Northern mountainous region of Vietnam has been known as tourism attraction area.
Since 1990s, Vietnam has become increasingly more open to international tourism, and the domestic
tourism market has also expanded. This research was carried out in Sa Pa District, a famous tourism
area in Lào Cai province in order to test if tourism development is a driver of land cover change. The
statistical analyses were applied at district and village level to find out the relationship between
tourism development and land cover change. The results have confirmed that tourism positively relates
to reforestation as well as agricultural abandonment and negatively to forest degradation in the study
area. Interview also was applied to get an insight understanding of the mechanism by which tourism
impacts on land cover changes. The development of tourism has created more jobs, increased incomes
for local people, supported agricultural intensification that lead to land abandonment in the marginal
area.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
14 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 991 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến biến động sử dụng đất tại huyện miền núi Sa Pa, tỉnh Lào Cai giai đoạn 1993-2006, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 
 1 
Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến biến động 
sử dụng đất tại huyện miền núi Sa Pa, tỉnh Lào Cai 
giai đoạn 1993-2006 
Hoàng Thị Thu Hương*,1,2,3, Vũ Kim Chi4, Anton Van Rompeay2, 
Veerle Vanacker3, Isaline Jadin3 
1Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
2Viện Địa lý, Trường Đại học Leuven, Vương quốc Bỉ 
3Viện Khoa học Trái đất và Sự sống, Trường Đại học Louvain, Vương quốc Bỉ 
4Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐHQGHN, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 28 tháng 2 năm 2014 
Chỉnh sửa ngày 14 tháng 3 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 6 năm 2014 
Tóm tắt: Miền núi phía Bắc Việt Nam được coi là nơi có nhiều tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân 
văn. Từ những năm 1990, Việt Nam tiến hành mở cửa cho khách du lịch quốc tế đến thăm quan 
một số điểm trong khu vực này. Thị trường khách du lịch cả quốc tế và nội địa bắt đầu tăng mạnh 
từ thời điểm này. Du lịch phát triển đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế, xã hội và môi trường của 
khu vực. Nghiên cứu này được tiến hành tại huyện Sa Pa, một điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh miền 
núi Lào Cai, nhằm đánh giá ảnh hưởng của phát triển du lịch đến biến động sử dụng đất. Kết quả 
nghiên cứu dựa trên tư liệu ảnh viễn thám, điều tra xã hội học và phân tích thống kê cho thấy du 
lịch đã có ảnh hưởng tích cực đến tài nguyên rừng và giảm áp lực lên đất nông nghiệp. 
Từ khóa: Du lịch, biến động sử dụng đất, phân tích thống kê, sinh kế, Sa Pa. 
1. Đặt vấn đề* 
Rừng Việt Nam còn khá dồi dào ở khu vực 
miền núi cho đến giữa thế kỷ 20 [1]. Sau đó 
diện tích rừng bị giảm mạnh vào cuối thập kