3.3. Ảnh hưởng của thời gian ủ khuẩn A.
tumefaciens và đồng nuôi cấy đến hiệu quả
chuyển gen
Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian ủ khuẩn
Agrobacterium và đồng nuôi cấy đến hiệu quả
chuyển gen ở giống đậu tương ĐT22 được
thực hiện với các khoảng thời gian ủ lần lượt
là: 15 phút; 30 phút; 45 phút; thời gian đồng
nuôi cấy 2 ngày, 5 ngày và 8 ngày, kết quả
được trình bày ở bảng 4. Kết quả bảng 4 cho
thấy, với thời gian lây nhiễm 15 phút, các
cụm mầm bị chết gần như hoàn toàn ở giai
đoạn cuối của chọn lọc lần 1; thời gian lây
nhiễm 45 phút, tỷ lệ nhiễm lại khuẩn rất cao
và loại bỏ nhiều ở giai đoạn cảm ứng tạo chồi
SIM1. Ở thời gian đồng nuôi cấy 2 ngày, các
mảnh lá mầm nhỏ hơn nhiều so với đồng nuôi
cấy 5 ngày và 8 ngày, nhưng với thời gian
đồng nuôi cấy 8 ngày khuẩn mọc lại rất cao
đến ngày thứ 6 của đồng nuôi cấy khuẩn mọc
lan ra ngoài của giấy lọc và đến ngày thứ 8
một số mảnh bị thối. Vì vậy, thời gian lây
nhiễm 30 phút và đồng nuôi cấy 5 ngày cho
kết quả tốt nhất để sử dụng cho chuyển gen ở
giống đậu tương ĐT22.
3.4. Ảnh hưởng của kháng sinh và thời gian
diệt khuẩn đến hiệu quả chuyển gen
Xác định kháng sinh và thời gian rửa khuẩn
sau 5 ngày đồng nuôi cấy là yếu tố quan trọng
đến khả năng diệt khuẩn và tạo đa chồi của
các mảnh lá mầm sau khi được lây nhiễm
A.tumeffaciens tái tổ hợp. Sử dụng kháng sinh
diệt khuẩn phổ rộng cefotaxime với nồng độ
lần lượt là 200 mg/l, 500 mg/l và 1000 mg/l
bổ sung vào môi trường rửa khuẩn (SIM lỏng)
với thời gian rửa 5 phút, 10 phút, và 15 phút.
Các mảnh lá mầm sau khi đồng nuôi cấy 5
ngày, gắp nhẹ vào bình tam giác 250 ml rửa
bằng nước cất khử trùng 3 lần thời gian 2
phút/lần, tiếp tục rửa 1 lần với môi trường SIM
lỏng có bổ sung kháng sinh ở các nồng độ
khác nhau và thời gian khác nhau. Sau đó, cấy
chuyển trên môi trường cảm ứng tạo chồi
SIM1 2 tuần; tiếp tục chuyển sang môi trường
SIM2 và SEM1 có chất chọn lọc 4 tuần. Kết
quả qua từng giai đoạn cho thấy, nồng độ
cefotaxime 500 mg/l được bổ sung vào môi
trường diệt khuẩn rửa trong thời gian 10 phút
cho kết quả tốt nhất. Ở nồng độ cefotaxim
1000 mg/l, các mảnh lá mầm tạo đa chồi kém,
tại vị trí nách lá mầm sau khi tạo tổn thương bị
đen và không tạo được cụm đa chồi. Ở nồng
độ cefotaxime 200 mg/l, các mảnh lá mầm bị
tái nhiễm khuẩn rất cao, chỉ sau tuần đầu cảm
ứng tạo chồi, hầu hết các mảnh đều bị nhiễm
lại khuẩn (Bảng 5).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của một số yếu tố đến hiệu quả chuyển gen CodA vào giống đậu tương ĐT22, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TNU Journal of Science and Technology 225(11): 121 - 127
Email: jst@tnu.edu.vn 121
ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ ĐẾN HIỆU QUẢ
CHUYỂN GEN CodA VÀO GIỐNG ĐẬU TƯƠNG ĐT22
Ngô Mạnh Dũng1, Tạ Thị Đông2, Phạm Bích Ngọc2,
Chu Hoàng Hà2, Chu Hoàng Mậu1*
1Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên,
2Viện Công nghệ sinh học - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
TÓM TẮT
Đậu tương là loại cây trồng nhạy cảm với các stress phi sinh học và được coi là cây chống chịu
kém với các yếu tố bất lợi từ môi trường. Ứng dụng kỹ thuật chuyển gen để nâng cao khả năng
chống chịu các stress phi sinh học ở đậu tương đang được quan tâm nghiên cứu. Hiệu quả chuyển
gen ở đậu tương không những phụ thuộc vào kiểu gen của giống mà còn chịu ảnh hưởng của các
yếu tố như thao tác gây tổn thương, nồng độ vi khuẩn, chất chọn lọc, chất kích thích sinh trưởng...
