This paper presents some results of applicating three dimension (3D) numerical model to
study and assessment influences of tidal oscillation, wind and wave action on characteristics of suspended
sediment transport in Bach Dang estuary. Measures data were collected and processed systematically and
synchronously in order to create water river boundary condition (time-serial) for the model. The sea boundary
conditions of model were created by NESTING method. The model was setup with 7 vertical layers in
coordinate. The results of model were validated and calibrated by measured data of water level at Hon Dau,
and current velocity and suspended sediment concentration in some points in the model frame. Results of
scenarios show the different role of tidal oscillation, wind stress and wave action on suspended sediment
transport in Bach Dang estuary. The tidal oscillations during the flood tide make increasing penetrate of
seawater into the rivers from 1-2.5km. It also makes increasing the suspended sediments to the sea from 4-8.0
km during the ebb tide. Under the influences of wind and wave action, the suspended sediments are diffused
strongly from bottom to surface layers, the turbidity significantly increases in the area far from the estuary
about 10-20km. The wind and wave are main factors creating the turbidity water zone outside of Nam Trieu
mouth, northeast area of estuary and Do Son beach, especially during the wind and wave in SE direction.
11 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 550 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn đến đặc điểm vận chuyển trầm tích lơ lửng vùng cửa sông Bạch Đằng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
216
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 3; 2013: 216-226
ISSN: 1859-3097
ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ KHÍ TƯỢNG HẢI VĂN
ĐẾN ĐẶC ĐIỂM VẬN CHUYỂN TRẦM TÍCH LƠ LỬNG
VÙNG CỬA SÔNG BẠCH ĐẰNG
Vũ Duy Vĩnh1, Đinh Văn Ưu2
1Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
246 Đà Nẵng, Ngô Quyền, Hải Phòng, Việt Nam
E-mail: vinhvd@imer.ac.vn
2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên-Đại học Quốc gia Hà Nội
334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Ngày nhận bài: 31-12-2012
TÓM TẮT: Bài viết này trình bày các kết quả áp dụng mô hình toán học 3 chiều (3D) để nghiên cứu
đánh giá ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng, hải văn đến đặc điểm vận chuyển trầm tích lơ lửrng (TTLL)
vùng cửa sông Bạch Đằng. Để thiết lập mô hình tính, các chuỗi số liệu quan trắc đã được thu thập xử lý khá hệ
thống và đồng bộ để tạo ra các điều kiện biên sông của mô hình dạng chuỗi số liệu (time serial). Các biên mở
biển của mô hình được tạo ra bằng phương pháp lưới lồng từ một mô hình tính rộng hơn ở phía ngoài. Mô
hình thủy động lực 3 chiều được thiết lập với 7 lớp độ sâu theo hệ tọa độ và được hiệu chỉnh kiểm chứng với
số liệu đo mực nước tại Hòn Dáu và dòng chảy, hàm lượng TTLL tại một số điểm trong khu vực nghiên cứu.
Các kết quả tính toán với một số kịch bản khác nhau đã cho thấy vai trò của điều kiện gió, tải lượng nước
sông, dao động mực nước(DĐMN) và sóng đến đặc điểm vận chuyển TLLL ở vùng cửa sông Bạch Đằng. Theo
đó, DĐMN triều khi triều lên làm tăng cường sự xâm nhập của nước biển vào sâu các cửa sông khoảng 1-
2.5km, đồng thời làm tăng cường sự phát tán của TTLL ra phía ngoài khoảng 4-8km trong pha triều xuống;
Dưới ảnh hưởng của sóng và gió, TTLL trong pha triều lên được tăng cường khuyếch tán từ các tầng phía dưới
lên các tầng trên mặt, tăng đáng kể độ đục ở phía ngoài (khoảng 10-20km), tạo thành các vùng đục nước ở
phía ngoài cửa Nam Triệu, khu vực phía đông bắc và bãi biển Đồ Sơn, trong đó hướng gió tác động mạnh nhất
là SE.
Từ khóa: trầm tích, trầm tích lơ lửng, cửa sông Bạch Đằng, mô hình
MỞ ĐẦU
Vùng cửa sông Bạch Đằng là nơi có điều kiện
động lực phức tạp với sự tác động tổng hợp của các
yếu tố khí tượng, hải văn như: tải lượng nước ngọt
từ các sông đưa ra khá lớn và biến động mạnh theo
mùa; dao động mực nước (DĐMN) mang tính chất
nhật triều điển hình với độ cao thủy triều cực đại có
thể lên tới 4,0m [9], trường gió và sóng luôn biến
đổi theo thời gian. Trong đó ngoài tính chất tuần
hoàn của dao động mực nước, các yếu tố như tải
lượng nước sông, sóng gió biến đổi mạnh theo mùa.
Đây cũng là nơi tiếp nhận một lượng rất lớn trầm
tích từ lục địa đưa ra qua các cửa sông như Bạch
Đằng, Cấm, Lạch Tray. Dòng trầm tích này có vai
trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp dinh
dưỡng, bồi tích cho vùng ven bờ châu thổ nhưng nó
cũng gây ra các vấn đề tiêu cực khác như sa bồi
cảng Hải Phòng, đục nước ở một số khu vực ven bờ
Đồ Sơn. Chính vì vậy đặc điểm vận chuyển trầm
Ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn
217
tích lơ lửng (TTLL) ở khu vực này đã được quan
tâm ở nhiều khía cạnh khác nhau như phân tích từ
số liệu đo đạc khảo sát, mô hình toán [6, 11, 15, 19,
21]. Nghiên cứu này dựa trên phương pháp phân
tích thống kê để tạo các chuỗi số liệu theo thời gian
(time-serial) làm đầu vào cho các biên sông của mô
hình thủy động lực 3 chiều (7 lớp độ sâu theo tọa độ
) kết hợp với mô hình sóng và vận chuyển TTLL
với chế độ chạy đồng thời (coupling online), qua đó
mô phỏng điều kiện thủy động lực - vận chuyển
TTLL và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố khí
tượng hải văn đến đặc điểm vận chuyển TTLL ở
vùng cửa sông Bạch Đằng.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Khu vực nghiên cứu nằm trong khoảng tọa độ
20,5 - 20,90 vĩ Bắc và 106,5 - 107,10 kinh Đông,
vùng biển ven bờ tây vịnh Bắc Bộ, thuộc thành phố
Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh. Đây là khu vực có
đặc điểm thủy triều mang tính chất nhật triều đều
với biên độ khá lớn [9]. Độ dốc đáy biển nhỏ và độ
sâu lớn nhất chỉ khoảng 20m. Khu vực chịu ảnh
hưởng mạnh của các khối nước từ hệ thống sông
Hồng - Thái Bình đưa ra nhưng tải lượng nước phân
phối không đều trong năm mà chủ yếu tập trung vào
các tháng mùa mưa [20]. Khu vực này cũng chịu sự
chi phối của hệ thống gió mùa Đông Bắc trong mùa
khô và gió mùa Đông Nam trong mùa mưa.
Tài liệu.
Số liệu độ sâu và đường bờ của khu vực cửa
sông ven biển Hải Phòng được số hóa từ các bản đồ
địa hình UTM hệ tọa độ địa lý VN 2000 tỷ lệ
1:50.000 và 1:25.000. Độ sâu của khu vực phía
ngoài sử dụng cơ sở dữ liệu GEBCO -1/8 có độ
phân dải 0,5 phút được xử lý từ ảnh vệ tinh kết hợp
với các số liệu đo sâu [4, 13].
Các số liệu gió, sóng quan trắc trong nhiều năm
ở trạm hải văn Hòn Dáu và Bạch Long Vỹ đã được
thu thập và xử lý làm đầu vào chô mô hình tính.
Đây là số liệu đo đạc với tần suất 6 h/lần trong thời
gian tháng 2 - 3 và tháng 7 - 8 năm 2009.
Số liệu mực nước để hiệu chỉnh mô hình là các
kết quả đo đạc mực nước (1 h/lần) tại Hòn Dáu
trong năm 2009. Ngoài ra, các số liệu DĐMN được
thu thập và xử lý để làm đầu vào cho các điều kiện
biên mở phía biển của mô hình của 4 sóng triều
chính là O1, K1, M2, S2. Các hằng số điều hòa thủy
triều ở phía ngoài xa bờ được thu thập từ cơ sở dữ
liệu FES2004 của LEGOS và CLS [10, 12].
Ngoài các số liệu thu thập được từ các đề tài
liên quan ở khu vực này trong tháng 3 và 8 năm
2009 [5, 7], các số liệu quan trắc định kỳ trên sông
Cấm và Văn Úc của Trung tâm Khí tượng thủy văn
Quốc gia (TTKTTVQG) cũng đã được thu thập xử
lý. Cơ sở dữ liệu WOA09 [22] cho khu vực Biển
Đông cũng được khai thác để sử dụng cho mô hình
tính ở phía ngoài.
Phương pháp
Phương pháp GIS để số hóa và xử lý số liệu địa
hình từ các bản đồ địa hình.
-5000
-4000
-3000
-2000
-1000
0
1000
2000
3000
4000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31
thời gian (ngày)
lư
u
lư
ợn
g
(m
3 /
s)
S. Bạch Đằng S. Cấm
-4000
-3000
-2000
-1000
0
1000
2000
3000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31
thời gian (ngày)
lư
u
lư
ợ
ng
(m
3 /
s)
S. Bạch Đằng S. Cấm
Hình 1. Lưu lượng nước trung bình giờ tại các sông chính khu vực Hải Phòng
(a- Tháng 3 năm 2009, b- và tháng 8 năm 2009)
a
b
Vũ Duy Vĩnh, Đinh Văn Ưu
218
Phương pháp tính toán thống kê để tạo các file
số liệu dạng time serial lưu lượng nước cho các biên
sông của 5 sông chính trong khu vực nghiên cứu là
Bạch Đằng, Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và Thái Bình
(hình 1).
Phương pháp khai thác số liệu từ Cơ sở dữ liệu
nhiệt muối WOA09 và cơ sở dữ liệu thủy triều
FES2004. Các cở sở dữ liệu này cùng cấp số liệu
cần thiết để xác định các điều kiện biên mở cho mô
hình tính toán thủy động lực vùng ngoài khơi (với
lưới tính thô).
Phương pháp lưới lồng (phương pháp
NESTING trong Delf3d) được sử dụng trong nghiên
cứu này để tạo ra các điều kiện biên mở phía biển
của mô hình.
