Giá thành 1 kg cải bắp mua tại ruộng vụ Đông
năm 2018 được chia làm 3 trường hợp khác nhau là:
giá thấp, trung bình và cao lần lượt là 4.000 đồng/kg,
6.000 đồng/kg và 8.000 đồng/kg. Ở đây, chúng tôi
tính mức 200.000 đồng/công và không tính chi phí
thuê đất.
Ở mức giá thấp nhất, lợi nhuận của công thức 1
cao hơn mức đối chứng chỉ là 3.200.000 đồng/ha
và công thức 2 cao hơn đối chứng là 20.100.000
đồng/ha. Ở mức giá bán trung bình, công thức 1 và
công thức 2 lần lượt thu được 11.200.000 đồng/ha
và 40.100.000 đồng/ha. Ở mức giá bán cao nhất, lợi
nhuận tăng lên so với đối chứng của công thức 1
(GSSG x2) là 19.800.000 đồng/ha và của công thức 2
(GSSG x3) là 60.100.000 đồng/ha (Bảng 5).
Nghiên cứu sử dụng phân bón lá cho một vài
loại rau ăn lá phổ biến: Rau muống, mồng tơi, hành
Boa rô, rau khoai và rau rền đỏ của nhóm tác giả
Nguyễn Đình Thi và cộng tác viên (2013) cũng cho
thấy kết quả tương tự về tăng năng suất khi sử dụng
phân bón lá. Nhóm tác giả rút ra được kết luận từ
thí nghiệm này: Năng suất các loại rau thí nghiệm
tăng 16,5% - 27,2% khi được phun Maya&T1. Tiền
lãi khi phun Maya&T1 cho rau muống trong vụ Hè
Thu tương đương 11,6 triệu đồng/ha.
Theo Narayan và cộng tác viên (2016), tác giả của
bài báo đánh giá ảnh hưởng của phân bón lá lên quá
trình sinh trưởng, phát triển và số lượng hạt của cây
cải bắp Golden Acre đã sử dụng năm loại phân bón
lá. Chiều cao cây, số nhánh, số lá cũng như năng
suất hạt cho thấy sự tăng lên khi dùng phân bón lá ở
các mức khác nhau. Kết quả cho thấy lợi nhuận thu
được khi sử dụng phân bón lá NPK (15 - 15 - 30)
là 47 triệu đồng/ha. Về cây họ Hòa Thảo, nhóm tác
giả Lê Thị Nguyệt và Tăng Thị Hạnh (2018) có báo
cáo về ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng,
phát triển và năng suất giống lúa BC15 trên 2 mức
bón đạm khác nhau tại Ý Yên, tỉnh Nam Định. Năng
suất thực thu cao hơn đối chứng ở cả vụ Xuân và vụ
Mùa. Tất cả các nghiên cứu trên đều cho thấy kết
quả tăng năng suất phù hợp với khảo sát của tác giả
Bùi Huy Hiền và cộng tác viên (2013) về tình hình
sử dụng phân bón lá tại Việt Nam trong giai đoạn
2000 - 2013.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của phân bón hữu cơ Glutathione lên cải bắp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
35
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
The results showed that application of 500 g N + 500 g P2O5 + 500 g K2O combined with 10 - 15 kg of “Trun que”
organic fertilizer/Humic or 10 kg poultry manure/post/year increased soil nutrients in comparison with the control.
Chlorophyll content in branches of treatment application with NPK + 15 kg of “Trun que” organic fertilizer or 15 kg
Humic was higher (0.132 - 0.146 mg/l) than other treatments (0.09 - 0.112 mg/l). Application of 500 g N + 500 g P2O5
+ 500 g K2O in combination with 10 - 15 kg/tree/year organic fertilizers such as Trun que; Humic or 10 kg poultry
manure/post/year increased fruit weight and yield and color of fruit.