Trong nghiên cứu này, một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chuyển gen CodA vào giống đậu
tương ĐT22 đã được khảo sát. Kết quả cho thấy sử dụng phosphinothricin (ppt) 3 mg/l ở giai đoạn
cảm ứng tạo chồi trong môi trường SIM và ppt 1,5 mg/l ở giai đoạn kéo dài chồi trong môi trường
SEM cho hiệu quả chọn lọc cao nhất. Dịch khuẩn có giá trị OD650= 0,6 với thời gian ủ khuẩn 30
phút, đồng nuôi cấy 3 ngày trong tối và diệt khuẩn bằng cefotaxime 500 mg/l thích hợp cho cảm
ứng tạo chồi và kéo dài chồi trên môi trường chọn lọc.
Từ khóa: CodA; giống đậu tương ĐT22; hiệu quả chuyển gen; nhân tố ảnh hưởng;
phosphinothricin
Ngày nhận bài: 25/9/2020; Ngày hoàn thiện: 23/10/2020; Ngày đăng: 31/10/2020
THE INFLUENCE OF SOME FACTORS ON THE EFFICIENCY OF
CodA GENE TRANSFORMATION INTO THE DT22 SOYBEAN VARIETY
Ngo Manh Dung1, Ta Thi Dong2, Pham Bich Ngoc2,
Chu Hoang Ha2, Chu Hoang Mau1*
1TNU- University of Education,
2Institute of Biotechnology - Vietnam Academy of Science and Technology
ABSTRACT
Soybean is a sensitive crop to abiotic stresses and is considered a poor tolerant plant to the adverse
environmental factors. The application of gene transfer to improve tolerance to abiotic stresses in
soybeans is being researched concerned. The efficiency of genetic transformation in soybeans not
only depends on the genotype of each variety but is also influenced by factors such as damage
manipulation, bacterial concentration, selective substances, growth stimulants... In this study, some
factors affecting the efficiency of CodA gene transfer into the soybean variety DT22 were
investigated. The results showed that using 3.0 mg/l phosphinothricin (ppt) in the SIM medium at
the shoot induction phase and 1.5 mg/ l ppt in the SEM medium at the shoot elongation phase gave
the highest selective efficiency. Bacterial solution with OD650 =0.6 with an incubation time of 30
minutes, co-culture for 3 days in the dark, and bactericidal with cefotaxime 500 mg/l is suitable for
shoot induction and shoot elongation on selective medium.
Keywords: CodA; soybean variety DT22; efficiency of gene transfer; influencing factors;
phosphinothricin
Received: 25/9/2020; Revised: 23/10/2020; Published: 31/10/2020
* Corresponding author. Email: chuhoangmau@tnu.edu.vn
Ngô Mạnh Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 121 - 127
Email: jst@tnu.edu.vn 122
1. Mở đầu
Đậu tương là loại cây trồng nhạy cảm với các
stress phi sinh học và được xếp vào nhóm cây
chống chịu kém các yếu tố bất lợi của môi
trường, do vậy việc tăng cường khả năng
chống chịu các stress của cây đậu tương trong
bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay là vấn đề
rất được quan tâm. Công nghệ gen đã mở ra
một giai đoạn mới trong lĩnh vực phát triển
nông nghiệp, cho phép tạo ra các cây trồng
chuyển gen mang đặc tính mới, có định
hướng và rút ngắn thời gian chọn tạo giống.
Biến đổi khí hậu gây ra những tác động bất
lợi như khô hạn, nhiễm mặn, nhiệt độ cực
đoan và thường làm mất cân bằng về áp suất
thẩm thấu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
năng suất và chất lượng của nhiều loại cây
trồng. Trong điều kiện khô hạn, mặn, lạnh,
thực vật có xu hướng tăng cường tổng hợp,
tích luỹ các chất chuyển hoá như các loại
đường tan, amino acid để tăng cường áp suất
thẩm thấu cho tế bào. Gần đây, một số nghiên
cứu cho thấy glycine betaine là chất đóng vai
trò quan trọng trong quá trình điều chỉnh áp
suất thẩm thấu nội bào khi thực vật sống
trong các điều kiện bất lợi. Một số cây trồng
chuyển gen mã hoá cho các enzyme liên quan
đến con đường sinh tổng hợp glycine betaine
cho thấy khả năng chống chịu tốt với điều
kiện bất lợi của môi trường như lạnh, nóng,
hạn và mặn [1]-[4]. Trong số đó, gen CodA
được phân lập từ vi khuẩn A. globiformis, mã
hóa sinh tổng hợp enzyme choline oxidase
(COD) được biết đến như một gen tiềm năng
trong việc tạo ra cây chuyển gen có khả năng
chống chịu các điều kiện bất lợi của ngoại
cảnh [1], [3]. Hiện nay, nhiều quy trình
chuyển gen đã được áp dụng đối với cây đậu
tương, nhưng phổ biến là biến nạp gen bằng
lây nhiễm A. tumefaciens tái tổ hợp qua nách
lá mầm. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn còn
một số hạn chế cần được khắc phục như thao
tác tạo tổn thương cần có độ chính xác cao,
nồng độ vi khuẩn sử dụng cho biến nạp cần
tối ưu theo từng chủng, nồng độ chất chọn lọc
sử dụng cho chọn lọc cây chuyển gen. Ngoài
ra, hiệu quả chuyển gen còn phụ thuộc vào
kiểu gen của từng giống đậu tương và đến nay
ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu chuyển
gen vào các giống đậu tương DT84, DT2008
trong mục đích làm tăng tích lũy proline và
isoflavone và hiệu suất chuyển gen khác nhau
giữa các giống [5], [6]. Chính vì vậy nghiên
cứu chọn điều kiện chuyển gen thích hợp với
kiểu gen của mỗi giống được chú ý và quan
tâm bởi các nhà nghiên cứu chuyển gen ở đậu
tương. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày
kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của
phosphinothricin, nồng độ và thời gian ủ khuẩn
A.tumefaciens, đồng nuôi cấy, nồng độ kháng
sinh chọn lọc đến hiệu quả chuyển gen CodA
vào giống đậu tương ĐT22 của Việt Nam.
2. Vật liệu và phương pháp
2.1. Vật liệu
Hạt giống đậu tương ĐT22 được cung cấp từ
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Đậu đỗ,
Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm -
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
Chủng khuẩn Agrobacterium tumefaciens
C58/pGV2206 (IPK, Gatersleben, Đức) mang
vector pIBTII/rd29A-CodA sử dụng để biến
nạp (Hình 1). Môi trường cơ bản MS [7] bổ
sung vitamin B5. Các chất điều hòa sinh
trưởng: Benzyl amino purine (BAP), Indol - 3
- butiric acid (IBA)...; kháng sinh:
Spectinomcine, rifamicine, cefotaxim...; các
hóa chất khác như: Yeast extract, bacto
pepton, trypton, NaCl, agarose, sucrose,
glycerol, DDT, L- Cystein, Na2S2O3,
phosphinothricin được cung cấp bởi các hãng:
New England Biolabs (Anh), Amersham
Pharmacia Biotech (Thụy Điển), Chemicals
(Đức), Sigma (Mỹ), Duchefa (Hà Lan),
Merck (Đức) và Wako (Nhật Bản). Thành
phần môi trường sử dụng trong chuyển gen
vào giống đậu tương ĐT22 được thể hiện ở
bảng 1.
2.2. Phương pháp
Vector tái tổ hợp pIBTII/rd29A-CodA được
biến nạp vào chủng khuẩn A. tumefaciens
C58/pGV2206 tạo A. tumefaciens tái tổ hợp. A.
tumefaciens mang vector pIBTII/rd29A-CodA
được lây nhiễm vào giống đậu tương ĐT22
qua nách lá mầm theo phương pháp của
Olhoft và cs [8].
Ngô Mạnh Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 121 - 127
Email: jst@tnu.edu.vn 123
Bảng 1. Thành phần môi trường sử dụng trong chuyển gen CodA ở đậu tương
Môi trường Thành phần
Hạt nảy mầm
(GM)
Muối B5 3,052 g/l + sucrose 20 g/l + gellan 2,5 g/l, pH = 5,8 có bổ sung vitamin
B5 1000X 1 ml/l.
Dịch huyền phù
(CCM lỏng)
Muối B5 0,316g/l + BAP 1,7 mg/l + MES 3,9g/l + GA3 0,25 mg/l + sucrose 30 g/l
pH = 5,4 có bổ sung acetosyringone 40 mg/l + dithiothreitol 154 mg/l + L-cysteine
400 mg/l + sodium thiosulfate 158 mg/l + vitaminB5 1000X 1 ml/l + BAP 1,67
mg/l + GA3 0,25 mg/l.
Đồng nuôi cấy
(CCM đặc)
Muối B5 0,316 g/l + BAP 1,7 mg/l + MES 3,9 g/l + GA3 0,25 mg/l + Sucrose 30
g/l + 6 agar g/l, pH = 5,4 có bổ sung acetosyringone 0,04 g/l + vitamin B5 1000X 1
ml/l + BAP 1,67 mg/l + GA3 0,25 mg/l.
Diệt khuẩn và tạo
đa chồi (SIM)
Muối B5 3,052 g/l + MES 0,59 g/l + sucrose 30 g/l + agar 8 g/l, pH = 5,8, bổ sung
BAP 1,67 mg/l + cefotaxim 500 mg/l + vitamin B5 1000X 1 ml/l.
Kéo dài chồi
(SEM)
MS 4,3 g/l + MES 0,59 g/l + sucrose 30 g/l + nước dừa 200 ml/l + gellan 2,5 g/l,
pH = 5,8 có bổ sung cefotaxim 500 mg/l + vitamin B5 1000X 1 ml/l + GA3 500
mg/l + IAA 100 mg/l + L-asparagine monohydrate 50 mg/l.
Ra rễ (RM)
MS 4,3 g/l + sucrose 20 g/l + MES 0,59 g/l + gellan 2,5 g/l, pH = 5,8 có bổ sung
cefotaxim 250 mg/l + IBA 0,1 mg/l + vitamin B5 1000X 1 ml/l + L-asparagine
monohydrate 50 mg/l.
Các cụm đa chồi được chọn lọc lần lượt trên
môi trường cảm ứng tạo chồi bổ sung 3 mg/l
ppt và kéo dài chồi 1,5 mg/l ppt. Các chồi
sống sót sau các lần chọn lọc được cắt tạo rễ
trên môi trường có bổ sung IBA. Sau 7- 12
ngày, các chồi có bộ rễ hoàn chỉnh được trồng
ra đất trong phòng thích nghi sinh trưởng và
được kiểm tra sự có mặt của gen chọn lọc và
gen đích bằng phương pháp phết chất diệt cỏ
và sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử.
Hình 1. Vector pIBTII/rd29A-CodA sử dụng để biến nạp
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Ảnh hưởng của nồng độ phosphinothricin
(ppt) đến hiệu quả chuyển gen
Một bước quan trọng trong một quy trình biến
nạp gen hiệu quả là lựa chọn tác nhân chọn
lọc hiệu quả để cho phép phân biệt giữa tế
bào chuyển gen và không chuyển gen bằng
cách ức chế tăng sinh và tái tạo [9]. Gen bar
hoặc gen pat được phân lập từ Streptomyces
hygroscopicus mã hóa enzyme
Phosphinothricin Acetyltransferase, acetyl
hóa nhóm NH2 của thuốc diệt cỏ
phosphinothricin khiến thuốc trở nên vô hại
[10]. Thực vật mang gen chỉ thị chọn lọc (bar
hoặc pat) có khả năng kháng thuốc diệt cỏ
dựa trên phosphinothricin [11]. Gen bar và
pat đã được sử dụng rộng rãi như các chỉ thị
trong thực vật chuyển gen và là công cụ lý
tưởng để xác định các mô chuyển gen, thậm
chí cả trong điều kiện nhà kính hoặc đồng
ruộng [12], [13]. Mức độ nhạy cảm của vật
liệu thực vật với ppt phụ thuộc vào kiểu gen
và loại mẫu cấy, điều kiện chọn lọc hoặc
thành phần của môi trường chọn lọc [14]. Ở
phạm vi nồng độ từ 1- 10 mg/l, ppt phù hợp
để lựa chọn tế bào được biến nạp với gen bar
ở hầu hết các loài thực vật [10]. Để xác định
hàm lượng ppt sử dụng chọn lọc các chồi
chuyển gen thí nghiệm, hạt nảy mầm sau khi
gieo 5 ngày thu lá mầm và tiến hành gây tổn
Ngô Mạnh Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 121 - 127
Email: jst@tnu.edu.vn 124
thương tại nách lá mầm và không lây nhiễm
khuẩn, đồng nuôi cấy 5 ngày trên môi trường
CCM sau đó được cảm ứng tạo chồi trên môi
trường SIM1 và SIM2. Ở môi trường SIM1
không bổ sung chất chọn lọc ppt sau 2 tuần
cảm ứng tạo chồi. Sau đó các cụm chồi
chuyển sang môi trường SIM2, bổ sung ppt
với 5 nồng độ (0; 1; 3; 5; 7) mg/l. Theo dõi
sau hai tuần, kết quả được trình bày ở bảng 2.
