
Hương Quế và Nguyễn Thị Phương Thảo.
(2017). Nghiên cứu thời gian gieo trồng
thích hợp cho cây quinoa (chenopodium
quinoa Willd.) tại huyện Cam lộ, tỉnh Quảng
trị. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông
nghiệp, 1(1), 93-102
Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu. (2013). Tác
động của biến đổi khí hậu đến tăng trưởng
và phát triển ở Việt Nam và một số gợi ý
chính sách. Tạp chí Kinh tế và phát triển,
(193), 15-22.
Trịnh Ngọc Đức. (2001). Nghiên cứu phát triển
cây hạt vàng (Chenopodium quinoa Willd)
tại miền Bắc Việt Nam. Luận án tiến sĩ nông
nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà
Nội.
2. Tài liệu tiếng Anh
Aguilar, P. C., Cutipa, Z., Machaca, E., Lopez,
M., & Jacobsen, S-E., (2003). Variation of
proline content of quinoa (Chenopodium
quinoa Willd.) in high beds (waru waru).
Food Reviews International, (19), 121–127
Bertero, H. D., Vega A. J. D. L, Correa, G.,
Jacobsen, S. E., Mujica, A. (2004).
Genotype and genotype- by-environment
interaction effects for grain yield and grain
size of quinoa (Chenopodium quinoa Willd.)
as revealed by pattern analysis of
international multi-environment trials. Field
Crop Research, (89), 299-318.
FAO, Bioversity International, PROINPA,
INIAF and IFAD. (2013). Descriptors for
quinoa (Chenopodium quinoa Willd.)
and wild relatives. Bioversity
International, Rome, Italy; Fundación
PROINPA, La Paz, Bolivia; Instituto
Nacional de Innovación Agropecuaria y
Forestal, La Paz, Bolivia; International Fund
for Agricultural Development, Food and
Agriculture Organization of the United
Nations, Rome, Italy.
Ruiz-Carrasco, K.., Antognoni, F., Coulibaly,
A.K., Lizardi, S., Covarrubias, A., Martínez,
E.A., Molina-Montenegro, M.A., Biondi, S.
and Zurita-Silva, A. (2011). Variation in
salinity tolerance of four lowland genotypes
of quinoa (Chenopodium quinoa Willd.) as
assessed by growth, physiological traits, and
sodium transporter gene expression. Plant
Physiology and Biochemistry, (49), 1333-
1341.
Janssen, W. M. M., Terpstra, K., Beeking.
(1996). Feeding values for poultry. Hà Nội:
Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_mat_do_trong_den_nang_suat_va_ham_luong_protei.pdf