Keywords: Pink flesh dragon fruit variety LD5, “Trun que” organic fertilizer, color of fruit
Ngày nhận bài: 19/9/2019
Ngày phản biện: 10/11/2019
Người phản biện: TS. Nguyễn Hữu Hoàng
Ngày duyệt đăng: 10/12/2019
1 Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Tế bào thực vật, Viện Di truyền Nông nghiệp
ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN HỮU CƠ GLUTATHIONE LÊN CẢI BẮP
Nguyễn Anh Vũ1, Lê Ngọc Tuấn1, Nguyễn Hùng1, Nguyễn Văn Đồng1
TÓM TẮT
Cải bắp là một trong những loại rau phổ biến, cho năng suất cao, dễ sử dụng và thân thiện với người dùng. Trong
thí nghiệm này, chúng tôi đã đánh giá ảnh hưởng của phân bón lá GSSG chứa 5% glutathione đến sự sinh trưởng và
phát triển của cây cải bắp. GSSG được bón bổ sung qua lá 2 lần (GSSG x2) hoặc 3 lần (GSSG x3) vào các thời đểm
2; 4 và 8 tuần so với đối chứng không bổ sung GSSG với liều lượng 0,7 kg/ha/lần. Kết quả cho thấy việc bón bổ sung
GSSG ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của cải bắp. Đường kính bắp có xuất hiện sự khác biệt giữa đối chứng và
công thức sau khi trồng 7 tuần. Mức này vẫn duy trì cho đến khi thu hoạch vào tuần thứ 12, khác biệt về đường kính
giữa công thức bón GSSG x2 và GSSG x3, lần lượt là 11% và 16%. Ngoài ra, phân bón lá này còn giúp tăng năng suất
từ 37,8 tấn/ha lên 41,7 tấn/ha (tăng 10,3%) và 47,7 tấn/ha (tăng 26,2%) lần lượt ở 2 công thức GSSG x2 và GSSG x3.
Ở vụ Đông Xuân, lợi nhuận tăng thêm ở công thức bổ sung 2 lần đạt 11,2 triệu đồng/ha và ở công thức GSSG x3 là
40,1 triệu đồng/ha so với đối chứng (giá bán trung bình 6.000 đồng/kg).
Từ khóa: Cải bắp, glutathione, GSSG, năng suất, phân bón lá
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cải bắp (Brassica oleracea nhóm Capitala) thuộc
họ Cải (hay họ Thập tự - Brassicaceae/Cruciferae)
có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải, có họ gần
với súp lơ và cải thảo, là cây thân thảo hai lá mầm,
sống hai năm. Các lá cải bắp tạo thành một cụm đặc
trưng hình cầu, màu xanh, đỏ (tím) hay xanh nhạt
(trắng), tùy từng giống. Ở Việt Nam, cải bắp là một
trong những loại rau phổ biến, được trồng nhiều
ở Lâm Đồng, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương và
Hưng Yên (Lê Thị Khánh, 2009). Theo số liệu thống
kê diện tích cải bắp và các cây trồng họ cải năm 2017
đạt 37.413 ha với tổng sản lượng đạt 976.210 tấn
(FAOSTAT, 2019).
Việc bổ sung phân bón lá giúp cung cấp dinh
dưỡng cho cây trồng trực tiếp qua bề mặt lá. Các
khoáng chất trong phân bón lá được cây hấp thụ
một phần qua khí khổng và phần lớn qua lớp biểu
bì. Trong một vài trường hợp, cây có thể hấp thụ qua
lớp vỏ gỗ. Thêm vào đó, phân bón lá kích thích khả
năng hấp thụ chất dinh dưỡng của rễ từ dung dịch
đất (Kannan, 2009; Fernández and Eichert, 2009;
Kuepper, 2003; Lester et al., 2006). Trong thành
phần phân bón lá ngoài các nguyên tố đa lượng
như N, P, K còn có các nguyên tố trung lượng và
vi lượng quan trọng như Fe, Zn, Cu, Mg, Do đó,
phân bón lá có thể bổ sung trực tiếp các chất này
giúp đáp ứng đủ nhu cầu và cân đối dinh dưỡng cho
cây tùy từng giai đoạn sinh trưởng. Các nghiên cứu
trong và ngoài nước đã cho thấy hiệu quả kinh tế
của phân bón thông qua tăng năng suất trên nhiều
cây trồng khác nhau (Bùi Huy Hiền và ctv., 2013;
Vũ Thị Thanh Thủy và ctv., 2015; Lê Thị Nguyệt và
Tăng Thị Hạnh, 2018).
Glutathione là một dạng pep-tit nhỏ chứa
lưu huỳnh tự nhiên trong tế bào với công thức
γ-l-glutamyl-l-cysteinyl-glycine. Các nghiên cứu đã
cho thấy glutathione đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ tế bào khỏi các yếu tố ô-xy hóa và giúp
duy trì cân bằng ô-xy hóa khử (Forman et al., 2010;
Hasanuzzaman et al., 2017). Glutathione bảo vệ các
thành phần quan trọng của tế bào khỏi các các loại
chất oxy hoạt hóa như các gốc tự do, peroxit, peroxy
hóa lipid và kim loại nặng thông qua quá trình
36
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
khử các liên kết disulfua hình thành bên trong các
protein tế bào chất thành cystein bằng cách đóng vai
trò như một chất cho electron. Trong quá trình này,
glutathione được chuyển đổi thành dạng oxy hóa -
glutathione disulfua (GSSG).