Sau 14 ngày, trên môi trường SIM2 có chứa 0
mg/l và 1 mg/l ppt, các cụm chồi xanh và phát
triển bình thường, trong khi đó, lá của các
cụm chồi úa vàng và rụng ở ngày thứ 7 trên
môi trường SIM2 có chứa 3-5 mg/l ppt (Hình
2). Trên môi trường SIM2 có chứa 7 mg/l ppt,
các cụm chồi chết khô hoàn toàn sau 8 ngày
nuôi cấy và tỉ lệ chồi kéo dài giảm theo sự
tăng nồng độ của ppt. Sau khoảng 30 ngày,
cụm chồi trên các môi trường bổ sung nồng
độ ppt 3 mg/l sinh trưởng phát triển chậm,
nhưng có hiện tương tạo cụm chồi mới và
xanh. Ở nồng độ ppt 5 mg/l, chồi chết hoàn
toàn (Hình 2). Từ các kết quả này, chúng tôi
lựa chọn môi trường SIM bổ sung ppt 3,0
mg/l để chọn lọc cây đậu tương chuyển gen.
3.2. Ảnh hưởng của nồng độ khuẩn A.
tumefaciens đến khả năng cảm ứng tạo chồi
A. tumefaciens được xem là vi khuẩn tương
đối nhạy cảm với điều kiện nuôi cấy. Nồng độ
khuẩn khi lây nhiễm là nhân tố ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả chuyển gen thông qua
A.tumefaciens, khi lượng vi khuẩn quá thấp
có thể làm giảm tần số tiếp xúc với các mẫu
thực vật, ngược lại nếu nồng độ quá cao có
thể gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của
mẫu, thậm chí gây chết mẫu trong quá trình
nuôi cấy [15]. Để xác định nồng độ khuẩn
Agrobacterium ở OD650 sử dụng cho chuyển
gen vào đậu tương, chúng tôi tiến hành lây
nhiễm các mảnh lá mầm hạt đậu tương đã
được làm tổn thương tại nách lá mầm với dịch
khuẩn có giá trị OD650 khác nhau, lần lượt là
0,4; 0,6; 0,8 và 1,0 trong vòng 30 phút, sau đó
tiến hành đồng nuôi cấy các mảnh lá mầm đã
lây nhiễm trên môi trường CCM. Sau 5 ngày
đồng nuôi cấy, các mảnh lá mầm được rửa
khuẩn và được cấy chuyển lên môi trường
cảm ứng tạo chồi SIM1 không chứa chất chọn
lọc trong vòng 14 ngày, sau đó được chuyển
sang môi trường SIM2 có bổ sung 3 mg/l ppt.
Sau 14 ngày, mảnh lá mầm tiếp tục được
chuyển sang môi trường SEM có chứa 1,5
mg/l ppt, kết quả được trình bày ở bảng 3.
Bảng 2. Ảnh hưởng của nồng độ ppt đến khả năng tạo chồi
Nồng độ
ppt mg/l
Số
mảnh lá
mầm
thí
nghiệm
Môi trường chọn lọc
Số mảnh lá trên
môi trường SIM1
không bổ sung
ppt sau 14 ngày
Số cụm chồi trên
môi trường SIM2
bổ sung ppt 3,0
mg/l sau 14 ngày
Số cụm chồi trên
môi trường SEM1
bổ sung ppt 1,5
mg/l sau 14 ngày
Số cụm chồi trên
môi trường SEM2
bổ sung ppt 1,5
mg/l sau 14 ngày
0 100 82 82 78 76
1 100 83 45 38 26
3 100 86 23 16 0
5 100 79 16 0 0
7 100 81 0 0 0
Hình 2. Các mảnh lá mầm trên môi trường chọn lọc với nồng độ ppt khác nhau
A: 1 mg/l; B: 3 mg/l ppt; C: 5 mg/l ppt; D: 7 mg/l ppt
Ngô Mạnh Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 121 - 127
Email: jst@tnu.edu.vn 125
Bảng 3. Ảnh hưởng cuả nồng độ khuẩn đến khả năng cảm ứng tạo chồi
Nồng độ
Agrobacterium
đo ở OD650
Số mảnh
lá mầm
thí nghiệm
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SIM1 sau 14 ngày
không bổ sung ppt
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SIM2 sau 14 ngày có
bổ sung 3,0 mg/l ppt
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SEM sau 14 ngày có
bổ sung 1,5 mg/l ppt
0,4 60 48 12 5
0,6 60 45 18 17
0,8 60 29 11 6
1,0 60 20 10 4
Tổng 240 98 55 32
Kết quả ở bảng 3 cho thấy, sau 14 ngày nuôi
cấy trên môi trường SIM1 không chứa ppt,
không thấy sự sai khác nhiều về khả năng tạo
chồi của mảnh lá mầm khi được lây nhiễm
với dịch khuẩn có giá trị OD650 là 0,4 và 0,6.