Thiết lập mô hình.
Trong nghiên cứu này, các điều kiện thủy động
lực được mô hình hóa bằng module thủy động lực
(Delft3d-Flow) trong hệ thống mô hình Delft3d của
Hà Lan. Đây là hệ thống mô hình này có thể mô
phỏng tốt điều kiện thủy động lực - sóng, vận
chuyển bùn cát, chất lượng nước ở vùng cửa sông
ven bờ [8].
Mô hình thuỷ động lực sử dụng hệ lưới cong
trực giao. Miền tính có kích thước khoảng 50km
theo chiều Đông Bắc - Tây Nam và 51km theo chiều
Tây Bắc - Đông Nam, với diện tích mặt nước
khoảng 1.500km2 được chia thành 293 × 455 điểm
tính, kích thước các ô lưới biến đổi từ 21,9 đến
320,9m. Theo chiều thằng đứng, toàn bộ cột nước
được chia làm 7 lớp độ sâu theo hệ tọa độ .
Mô hình tổng hợp được thiết lập và chạy với thời
gian là các mùa đặc trưng trong năm (mùa mưa và
mùa khô) của các kịch bản khác nhau. Trong đó hai
kịch bản hiện trạng được thiết lập để hiệu chỉnh và
kiểm chứng mô hình gồm: mùa mưa (tháng 7, 8, 9
năm 2009); mùa khô (tháng 2, 3 năm 2009). Bước
thời gian chạy của mô hình thủy động lực là 0,5 phút.
Mô hình tính được lựa chọn kiểu liên kết đồng
thời của các quá trình cơ bản thủy động lực - sóng.
Trong đó các yếu tố chính được tính đến bao gồm:
độ muối, nhiệt độ; ảnh hưởng của gió bề mặt; tương
tác với sóng (tính đồng thời kết hợp với mô hình
sóng-online coupling).
Điều kiện ban đầu của mô hình có thể sử dụng
từ kết quả tính toán của các lần chạy trước đó thông
qua các restart file [8]. Đối với trường hợp áp dụng
cho vùng cửa sông ven biển Hải Phòng, điều kiện
ban đầu của các kịch bản hiện trạng là các kết quả
tính toán sau ngày cuối trong các file restart của
tháng 2 (mùa khô) và tháng 7 (mùa mưa).
Mô hình có các biên mở biển và biên sông: Với
các điều kiên biên biển, số liệu để cung cấp cho các
biên mở này là kết quả tính toán toán từ mô hình
phía ngoài sau đó sử dụng phương pháp NESTHD
để tạo các file số liệu nhiệt độ, độ muối, mực nước
tại các điểm biên. Đây là các số liệu dạng time serial
với tần suất 1 h/lần. Đối với các biên sông, số liệu
độ muối, nhiệt độ cho điều kiện biên là các đặc
trưng trung bình tháng. Lưu lượng nước sử dụng
cho các điều kiện biên sông ở nghiên cứu là các
chuỗi số liệu được tính toán từ số liệu đo với tần
suất 1 h/lần (hình 1).
Số liệu gió đưa vào mô hình tính cho kịch bản
hiện trạng là các số liệu quan trắc tại Hòn Dáu trong
tháng 2, 3 và tháng 7, 8, 9 năm 2009 với tần suất
6h/lần. Đối với các kịch bản khác, sử dụng các đặc
trưng gió trung bình.
Các tham số tính toán khác của mô hình
Tham số nhám đáy (bottom roughness) trong
nghiên cứu này lựa chọn sử dụng các hệ số Manning
(n) biến đổi theo không gian với giá trị 0,018 -
0,023m-1/3s [2, 14].
Các giá trị liên quan đến điều kiện rối có thể
được xác định do người dùng như là một hằng số,
hoặc tham số biến đổi theo không gian hoặc tính
toán với cách tiếp cận HLES (Horizontal Large
Eddy Simulation) đã được tích hợp trong hệ thống
mô hình Delft3d theo lý thuyết của Uittenbogaard
[16] và Van Vossen [17].
Tham số tính toán của mô hình trầm tích lơ
lửng
Vận tốc lắng đọng của TTLL được chọn là
0,1mm/s. Tiêu chuẩn ứng suất cho quá trình xói của
trầm tích được lựa chọn là 0,25N/m2 [18]. Tiêu
chuẩn ứng suất cho quá trình bồi lắng của trầm tích
được lựa chọn là 0,1N/m2 [18]. Tốc độ xói trong tự
nhiên ban đầu được giả thiết là 10-3kg/m2.s.
Hiệu chỉnh mô hình, kiểm chứng và các kịch bản
kết quả của mô hình
Kiểm chứng các kết quả tính
Các kết quả tính toán của mô hình như mực
nước và dòng chảy và hàm lượng TTTL đã được so
Ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn
219
sánh với số liệu quan trắc của các đề tài liên quan
trong thời gian tháng 2 - 3 và tháng 7 - 9 năm 2009
[5, 7]. Đối với kết quả tính toán DĐMN của mô
hình, sau lần hiệu chỉnh cuối kết quả so sánh cho
thấy đã có sự phù hợp cả về pha và biên độ giữa số
liệu quan trắc và tính toán (hình 2). Tính toán hệ số
tương quan giữa mực nước quan trắc và tính toán
trong mùa khô và mùa mưa lần lượt là 0,96 và 0,98.