Glutathione tham gia điều hòa nhiều quá trình
trao đổi chất (Hasanuzzaman et al., 2017) ví dụ như
bảo vệ tính toàn vẹn của tế bào bằng cách duy trì
trạng thái khử α-tocopherol và zeaxanthin (một
chất quan trọng trong chu trình xanthophyll), ngăn
chặn sự biến tính của protein trong các điều kiện
stress bằng cách bảo vệ nhóm thiol. Nó còn là chất
cấu thành nên glutathione peroxidase và glutathione
S-transferase. Ngoài ra, glutathione đóng vai trò là
tiền chất của phytochelatin, glutathione giúp loại bỏ
các kim loại nặng bằng cách vận chuyển và cô lập
trong không bào. Quá trình hình thành glyoxalase
(bao gồm các enzyme glyoxalase I và glyoxalase II)
để giải độc methylglyoxal, cũng cần glutathione
trong bước đầu tiên.
Nghiên cứu về sự kết hợp của phân bón vô cơ
Nano và phân bón giàu Glutathione trên ngô ngọt
cho thấy cây chống chịu mặn tốt hơn (Fadzillah and
Sarwar, 2019). Chiều dài rễ, hàm lượng diệp lục và
độ mở khí khổng ở cây được bón glutathione đều
cao hơn so với ở cây đối chứng. Một nghiên cứu
khác liên quan đến ảnh hưởng của Glutathione sinh
khối, năng suất và các hoạt chất lên 2 giống lúa mì
Sakha93 và Giza168 đã cho thấy cả năng suất và các
yếu tố nông học tăng có ý nghĩa so với đối chứng khi
tăng nồng độ Glutatione (Mohamed et al., 2014).
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Giống cải bắp thương mại F1 KA-Cross sử dụng
trong nghiên cứu này được sản xuất bởi công ty Việt
Á Seeds.
Phân bón lá GSSG W2 (5%) được phát triển bởi
tập đoàn Kaneka, Nhật Bản. Thành phần của GSSG
W2 gồm: 5% glutathione (C20H32N6O12S2 - khối
lượng 612,6), quartz (SiO2) dao động từ 66%, kaolin
25% (Al2O3.2SiO2.2H2O) và 4% chất khác.
2.2. Phương pháp thí nghiệm
2.2.1. Thiết kế thí nghiệm
- Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm được thực hiện
theo phương pháp Bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên
(Randomized Complete Block design - RCB) với
4 lần nhắc. Trong đó, mỗi ô thí nghiệm có diện tích
30 m2 (15 m ˟ 2 m) với mật độ 4 cây/m2 (cây cách cây
50 cm, hàng cách hàng 50 cm). 40 mẫu ở trung tâm
của mỗi ô với số thứ tự 6 - 25 của hàng 2 và hàng 3
được đo đếm trong quá trình tiến hành thí nghiệm.
- Quy trình kỹ thuật: Theo phương pháp canh tác
sản xuất rau cải bắp an toàn (Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam, 2014), cụ thể như sau:
+ Phương pháp canh tác: Đất được lên luống có
chiều cao 20 cm. Dọn sạch các tàn dư thực vật. Tưới
nước cho bề mặt đất đủ ẩm.
+ Phân bón: Trong thí nghiệm này, phân bón
NPK được bón trực tiếp cách gốc 5 - 7 cm vào các
thời điểm sau 15 ngày, 25 ngày và 35 ngày sau khi
trồng. Lượng phân bón cho mỗi ô thí nghiệm 30 m2
như sau: U-rê bón vào 3 giai đoạn 15 ngày, 25 ngày
và 35 ngày sau khi trồng với lượng phân bón cho
3 lần cho 30 m2 lần lượt là 210 g, 450 g và 240 g. Lân
được bón 1 lần duy nhất 1,2 kg là bón lót cho 30 m2.
Kali được bón 180 g, 240 g và 180 g cho 3 lần bón
thúc như trên. Tổng lượng phân u-rê, kali và lân cho
30 m2 lần lượt là 900 g, 600 g, và 1,2 kg.