Đối với các mảnh lá mầm được lây nhiễm với
dịch khuẩn có giá trị OD650 là 0,8 và 1,0, tỷ lệ
tái nhiễm khuẩn của các mảnh lá mầm rất
cao, các mảnh lá mầm thường chết và không
tạo đa chồi. Các mảnh lá mầm được lây
nhiễm với dịch khuẩn có giá trị OD650 là 0,4
và 0,6 tiếp tục được chọn lọc trên môi trường
SIM2 và SEM có bổ sung ppt. Sau 14 ngày
nuôi cấy chọn lọc, các mảnh lá mầm được lây
nhiễm với dịch khuẩn có giá trị OD650 0,6 vẫn
tiếp tục sinh trưởng và phát sinh chồi, trong
khi các mảnh lá mầm được lây nhiễm với
dịch khuẩn có giá trị OD650 0,4 gần như chết
hoàn toàn trên môi trường chọn lọc. Vì vậy,
chúng tôi lựa chọn dịch khuẩn có giá trị
OD650 đạt 0,6 để sử dụng cho biến nạp.
3.3. Ảnh hưởng của thời gian ủ khuẩn A.
tumefaciens và đồng nuôi cấy đến hiệu quả
chuyển gen
Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian ủ khuẩn
Agrobacterium và đồng nuôi cấy đến hiệu quả
chuyển gen ở giống đậu tương ĐT22 được
thực hiện với các khoảng thời gian ủ lần lượt
là: 15 phút; 30 phút; 45 phút; thời gian đồng
nuôi cấy 2 ngày, 5 ngày và 8 ngày, kết quả
được trình bày ở bảng 4. Kết quả bảng 4 cho
thấy, với thời gian lây nhiễm 15 phút, các
cụm mầm bị chết gần như hoàn toàn ở giai
đoạn cuối của chọn lọc lần 1; thời gian lây
nhiễm 45 phút, tỷ lệ nhiễm lại khuẩn rất cao
và loại bỏ nhiều ở giai đoạn cảm ứng tạo chồi
SIM1. Ở thời gian đồng nuôi cấy 2 ngày, các
mảnh lá mầm nhỏ hơn nhiều so với đồng nuôi
cấy 5 ngày và 8 ngày, nhưng với thời gian
đồng nuôi cấy 8 ngày khuẩn mọc lại rất cao
đến ngày thứ 6 của đồng nuôi cấy khuẩn mọc
lan ra ngoài của giấy lọc và đến ngày thứ 8
một số mảnh bị thối. Vì vậy, thời gian lây
nhiễm 30 phút và đồng nuôi cấy 5 ngày cho
kết quả tốt nhất để sử dụng cho chuyển gen ở
giống đậu tương ĐT22.
3.4. Ảnh hưởng của kháng sinh và thời gian
diệt khuẩn đến hiệu quả chuyển gen
Xác định kháng sinh và thời gian rửa khuẩn
sau 5 ngày đồng nuôi cấy là yếu tố quan trọng
đến khả năng diệt khuẩn và tạo đa chồi của
các mảnh lá mầm sau khi được lây nhiễm
A.tumeffaciens tái tổ hợp. Sử dụng kháng sinh
diệt khuẩn phổ rộng cefotaxime với nồng độ
lần lượt là 200 mg/l, 500 mg/l và 1000 mg/l
bổ sung vào môi trường rửa khuẩn (SIM lỏng)
với thời gian rửa 5 phút, 10 phút, và 15 phút.
Các mảnh lá mầm sau khi đồng nuôi cấy 5
ngày, gắp nhẹ vào bình tam giác 250 ml rửa
bằng nước cất khử trùng 3 lần thời gian 2
phút/lần, tiếp tục rửa 1 lần với môi trường SIM
lỏng có bổ sung kháng sinh ở các nồng độ
khác nhau và thời gian khác nhau. Sau đó, cấy
chuyển trên môi trường cảm ứng tạo chồi
SIM1 2 tuần; tiếp tục chuyển sang môi trường
SIM2 và SEM1 có chất chọn lọc 4 tuần. Kết
quả qua từng giai đoạn cho thấy, nồng độ
cefotaxime 500 mg/l được bổ sung vào môi
trường diệt khuẩn rửa trong thời gian 10 phút
cho kết quả tốt nhất. Ở nồng độ cefotaxim
1000 mg/l, các mảnh lá mầm tạo đa chồi kém,
tại vị trí nách lá mầm sau khi tạo tổn thương bị
đen và không tạo được cụm đa chồi. Ở nồng
độ cefotaxime 200 mg/l, các mảnh lá mầm bị
tái nhiễm khuẩn rất cao, chỉ sau tuần đầu cảm
ứng tạo chồi, hầu hết các mảnh đều bị nhiễm
lại khuẩn (Bảng 5).
Ngô Mạnh Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 121 - 127
Email: jst@tnu.edu.vn 126
Bảng 4. Ảnh hưởng cuả nồng độ khuẩn đến khả năng cảm ứng tạo chồi
Thời gian
ngâm mảnh lá
mầm trong
dịch khuẩn
(phút)
Thời gian
đồng
nuôi cấy
(ngày)
Số mảnh
lá mầm
làm thí
nghiệm
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SIM1 sau 14 ngày
không bổ sung ppt
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SIM2 sau 14 ngày
có bổ sung 3,0
mg/l ppt
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SEM sau 14 ngày
có bổ sung 1,5
mg/l ppt
2 90 88 21 0
15 5 90 86 26 4
8 90 38 18 0
2 90 84 31 13
30 5 90 76 68 38
8 90 35 12 0
2 90 42 30 0
45 5 90 31 13 0
8 90 17 8 0
Hình 3. Các mảnh lá mầm sau các thời gian đồng nuôi cấy khác nhau
A: 2 ngày; B: 5 ngày; C: 8 ngày
Bảng 5. Ảnh hưởng của kháng sinh và thời gian diệt khuẩn đến khả năng diệt khuẩn và tạo đa chồi
của các mảnh lá mầm sau chuyển gen
Thời
gian
rửa
khuẩn
(phút)
Kháng
sinh diệt
khuẩn)
Cefotaxime
(mg/l)
Số
mảnh lá
mầm
làm thí
nghiệm
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SIM1 sau 14 ngày
không bổ sung ppt
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SIM2 sau 14 ngày có
bổ sung 3,0 mg/l ppt
Số mảnh lá mầm
cảm ứng tạo chồi
trên môi trường
SEM sau 14 ngày có
bổ sung 1,5 mg/l ppt
200 60 28 31 6
5 500 60 36 46 8
1000 60 18 18 3
200 60 38 26 13
10 500 60 46 38 24
1000 60 12 9 0
200 60 17 14 8
15 500 60 17 13 0
1000 60 8 5 0
4. Kết luận
Các yếu tố thích hợp cho chuyển gen CodA và
tạo đa chồi ở giống đậu tương ĐT22 đã được
xác định. Nồng độ ppt 3,0 mg/l sử dụng chọn
lọc ở giai đoạn cảm ứng tạo chồi và ppt 1,5
mg/l ở giai đoạn kéo dài chồi cho hiệu quả
chọn lọc cao nhất. Dịch khuẩn có giá trị
OD650 bằng 0,6 với thời gian ủ khuẩn 30 phút,
đồng nuôi cấy 3 ngày trong tối và diệt khuẩn
bằng cefotaxime 500 mg/l thích hợp cho cảm
ứng tạo chồi và kéo dài chồi trên môi trường
chọn lọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. J. Su, R. Hirji, L. Zhang, C. He, G. Selvaraj,
and R. Wu, “Evaluation of the stress-
inducible production of choline oxidase in
Ngô Mạnh Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 121 - 127
Email: jst@tnu.edu.vn 127
transgeneic rice as a strategy for producing
the stress protectant glycine betaine,” Journal
of Experimental Botany, vol. 57, pp. 1129-
1135, 2006.
[2]. K. Shirasawa, T. Takabe, T. Takabe, and S.