Sai số bình phương trung bình tương ứng lần lượt là
0,22m và 0,20m.
Các giá trị quan trắc dòng chảy được phân tích
thành các thành phần kinh hướng (u) và vĩ hướng
(v) trước khi so sánh với các kết quả tính toán từ mô
hình. Sau lần hiệu chỉnh cuối cùng, các kết quả so
sánh cho thấy giữa quan trắc và tính toán dòng chảy
ở khu vực này có sự phù hợp. Kết quả so sánh tính
toán hàm lượng TTLL từ mô hình với số liệu quan
trắc cho thấy mặc dù còn chưa thực sự trùng khít
giữa hai chuỗi số liệu trên nhưng ở đây cũng có sự
phù hợp nhất định giữa hàm lượng TTLL tính toán
và quan trắc cũng như sự phù hợp của các chuỗi số
liệu này với biến đổi của mực nước trong thời gian
phân tích.
Các nhóm kịch bản tính toán sau đã được thiết
lập: Các kịch bản hiện trạng; các kịch bản đánh giá
ảnh hưởng của gió; các kịch bản đánh giá ảnh
hưởng của gió kết hợp với sóng hướng khác nhau
(NE, E, SE).
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0
4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
thời gian (ngày)
m
ự
c
n
ư
ớ
c
(m
)
quan trắc mô hình
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0
4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
thời gian (ngày)
m
ự
c
n
ư
ớ
c
(m
)
quan trắc mô hình
Hình 2. So sánh số liệu đo đạc mực nước và tính toán từ mô hình tại trạm Hòn Dáu
(a-mùa khô, 04/3-23/3/2009; b- mùa mưa, 04/8-23/8/2009)
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Đặc điểm vận chuyển TLLL hiện tại
Biến động theo không gian
Vào mùa khô hàm lượng TTLL của các sông
Hải Phòng thường có giá trị không lớn hơn
0,12kg/m3. Tuy nhiên giữa các sông khác nhau cũng
có sự phân tán lớn, một số sông có hàm lượng trầm
tích cao hơn các sông còn lại như sông Cấm và Văn
Úc. Cũng trong mùa khô, do tải lượng nước từ sông
đưa ra khá nhỏ nên phạm vi phát tán của TTLL ra
vùng biển phía ngoài cũng rất hạn chế.
Trong pha triều lên trường dòng chảy có hướng
từ phía biển vào các cửa sông vì vậy vùng có hàm
lượng TTLL cao bị đẩy dần về phía lục địa. Ảnh
hưởng của vùng nước có hàm lượng TTLL cao
(khoảng 0,07kg/m3) chỉ ở sát phía ngoài cửa Lạch
Tray và phía trong cửa Nam Triệu. Các khu vực
khác hàm lượng TSS có giá trị khá nhỏ. Vào pha
triều xuống, các khối nước từ sông hướng ra biển có
(b)
(a)
Vũ Duy Vĩnh, Đinh Văn Ưu
220
điều kiện phát triển mạnh hơn nên dòng TTLL phát
triển ra phía biển nhiều hơn. Tuy nhiên, do lưu lưu
lượng nước trong mùa khô khá nhỏ nên sự chênh
lệch phạm vi của vùng nước có hàm lượng TTLL
cao trong pha triều lên và triều xuống vào mùa khô
là không lớn. Đáng chú ý là hàm lượng TTLL trong
pha triều xuống có giá trị khá nhỏ so với pha triều
lên, có thể do TTLL trong pha triều lên chủ yếu là
do xói đáy dưới tác dụng của dòng triều chứ không
phải do từ sông đưa ra. Sự xâm nhập của các khối
nước biển mạnh nhất vào thời điểm nước lớn. Trong
pha triều này, diễn biến lan truyền của TTLL tiếp
tục xu hướng của pha triều lên, đẩy các khối nước
sông vào sát phía lục địa. Sự phát tán tán TTLL từ
các sông ra vùng ven biển bị hạn chế nhất và chỉ còn
thấy xuất hiện ở sâu phía trong các sông. Vào thời
gian nước ròng, các khối nước sông cũng như dòng
TTLL từ lục địa có điều kiện phát triển mạnh nhất
ra phía ngoài, đặc biệt là phía cửa Nam Triệu, cửa
Lạch Tray và ven bờ phía tây nam đảo Cát Hải. Tuy
nhiên, lưu lượng nước sông trong mùa khô? hạn chế
nên phạm vi phát tán của TTLL cũng chỉ dừng lại ở
khu vực phía Tây Cát Hải. Hàm lượng TTLL ở khu
vực phía ngoài cửa Lạch Huyện trong pha triều này
vào mùa khô cũng có giá trị khá nhỏ (dưới
0,01kg/m3)
Hình 3. Ảnh hưởng của dao động mực nước đến phân bố TTLL (tầng mặt) trong mùa mưa (mùa mưa: a-
hiện tại khi triều lên); b- nếu không có DĐMN; c- hiện tại khi triều xuống); d- nếu không có DĐMN)
(a)
(d) (c)
(b)
Ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn
221
Trong mùa mưa, tải lượng nước từ các sông đưa
ra lớn hơn nên sự phát tán của TTLL từ lục địa ra
phía ngoài cũng mạnh mẽ hơn. Trong pha triều lên,
khối nước với hàm lượng TTLL (lớn hơn 0,1kg/m3)
bị dồn lại ở khu vực phía Tây Nam đảo Cát Hải -
ven bờ Lạch Tray và một phần khu vực cửa Lạch
Huyện. Ở ngoài xa hơn, hàm lượng TTLL giảm dần
(hình 4a). Ở pha triều xuống của mùa mưa, dòng
bùn cát lơ lửng từ sông có điều kiện phát triển ra
phía ngoài, ảnh hưởng đến một phần khu vực ven bờ
đảo Cát Bà và bãi biển Đồ Sơn với giá trị hàm
lượng TTLL khoảng dưới 0,03kg/m3 (hình 4c). Vào
thời điểm nước lớn của mùa mưa, sự xâm nhập của
các khối nước biển đã đẩy vùng nước có hàm lượng
TTLL cao vào sát phía trong cửa Nam Triệu và
Lạch Tray. Ở khu vực phía ngoài hàm lượng TSS
chỉ có giá trị khoảng 0,01 - 0,03kg/m3. Trong thời
gian nước ròng của mùa mưa, các khối nước sông
với hàm lượng TTLL cao có điều kiện phát triển
mạnh ra phía ngoài làm cho vùng nước phía Nam và
Tây Nam Cát Hải và phía Bắc Đồ Sơn có đục khá
cao với hàm lượng TTLL có thể lên tới trên
0,1kg/m3. Tuy nhiên vùng nước ven bờ phía Tây
Nam Cát Bà và khu vực phía ngoài cửa Lạch Huyện
hàm lượng TTLL vẫn có giá trị không vượt quá
0,04kg/m3.
Biến động theo thời gian
Các kết quả phân tích cho thấy biến động của
hàm lượng TTLL ở các khu khác nhau trong khu
vực nghiên cứu đều phụ thuộc chặt chẽ vào dao
động mực nước triều. Trong một chu kỳ triều
thường xuất hiện hai lần cực trị hàm lượng TTLL:
một cực đại và một cực tiểu. Cực đại hàm lượng
TTLL thường xuất hiện vào thời gian nước ròng do
dòng TTLL từ sông đưa ra và cực tiểu thường xuất
hiện vào thời gian nước lớn khi nước biển xâm nhập
trở lại. Hàm lượng TTLL và chênh lệch của giá trị
này giữa các tầng cũng thường có giá trị lớn hơn ở
những ngày triều cường và nhỏ hơn vào những ngày
triều kém. Tuy nhiên sự biến động theo thời gian
của hàm lượng TTLL có những đặc trưng riêng ở
mỗi khu. Cả trong mùa mưa và mùa khô, biến động
theo thời gian của hàm lượng TTLL đều thể hiện xu
hướng có giá trị cao hơn, dao động với khoảng giá
trị lớn hơn vào những ngày triều cường và ngược lại
trong những ngày triều kém. Hàm lượng TTLL cực
tiểu thường xuất hiện vào thời gian nước lớn nhưng
giá trị cực đại xuất hiện trong khoảng từ sau thời
điểm nước ròng đến nửa đầu của pha triều lên.
Ảnh hưởng của các yếu tố khí tượng hải văn
Ảnh hưởng của dao động mực nước
Với biên độ DĐMN triều khá lớn, thủy triều có
thể làm tăng cường hoặc hạn chế sự phát tán TTTL
từ vùng cửa sông ra phía ngoài, đồng thời tạo thành
giới hạn di chuyển (ra - vào) của TTLL ở khu vực
này (khoảng 2 - 12km trong mùa khô và 4 - 20km
trong mùa mưa). Vào mùa khô do dòng TTLL và
lưu lượng nước đưa ra đều nhỏ nên những ảnh
hưởng của DĐMN đến đặc điểm lan truyền TTLL
không thể hiện rõ rệt như vào mùa mưa. Trong pha
triều lên mùa mưa, DĐMN triều làm tăng cường sự
xâm nhập của nước biển vào sâu các cửa sông đồng
thời hạn chế sự phát triển của TTLL từ các sông ra
phía ngoài (hình 4a, b). Vào pha triều xuống,
DĐMN triều làm tăng cường xáo trộn, khuyếch tán
TTLL từ các tầng dưới lên các tầng trên mặt, tăng
sự phát tán của TTLL ra phía ngoài thêm khoảng 4 -
8km so với trường hợp không có DĐMN (hình 4c,
d). Với cùng các điều kiện khác thì sự dâng mực
nước ở thời gian nước lớn không làm cho khối nước
sông bị đẩy lại sâu vào trong sông nhiều mà phân bố
TTLL theo chiều thẳng đứng trở lên đồng nhất hơn
so với trường hợp không có DĐMN vào thời điểm
đó. Thời gian nước ròng có thể tăng cường sự phát
tán của TTLL từ lục địa ra phía ngoài khoảng 5 -
10km so với trường hợp không có DĐMN.
Ảnh hưởng của gió
Phân bố không gian của TTLL cũng thể hiện sự
tác động của trường gió với ảnh hưởng khác nhau
theo mùa và dao động mực nước triều. Vào mùa
khô, gió làm tăng cường độ đục ở phía ngoài vùng
ảnh hưởng của TTLL từ sông đưa ra nhưng với vai
trò khá nhỏ. Vào mùa mưa những ảnh hưởng của
gió đến vận chuyển TTLL ở khoảng 8 - 18km từ cửa
sông ra đã trở lên rõ rệt hơn, trong đó có ảnh hưởng
làm tăng độ đục cửa nước ven bờ Đồ Sơn, đặc biệt
là trong pha triều xuống khi xuất hiện gió hướng E
và SE. Những tác động của trường gió đến vận
chuyển TTLL cũng được thể hiện khác nhau qua các
pha triều.
Tác động của gió trong pha triều lên làm cho sự
xâm nhập của nước biển ở tầng trên vào sâu phía
trong cửa sông khoảng 0,5 - 1,2km (hướng NE), 0,5
- 1,0km (hướng E), 0,5 - 1,5km (hướng SE), nó
cũng làm tăng cường sự khuyếch tán TTLL từ tầng
gần đáy lên tầng mặt ở vùng biển phía ngoài
(hình 4b). Trong pha triều xuống, ảnh hưởng của gió
làm tăng cường xáo trộn và phát tán TTLL ở lớp
Vũ Duy Vĩnh, Đinh Văn Ưu
222
nước phía trên ở phía ngoài vùng ảnh hưởng của
nước sông (khoảng 10 - 18km từ cửa sông) và làm
cho vùng nước sông trên mặt mở rộng ra phía ngoài
hơn nhưng lại hạn chế sự mở rộng của nước sông ở
tầng gần đáy (hình 4c). Ở thời kỳ nước lớn, gió làm
tăng nhẹ sự xâm nhập của nước biển trên tầng mặt
về phía cửa sông, giảm hàm lượng TTLL ở tầng
mặt, đặc biệt là gió hướng SE. Hướng gió tác động
rõ nhất đến đặc điểm vận chuyển TTLL ở khu vực
này là SE, sau đó đến E và NE.
Hình 4. Ảnh hưởng của gió đến phân bố TTLL (tầng mặt) trong mùa mưa
(triều lên: a- không có gió; b- gió NE; triều xuống: c- không có gió; d- gió NE)
Ảnh hưởng của sóng và gió kết hợp
Sóng và gió có ảnh hưởng quan trọng đến đặc
điểm vận chuyển TTLL cũng như phân bố của
TTLL ở khu vực nghiên cứu. Tuy nhiên, vai trò
của sóng - gió cũng được thể hiện với múc độ khác
nhau theo mùa và các pha dao động của mực nước
triều. Vào mùa khô, các hướng gió NE, E và SE
đều làm tăng độ đục ở phía ngoài nhưng ảnh
hưởng lớn nhất là hướng gió SE. Trong mùa mưa,
những ảnh hưởng của gió - sóng đến phân bố của
TTLL rất rõ rệt, đặc biệt là làm tăng cường sự
khuếch tán TTLL từ đáy lên các tầng nước phía
trên tạo thành các vùng nước khá đục ở khoảng 7 -
20km từ bờ ra, khu vực Tây Nam Cát Bà, phía
Nam Cát Hải và ven biển Đồ Sơn.
(a)
(d) (c)
(b)
Ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn
223
Ảnh hưởng của song - gió cũng thể hiện ở các
mức độ khác nhau theo pha dao động của mực nước
triều. Sóng và gió trong pha triều lên làm tăng
cường sự khuyếch tán TTLL ở các tầng nước phía
dưới lên các tầng trên mặt với cả ba hướng tác động
NE, E và SE gây ra đục nước ở vùng biển Tây Nam
Cát Bà, phía ngoài cửa Nam Triệu và ven bờ Đồ
Sơn (hình 5b). Vào pha triều xuống, ảnh hưởng của
sóng - gió cũng làm độ đục ở phía ngoài (khoảng 10
- 20km) tăng lên đáng kể so với trường hợp không
có sóng gió, trong đó mạnh nhất là tác động của
sóng gió hướng SE (hình 5d). Ở thời điểm nước lớn,
song - gió cũng làm khuấy đục vùng vùng nước phía
ngoài ra thêm khoảng 1 - 4km so với trường hợp
không có ảnh hưởng của sóng - gió, đồng thời đưa
TTLL lên mặt làm cho các lớp nước tầng mặt trở lên
khá đục. Vào thời gian nước ròng, ảnh hưởng của
sóng gió làm cho vùng nước ở khoảng cách 16 -
20km tăng mạnh độ đục so với trường hợp không có
tác động của song - gió.
Hình 5. Ảnh hưởng của gió- sóng đến phân bố TTLL (tầng mặt) trong mùa mưa
(triều lên: 12h, 19/8/2009; a- không có gió+sóng; b- gió + sóng hướng SE triều xuống: 23h, 19/8/2009;
c- không có gió+ sóng; d- gió + sóng hướng SE)
KẾT LUẬN
Đặc điểm vận chuyển TTLL ở vùng cửa sông
Bạch Đằng biến đổi mạnh theo mùa. Vào mùa khô
do sự suy giảm của lưu lượng nước và lượng TTLL
nên sự phát tán của TTLL từ các sông ra phía ngoài
rất hạn chế quanh các cửa sông và vùng nước phía
(a)
(d) (c)
(b)
Vũ Duy Vĩnh, Đinh Văn Ưu
224
trong cửa Nam Triệu với hàm lượng TTLL nhỏ hơn
0,07kg/m3. Các khu vực khác chỉ chịu ảnh hưởng
của TTLL từ sông đưa ra trong một số ngày triều
cường. Trong khi đó vào mùa mưa, do tải lượng
nước và TTLL từ các sông đưa ra lớn nên TTLL có
điều kiện phát tán mạnh tới vùng nước khu vực giữa
đảo Cát Hải - Đồ Sơn - Cát Bà với một số thời điểm
hàm lượng TTLL có thể trên 0,1kg/m3.
DĐMN triều ở vùng cửa sông Bạch Đằng có thể
làm tăng cường hoặc hạn chế sự phát tán của TTTL
từ vùng cửa sông ra phía ngoài, đồng thời tạo thành
giới hạn di chuyển (ra - vào) của TTLL ở khu vực
này: khoảng 2 - 12km trong mùa khô và 4 - 20km
trong mùa mưa. Trong pha triều lên của mùa mưa,
DĐMN triều làm tăng cường sự xâm nhập của nước
biển vào sâu các cửa sông thêm khoảng 1 - 2,5km.
Vào pha triều xuống, DĐMN triều làm tăng cường
xáo trộn, khuyếch tán TTLL từ các tầng dưới lên
các tầng trên mặt, tăng sự phát tán của TTLL ra phía
ngoài thêm khoảng 4 - 8km. Thời điểm nước ròng
có thể tăng cường sự phát tán của TTLL từ lục địa
ra phía ngoài thêm khoảng 5 - 10km.
Phân bố không gian của TTLL cũng thể hiện sự
tác động của trường gió với ảnh hưởng khác nhau
theo mùa và dao động mực nước triều. Vào mùa
mưa, những ảnh hưởng của gió đến vận chuyển
TTLL ở khoảng 8 - 18km từ cửa sông ra đã trở lên
rõ rệt hơn, trong đó có ảnh hưởng làm tăng độ đục
cửa nước ven bờ Đồ Sơn, đặc biệt là trong pha triều
xuống khi xuất hiện gió hướng E và SE. Những tác
động của trường gió đến vận chuyển TTLL cũng
được thể hiện khác nhau qua các pha triều.
Sóng và gió có ảnh hưởng quan trọng đến đặc
điểm vận chuyển TTLL cũng như phân bố của
TTLL ở khu vực nghiên cứu. Vào mùa khô, các
hướng gió NE, E và SE đều làm tăng độ đục ở phía
ngoài nhưng ảnh hưởng lớn nhất là hướng gió SE.
Trong mùa mưa, những ảnh hưởng của gió - sóng
đến phân bố của TTLL rất rõ rệt, đặc biệt là làm
tăng cường sự khuếch tán TTLL từ đáy lên các tầng
nước phía trên tạo thành các vùng nước khá đục ở
khoảng 7 - 20km từ bờ ra, khu vực Tây Nam Cát
Bà, phía Nam Cát Hải và ven biển Đồ Sơn.
Lời cảm ơn: Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.
TS. Trần Đức Thạnh đã có những góp ý quý báu
cho các tác giả trong quá trình viết và hoàn thiện bài
báo này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amoudry, Laurent., 2008. A review on coastal
sediment transport modelling. Liverpool,
Proudman Oceanographic Laboratory. (POL
Internal Document, No. 189).
2. Arcement, G. J., Jr. and V. R. Schneider, 1989.
Guide for Selecting Manning’s Roughness
Coefficients for Natural Channels and Flood
Plains.U.S. Geological Survey Water Supply
Paper 2339, 38 p.
3. Battjes, J. and J. Janssen, 1978. Energy loss
and set-up due to breaking of random waves,."
In Proceedings 16th International Conference
Coastal Engineering, ASCE, pages 569-587. 47,
133, 134, 138, 139, 188.
4. Becker, J. J., Sandwell, D. T., Smith, W. H. F.,
Braud, J., Binder, B., Depner, J., Fabre, D.,
Factor, J., Ingalls, S., Kim, S. H., Ladner, R.,
Marks, K., Nelson, S., Pharaoh, A., Trimmer,
R., Von Rosenberg, J., Wallace, G., Weatherall,
P., 2009. Global bathymetry and elevation data
at 30 arcsec resolution: SRTM30_PLUS. Mar.
Geodesy 32, 355-371. doi:
10.1080/01490410903297766.
5. Đỗ Trọng Bình, Trần Anh Tú, Vũ Duy Vĩnh,
2010. Nghiên cứu đánh giá lan truyền các chất
gây ô nhiễm khu vực cửa sông ven biển Hải
Phòng bằng mô hình toán học. Báo cáo tổng
hợp Đề tài cấp Thành phố Hải Phòng. Mã số:
ĐT.MT.2008.500.
6. Nguyễn Văn Cư và nnk, 2010. Nghiên cứu quá
trình động lực, dự báo vận chuyển, bồi lắng bùn
cát tại Lạch Huyện, Nam Đồ Sơn trước và sau
khi xây dựng cảng nước sâu và giải pháp khắc
phục. Báo cáo tổng kết đề tài KC.08.10/06-10.
7. Nguyễn Đức Cự và nnk, 2011. Nghiên cứu,
đánh giá tác động của các công trình hồ chứa
thượng nguồn đến diễn biến hình thái và tài
nguyên - môi trường vùng cửa sông ven biển
đồng bằng Bắc Bộ. Báo cáo tổng hợp Đề tài độc
lập cấp Nhà nước (Mã số: ĐTĐL. 2009T/05).
8. Delft Hydraulics, 2003. Delft3D-FLOW User
Manual; Delft3D-WAVE User Manual
9. Phạm Văn Huấn, Nguyễn Tài Hợi, 2007. Dao
động mực nước biển ven bờ Việt Nam. Tạp chí
Khí tượng thủy văn, số 556, tháng 4 – 2007. Tr.
30-37.
10. Lefevre F, Lyard F, Le Provost C, Schrama
EJO, 2002. FES99: a global tide finite element
solution assimilating tide gauge and altimetric
information. Atmos Ocean Tech 19:1,345-
1,356.
Ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn
225
11. Lefebvre J-P, Ouillon S, Vu DV, Arfi R, Panche
J-Y, Mari X, Torréton J-P, 2012. Sedimentary
aggregation cycle in the Red River Delta,
Vietnam. Geo-Marine Letters 32(2): 103-121.
12. Lyard F., F. Lefevre, T. Letellier, and O.
Francis. 2006. Modelling the global ocean
tides: modern insights from FES2004. Ocean
Dynamics, 56:394-415, 2006.
13. Merri T Jone, Pauline W., Raymond N. Cramer,
2009. User Guide to the centernary edition of
the GEBCO digital atlas and its datasets.
Natural environment research council.
14. Simons, D. B., and Senturk, F., 1992. Sediment
Transport Technology - Water and Sediment
Dynamics, Water Resources Publications.
15. Trần Anh Tú, 2012. Đánh giá đặc trưng trầm
tích lơ lửng khu vực cửa sông ven biển Hải
Phòng. Luận Văn cao học, trường ĐHKHTN.
16. Uittenbogaard, R.E., 1998. Model for eddy
diffusivity and viscosity related to sub-grid
velocity and bed topography. Note, WL | Delft
Hydraulics.
17. Van Vossen, B., 2000. Horizontal Large Eddy
Simulations; evaluation of computations with
DELFT3D-FLOW. Report MEAH-197, Delft
University of Technology.
18. Van Rijn, L., 1993. Principles of Sediment
Transport in Rivers, Estuaries and Coastal Seas,
Aqua Publications, The Netherlands
19. Vũ Duy Vĩnh, Đỗ Đình Chiến và Trần Anh Tú,
2008. Mô phỏng đặc điểm thuỷ động lực và vận
chuyển trầm tích lơ lửng khu vực cửa sông ven
biển Hải Phòng. Tài nguyên và môi trường biển,
tập XIII. Nxb. KH&KT, Hà Nội. 2008.
20. Vũ Duy Vĩnh, Nguyễn Đức Cự và Trần Đức
Thạnh, 2011. Ảnh hưởng của đập Hòa Bình đến
phân bố trầm tích lơ lửng vùng ven bờ châu thổ
sông Hồng. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học và Công
nghệ biển lần thứ V, quyển 3.
21. Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh, 2012. Áp dụng
mô hình toán nghiên cứu vùng đục nước cực đại
khu vực cửa sông Bạch Đằng. Tạp chí Khoa học
và Công nghệ biển, 3-2012. Tr. 1-12.
22. World Ocean Atlas 2009. National
Oceanographic Data Center. 30-03-2010.
a09.html. Retrieved 19-5-2010
Vũ Duy Vĩnh, Đinh Văn Ưu
226
THE INFLUENCE OF WIND AND OCEANOGRAPHIC
FACTORS ON CHARACTERISTICS OF SUSPENDED
SEDIMENT TRANSPORT IN BACH DANG ESTUARY
Vu Duy Vinh1, Dinh Van Uu2
1Institute of Marine Environment and Resources-VAST
2University of Science-VNU
ABSTRACT: This paper presents some results of applicating three dimension (3D) numerical model to
study and assessment influences of tidal oscillation, wind and wave action on characteristics of suspended
sediment transport in Bach Dang estuary. Measures data were collected and processed systematically and
synchronously in order to create water river boundary condition (time-serial) for the model. The sea boundary
conditions of model were created by NESTING method. The model was setup with 7 vertical layers in
coordinate. The results of model were validated and calibrated by measured data of water level at Hon Dau,
and current velocity and suspended sediment concentration in some points in the model frame. Results of
scenarios show the different role of tidal oscillation, wind stress and wave action on suspended sediment
transport in Bach Dang estuary. The tidal oscillations during the flood tide make increasing penetrate of
seawater into the rivers from 1-2.5km. It also makes increasing the suspended sediments to the sea from 4-8.0
km during the ebb tide. Under the influences of wind and wave action, the suspended sediments are diffused
strongly from bottom to surface layers, the turbidity significantly increases in the area far from the estuary
about 10-20km. The wind and wave are main factors creating the turbidity water zone outside of Nam Trieu
mouth, northeast area of estuary and Do Son beach, especially during the wind and wave in SE direction.
Keywords: sediment, suspended sediment, Bach Dang estuary, modelling
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3526_11921_1_pb_5379_2079588.pdf