+ Hạt cải bắp được ủ hạt trong 1 đêm trong theo
nguyên tắc 1 sôi: 2 lạnh (nhiệt độ dao động từ 28 đến
30oC) trong nước. Sau đó, hạt được tưới nước giữ ẩm
hàng ngày. Sau 8 - 10 ngày, hạt nảy mầm. Sau 3 tuần,
khi cây có 5 - 6 lá thì được đánh tỉa trồng ra ruộng.
+ Tưới nước: Sau khi cây được 1 tháng từ ngày
trồng, luống được tưới tràn đến khi hết sẽ được
bổ sung.
- Công thức thí nghiệm: Công thức thí nghiệm
được bố trí như tóm tắt trong bảng 1.
Bảng 1. Thời điểm và liều lượng bón bổ sung GSSG của 3 công thức thí nghiệm
Công thức
Thời điểm phun sau khi trồng
2 tuần 4 tuần 8 tuần
Đối chứng Nước Nước Nước
GSSG x2 GSSG 0,7 kg/ha GSSG 0,7 kg/ha Nước
GSSG x3 GSSG 0,7 kg/ha GSSG 0,7 kg/ha GSSG 0,7 kg/ha
37
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
- Phương pháp bón GSSG W2: Phân bón GSSG
được dùng theo quy trình khuyến cáo của công ty
Kaneka: 0,7 kg/ha pha trong 1.000 lít nước, tương
ứng 2,1 g GSSG hòa trong 3 lít nước cho mỗi ô thí
nghiệm 30 m2. Dung dịch phân bón được phun đều
trên mỗi ô thí nghiệm vào chiều muộn.
2.2.2. Thu thập và phân tích số liệu
a) Thu thập số liệu
Tổng số mẫu thu thập là 40 mẫu bao gồm chỉ
tiêu nông học cho mỗi ô thí nghiệm được đánh dấu
trên hình.
Các chỉ tiêu nông học được đo đếm cụ thể
như sau:
- Số lá (lá): Đếm toàn bộ lá thật ở các thời điểm 3,
5 và 6 tuần sau khi trồng.
- Đường kính bắp (cm): Đường kính rộng nhất
của cải bắp đo bằng thước kẹp cơ 300 mm vào các
thời điểm 7, 8, 9, 10 và 12 tuần sau khi trồng.
- Khối lượng thương phẩm (tấn/ha): Khối lượng
thương phẩm được tính dựa trên khối lượng của
từng bắp đã loại bỏ lá già và rễ tại thời điểm 12 tuần
sau khi trồng.
b) Xử lý thống kê
Mức ý nghĩa thống kê được xác định bằng cách
phân tích phương sai một biến (One-way Analysis of
Variance) bằng phép so sánh của Turkey. Mức độ ý
nghĩa được sử dụng là α < 0,05. Phần mềm phân tích
số liệu là Cropstat 7.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung
GSSG qua lá tới năng suất của cây cải bắp được thực
hiện trong vụ Đông Xuân năm 2018 - 2019 tại xã
Song Phương, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
III. Kết quả và thảo luận
3.1. Các chỉ tiêu nông học
Các chỉ tiêu về nông học như số lượng lá, đường
kính bắp và khối lượng bắp là những chỉ tiêu quan
trọng dùng để đánh giá năng suất của các cây trồng
thu sinh khối như cải bắp. Bảng 2 cho thấy số lượng
lá đo ở 3 thời điểm: sau 3, 5 và 6 tuần.
Bảng 2. Ảnh hưởng của phân bón GSSG
đến số lá cây cải bắp qua các tuần
Công thức Số lá sau 3 tuần
Số lá
sau 5 tuần
Số lá
sau 6 tuần
Đối chứng 7,7 ± 0,47 15,4 ± 0,98 19,5 ± 0,60
GSSG x2 8,0 ± 0,20 15,7 ± 0,47 20,3 ± 0,80
GSSG x3 8,1 ± 0,30 15,8 ± 0,46 21,1 ± 0,70
CV (%) 4,6 % 4,5 % 5,0 %
LSD0,05 0,07 0,15 0,15
Kết quả cho thấy ở cả 3 thời điểm 3 tuần, 5 tuần
và 6 tuần sau khi trồng, không có sự khác biệt có
ý nghĩa giữa 2 công thức thí nghiệm và đối chứng.
Đến tuần thứ 5, xu hướng vẫn duy trì như lần đo thứ
nhất. GSSG x3 và GSSG x2 với số lá trung bình là
15,8 lá và 15,7 lá. Công thức đối chứng chỉ là 15,4 lá;
không có sự khác biệt rõ rệt ở 2 mức thống kê khác
nhau. GSSG x3 có 21,1 lá cao nhất, tiếp đến GSSG x2
có 20,3 lá. Cuối cùng, đối chứng chỉ có 19,5 lá; khác
biệt không tồn tại giữa các công thức thí nghiệm.
Điều này có thể do ảnh hưởng của phân bón lá
thúc đẩy quá trình phát triển của cải bắp cần các
nguyên tố vi lượng như S, Zn, Bo và Mo (Naher et al.,
2014). Trong đó, Bo ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình sinh trưởng và dẫn đến ảnh hưởng đến năng
suất của cải bắp. S và Zn lại ảnh hưởng đến trọng
lượng khô của cây.
Bảng 3. Ảnh hưởng của phân bón GSSG đến đường kính của cải bắp
Công thức Đường kính bắp sau 7 tuần (cm)
Đường kính bắp
sau 8 tuần (cm)
Đường kính bắp
sau 9 tuần (cm)
Đường kính bắp
sau 10 tuần (cm)
Đường kính bắp
sau 12 tuần (cm)
Đối chứng 4,0 ± 0,14b 5,8 ± 0,13b 8,0 ± 0,23b 12,8 ± 0,55b 19,0 ± 0,17c
GSSG x2 5,3 ± 0,15a 6,9 ± 0,21a 10,0 ± 0,63a 12,9 ± 0,50b 21,2 ± 0,25b
GSSG x3 5,3 ± 0,14a 6,9 ± 0,21a 10,1 ± 0,47a 14,2 ± 0,55a 22,2 ± 0,40a
CV (%) 12,36% 8,54% 10,76% 6,64% 6,56%
LSD0,05 0,03 0,04 0,07 0,19 0,06
Ghi chú: a,b,c: các giá trị có cùng ký hiệu thuộc cùng một nhóm.
Bảng 3 cho thấy đường kính của cải bắp qua các
thời điểm khác nhau. Sau khi phun 2 lần, đường
kính cải bắp có sự khác biệt về thống kê, GSSG x2
và GSSG x3 khác biệt có ý nghĩa là 5,3 cm so với đối
chứng (4,0 cm). Tuy nhiên, giữa 2 công thức không
có khác biệt. Xu hướng này duy trì đến sau khi phun
38
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
lần 3 một tuần. Đến tuần thứ 10, sau khi phun lần
thứ 3 hai tuần, GSSG x3 vượt lên với mức ý nghĩa
khác biệt hẳn so với GSSG x2 và đối chứng. GSSG x3
có đường kính là 14,2 cm (12% so với công thức 1
và 13% so với đối chứng). Sau khi trồng 12 tuần, có
sự phân biệt rõ rệt về kích đường kính bắp giữa các
công thức. GSSG x3 có đường kính lớn nhất xấp xỉ
22,2 cm (hơn đối chứng 16%). Khác biệt so với
đối chứng và GSSG x3, GSSG x2 có đường kính là
21,2 cm và đối chứng chỉ có đường kính là 19,0 cm.
Điều này giống với sự ảnh hưởng đến số lá, sau
2 tuần phân bón mới ảnh hưởng đến sinh trưởng
của cây trồng.
3.2. Năng suất của cải bắp
Bảng 4 cho thấy ảnh hưởng tích cực của phân
bón GSSG đến năng suất cải bắp. Năng suất trung
bình của cải bắp tăng rõ rệt ở công thức thí nghiệm
bổ sung GSSG: GSSG x3 tăng 26,2% (1,59 kg/cây) và
GSSG x2 tăng 10,3% (1,39 kg/cây) so với đối chứng
(1,26 kg/cây). Năng suất thương phẩm thu được
từ công thức GSSG x3 (47,7 tấn/ha) và GSSG x2
(41,7 tấn/ha) khác biệt có ý nghĩa so với đối chúng
(37,8 tấn/ha).
Bảng 4. Ảnh hưởng của phân bón GSSG
đến năng suất cải bắp
Công thức
Khối lượng
bắp trung
bình (kg/cây)
Năng suất
bắp
(tấn/ha)
Tỉ lệ
tăng
năng suất
Đối chứng 1,26 ± 0,09 37,8 -
GSSG x2 1,39 ± 0,04 41,7 10,3%
GSSG x3 1,59 ± 0,20 47,7 26,2%
CV (%) 16,4% - -
LSD0,05 0,04 - -
Để đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng
phân bón GSSG, chúng tôi đã tổng hợp, so sánh
chi phí và lợi nhuận thu được từ mỗi công thức thí
nghiệm như trong bảng 5. Với mức giá bán phân
bón GSSG dự kiến ở mức 5.000.000 đồng/kg, chi
phí bổ sung cho phân bón với công thức GSSG x2
lần và x3 lần lần lượt là 7 triệu đồng (1,4 kg) và
10,5 triệu đồng (2,1 kg). Áp dụng các phương án giá
thu mua sản phẩm thấp (4.000 đồng/kg), trung bình
(6.000 đồng/kg) và cao (8.000 đồng/kg), kết quả cho
thấy công thức thí nghiệm bón bổ sung GSSG cho
hiệu quả kinh tế tăng ổn định từ 29,5% đến 38,1% ở
cả 3 mức giá thu mua sản phẩm so với đối chứng sau
khi đã trừ chi phí phát sinh ở công thức bón 3 lần.
Công thức chỉ bón GSSG 2 lần cho hiệu quả kinh
tế nhưng mức tăng thấp hơn, từ 6% đến 8,94%, tùy
thuộc vào giá thu mua sản phẩm.
Giá thành 1 kg cải bắp mua tại ruộng vụ Đông
năm 2018 được chia làm 3 trường hợp khác nhau là:
giá thấp, trung bình và cao lần lượt là 4.000 đồng/kg,
6.000 đồng/kg và 8.000 đồng/kg. Ở đây, chúng tôi
tính mức 200.000 đồng/công và không tính chi phí
thuê đất.
Ở mức giá thấp nhất, lợi nhuận của công thức 1
cao hơn mức đối chứng chỉ là 3.200.000 đồng/ha
và công thức 2 cao hơn đối chứng là 20.100.000
đồng/ha. Ở mức giá bán trung bình, công thức 1 và
công thức 2 lần lượt thu được 11.200.000 đồng/ha
và 40.100.000 đồng/ha. Ở mức giá bán cao nhất, lợi
nhuận tăng lên so với đối chứng của công thức 1
(GSSG x2) là 19.800.000 đồng/ha và của công thức 2
(GSSG x3) là 60.100.000 đồng/ha (Bảng 5).
Nghiên cứu sử dụng phân bón lá cho một vài
loại rau ăn lá phổ biến: Rau muống, mồng tơi, hành
Boa rô, rau khoai và rau rền đỏ của nhóm tác giả
Nguyễn Đình Thi và cộng tác viên (2013) cũng cho
thấy kết quả tương tự về tăng năng suất khi sử dụng
phân bón lá. Nhóm tác giả rút ra được kết luận từ
thí nghiệm này: Năng suất các loại rau thí nghiệm
tăng 16,5% - 27,2% khi được phun Maya&T1. Tiền
lãi khi phun Maya&T1 cho rau muống trong vụ Hè
Thu tương đương 11,6 triệu đồng/ha.
Theo Narayan và cộng tác viên (2016), tác giả của
bài báo đánh giá ảnh hưởng của phân bón lá lên quá
trình sinh trưởng, phát triển và số lượng hạt của cây
cải bắp Golden Acre đã sử dụng năm loại phân bón
lá. Chiều cao cây, số nhánh, số lá cũng như năng
suất hạt cho thấy sự tăng lên khi dùng phân bón lá ở
các mức khác nhau. Kết quả cho thấy lợi nhuận thu
được khi sử dụng phân bón lá NPK (15 - 15 - 30)
là 47 triệu đồng/ha. Về cây họ Hòa Thảo, nhóm tác
giả Lê Thị Nguyệt và Tăng Thị Hạnh (2018) có báo
cáo về ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng,
phát triển và năng suất giống lúa BC15 trên 2 mức
bón đạm khác nhau tại Ý Yên, tỉnh Nam Định. Năng
suất thực thu cao hơn đối chứng ở cả vụ Xuân và vụ
Mùa. Tất cả các nghiên cứu trên đều cho thấy kết
quả tăng năng suất phù hợp với khảo sát của tác giả
Bùi Huy Hiền và cộng tác viên (2013) về tình hình
sử dụng phân bón lá tại Việt Nam trong giai đoạn
2000 - 2013.
.