Kishitani, “Accumulation of Glycinebetaine
in Rice Plants that Overexpress Choline
Monooxygenase from Spinach and Evaluation
of their Tolerance to Abiotic Stress,” Annals
of Botany, vol. 98, pp. 565-571, 2006.
[3]. E. J. Park, Z. Jeknic, T. H. H. Chen, and N.
Murata, “The codA transgene for
glycinebetaine synthesis increases the size of
flowers and fruits in tomato,” Plant
Biotechnology Journal, vol. 5, pp. 422-430,
2007.
[4]. X. Yu, A. Kikuchi, E. Matsunaga, Y.
Morishita, and K. Nanto, “Establishment of
the evaluation system of salt tolerance on
transgeneic woody plants in the special
netted-house,” Plant Biotechnol, vol. 26, pp.
135-141, 2009.
[5]. Q. H. Nguyen, L. T. K. Vu, L. T. N. Nguyen,
N. T. T. Pham, Y. T. H. Nguyen, S. V. Le,
and M. H. Chu, “Overexpression of the
GmDREB6 gene enhances proline
accumulation and salt tolerance in genetically
modified soybean plants,” Scientific Reports,
vol. 9, p. 19663, 2019, doi:
https://doi.org/10.1038/s41598-019-55895-0.
[6]. H. Q. Nguyen, T. H. T. Le, T. N. L. Nguyen,
T. G. Nguyen, D. T. Sy, Q. T. Tu, T. T. T.
Vu, V. S. Le, H. M. Chu, and T. K. L. Vu,
“Overexpressing GmCHI1A increases the
isoflavone content of transgenic soybean
(Glycine max (L.) Merr.) seeds,” In Vitro
Cellular & Developmental Biology - Plant,
2020, doi: https://doi.org/10.1007/s11627-
020-10076-x,
[7]. T. Murashige, and F. Skoog, "A Revised
Medium for Rapid Growth and Bio Assays
with Tobacco Tissue Cultures," Physiologia
Plantarum, vol. 15, pp. 473-497, 1962.
[8]. P. O. Olhoft, and D. S. Somers, “L-Cysteine
increasesAgrobacterium-mediated T-DNA
delivery into soybean cotyledonary-node
cells,” Plant Cell Reports, vol. 20, pp. 706-
711, 2001.
[9]. S. K. Datta, “Impact of plant biotechnology in
agriculture,” in Biotechnology in Agriculture
and Forestry, E.C. Pua and M. R. Davey
(eds), Transgenic crops IV. Springer, USA,
2007, vol. 59, pp. 3-31.
[10]. H. Liang, P. A. Kumar, V. Nain, W.
A.Powell, and J. E. Carlson, “Selection and
screening strategies,” in Transgenic Crop
Plants, C. Kole, C. H. Michler, A. G. Abbott
and T.C. 538 Hall (eds), Springer, USA,
2010, vol.1: Principles and Development, pp.
85-143.
[11]. N.G. Halford, Genetically Modified Crops.
Ed. Imperial College Press, UK, 2003.
[12]. C. Longo, C. Lickwar, Q. Hu, K. Nelson-
Vasilchik, D. Viola, J. Hague, J. M. Chandlee,
H. Luo, and A. P. Kausch, “Turf grasses,” in
Methods in Molecular Biology 344,
Agrobacterium Protocols, K. Wang, (ed), Humana
Press Inc, USA, 2006, vol. 2, pp. 83-95.
[13]. K. H. Neumann, A. Kumar, and J. Imani,
“Plant Cell and Tissue Culture – A Tool in
Biotechnology”, in Basics and Application.
Springer, USA, 2009.
[14]. L. Khelifi, T. H. K. Moussa, S. Cerezo-
Medina, J. A. Mercado, F. Pliego-Alfaro, and
K. Titouh, “Evaluation of the Effect of
Phosphinothricin, as Selection Agent, on the
Growth of Olive Somatic Embryos,” Acta
Horticulturae (ISHS), pp. 533-542, 2012.
[15]. V. P. Nguyen, H. D. Chen, C. Y. Ji, W.
Teng, J. W. Li, Y. Wang, X.W. Li, W.
Ahmad, V. D. Pham, and Q.Y. Wang, “The
influence of some factors on GmMYB12A
gene transfer efficiency in soybean,” Journal
of Forest Science and Technology, no. 2, pp.
10-19, 2014.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_mot_so_yeu_to_den_hieu_qua_chuyen_gen_coda_vao.pdf