39
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
Bảng 5. Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón GSSG 2-3 lần một vụ so với đối chứng
ĐVT: đồng/ha
STT Nội dung Đơn vị Số lượng Đơn giá
Đối chứng Công thức GSSG x2
Công thức
GSSG x3
Thành tiền Thành tiền Thành tiền
A Chi phí cố định
1 Tiền công từ lúc gieo đến lúc thu hoạch (gieo hạt, làm đất, tưới cây, bón phân và làm cỏ)
1.1 Gieo hạt và chăm sóc cây non công 60 200.000 12.000.000
1.2 Làm đất công 30 200.000 6.000.000
1.3 Tưới công 36 200.000 7.200.000
1.4 Làm cỏ công 60 200.000 12.000.000
1.5 Bón phân công 30 200.000 6.000.000
2 Tiền mua phân bón và hóa chất
2.1 Phân chuồng hoai mục kg 20,000 1.000 20.000.000
2.2 Super lân kg 300 10.000 3.000.000
2.3 Ure kg 300 10.000 3.000.000
2.4 Kali kg 200 15.000 3.000.000
2.5 Thuốc bảo vệ thực vật lần 3 400.000 1.200.000
2.6 Hạt giống g 200 7.000 1.400.000
B Chi phí bổ sung
1 Phun phân bón công 12 200.000 2.400.000 2.400.000 2.400.000
2 Phân bón GSSG kg 10.000.000 - 7.000.000 10.500.000
3 Thu hoạch công 105 200.000 21.000.000 26.800.000 30.400.000
C Thu nhập
1 Năng suất (tấn/ha) tấn 37,7 41,7 47,7
2 Giá bán mức thấp 4.000 đồng/kg đ 37,7 4.000 150.800.000 166.800.000 190.800.000
3 Giá bán mức trung bình 6.000 đồng/kg đ 41,7 6.000 226.200.000 250.200.000 286.200.000
4 Giá bán mức cao 8.000 đồng/kg đ 47,7 8.000 301.600.000 333.600.000 381.600.000
D Lợi nhuận (D = C – A – B)
1 Giá bán mức thấp 4.000 đồng/kg
đ
52.600.000
55.800.000 72.700.000
(+ 6%) (+ 38,21%)
2 Giá bán mức trung bình 6.000 đồng/kg
đ
128.000.000
139.200.000 168.100.000
(+8,75%) (+ 31,32%)
3 Giá bán mức cao 8.000 đồng/kg đ
203.400.000
221.600.000 263.500.000
(+ 8,94%) (+29,54%)
IV. KẾT LUẬN
Phân bón GSSG W2 có ảnh hưởng tích cực đến
quá trình sinh trưởng của cải bắp. Sau lần phun
thứ 3 hai tuần, đường kính bắp mới có sự khác biệt
giữa công thức GSSG x2 và GSSG x3. Năng suất và
hiệu quả kinh tế cao nhất khi bổ sung GSSG 3 lần
(47,7 tấn/ha, lợi nhuận 168,1 triệu đồng/ha)
so với phun GSSG 2 lần (41,7 tấn/ha, lợi nhuận
139,2 triệu/ha) và đối chứng (37,8 tấn/ha, lợi nhuận
128 triệu đồng/ha). Ở mức giá bán trung bình
6.000 đồng/kg, công thức GSSG x2 và GSSG x3 lần
lượt thu được lợi nhuận hơn cao hơn mức đối chứng
11,2 triệu đồng/ha và 40,1 triệu đồng/ha vào vụ
Đông Xuân.
40
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Huy Hiền, Nguyễn Văn Bộ và Cao Kỳ Sơn, 2013.
Sản xuất và sử dụng phân bón lá ở Việt Nam. Tạp chí
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2: 5-15.
Lê Thị Khánh, 2009. Giáo trình cây rau. Bài 6 (77-78).
Huế, Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Huế.
Lê Thị Nguyệt & Tăng Thị Hạnh, 2018. Ảnh hưởng của
phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất
giống lúa BC15 trên hai mức bón đạm khác nhau tại
Ý Yên- Nam Định. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, 30 (2): 102-109.
Nguyễn Đình Thi, Lê Kim Nam và Trần Thị Nhi, 2013.
Nghiên cứu sử dụng phân bón lá hữu cơ MAYA&T1
cho các loại rau ăn lá phổ biến trong vụ hè thu tại
thành phố Huế. Chuyên san Khoa học Nông nghiệp,
Sinh học và Y Dược, 79 (1): 1-7.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, 2014. Quy trình sản
xuất rau bắp cái an toàn, ngày truy cập: 20/9/2019.
Địa chỉ:
xua-t-rau-ba-p-ca-i-an-toa-n-a12947.html
Vũ Thị Thanh Thủy, Nguyễn Thế Huân và Lê Viết Đại,
2015. Nghiên cứu một số đặc điểm nông sinh học và
ảnh hưởng của phân bón lá đối với giống cam Vinh
trồng tại huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, 142 (12): 51-56.
Fadzillah A.F.S & Md. J. Sarwar, 2019. Glutathione-
Rich Nano Fertilizer Improved Parameters of Sweet
Corn under Salinity Condition, International Journal
of Innovative Science and Research Technolog, 4 (5):
11-16.
FAOSTAT, 2019. Available from:
faostat/en/#data/QC.
Fernández V. & T. Eichert, 2009. Uptake of hydrophilic
solutes through plant leaves: current state of
knowledge and perspectives of foliar fertilization.
Critical Review Plant Science, 28: 83.
Forman H. J., H. Zhang & A. Rinna, 2010. Glutathione:
Overview of its protective roles, measurement, and
biosynthesis. Molecule Aspects of Medicine, 30 (1-2):
1-12.
Hasanuzzaman M., K. Nahar, T. I. Anee, & M. Fujita,
2017. Glutathione in plants: biosynthesis and
physiological role in environmental stress tolerance.
Physiology and Molecule Biology of Plants, 23 (2):
249-268.
Kannan S., 2009. Foliar fertilization for sustainable
Crop production. In: E. Lichtfouse (ed.) Genetic
Engineering, Biofertilization, Soil quality and Organic
Farming, Sustainable Agriculture reviews, the
Netherlands: Dordrecht, pp. 371-402.
Kuepper G., 2003. Foliar Fertilization Current Topic,
ATTRA - National sustainable Agriculture Information
service, pp. 1-10.
Lester G. E., J. L. Jifon & D. J. Makus, 2006.
Supplemental foliar potassium applications with or
without a surfactant can enhance netted muskmelon
quality. Horticultural Science, 4: 741-744.
Mohamed E.E, R.E Safaa & G.E Kawther, 2014.
Effect of the Two Antioxidants; Glutathione and
Ascorbic Acid on Vegetative Growth, Yield and
Some Biochemical Changes in Two Wheat Cultivars,
Journal of Plant Sciences, 2 (5): 215-221.
Naher M. N. A., M. N. Alam & N. Jahan, 2014. Effect
of Nutrient Management on the Growth and Yield
of Cabbage (Brassica oleracea var. capitata L.) in
Calcareous Soils of Bangladesh. The Agriculturists,
12 (2): 24-33.
Narayan S., N. Ahmed, S. Mufti, M.A. Chattoo,
P. K. Singh & F. A. Khan, 2016. Response of Golden
Acre Cabbage to Foliar Application of Water Soluble
Fertilizers on Plant Growth and Seed Yield. IRA-
International Journal of Applied Sciences, 4 (2): 226-229.
Effect of glutathione organic fertilizer on cabbage
Nguyen Anh Vu, Le Ngoc Tuan, Nguyen Hung, Nguyen Van Dong
Abstract
Cabbage is one of the popular vegetables, high-yielding, easy-processing and friendly for consumers. In this
experiment, the effect of GSSG foliar fertilizer containing 5% glutathione on the growth and development of cabbage
was evaluated. GSSG was additionally applied by spraying 2 times (GSSG x2) or 3 times (GSSG x3) at 2; 4 and
8 weeks after planting at a dose of 0.7 kg/ha/application compared to the control without GSSG application. The
results showed that GSSG supplementation enhanced cabbage development. Head diameters showed difference
between controls and treatments from 7 weeks after planting until harvest where GSSG x2 and GSSG x3 were 11%
and 16%, respectively, bigger than that of the control. In addition, this foliar fertilizer also increased the yield from
37.8 tons/ha to 41.7 tons/ha (up 10.3%) and 47.7 tons/ha (up 26.2%) in GSSG x2 and GSSG x3. In the winter-
spring season, the additional profits was 11.2 VND million/ha for GSSG x2 and 40.1 VND million/ha for GSSG x3
(selling price of 6,000 VND/kg) in comparison with the control.
Keywords: Cabbage, foliar fertilizer, glutathione, GSSG, yield
Ngày nhận bài: 20/12/2019
Ngày phản biện: 02/01/2020
Người phản biện: PGS. TS. Phạm Quang Hà
Ngày duyệt đăng: 13/01/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_phan_bon_huu_co_glutathione_len_cai_bap.pdf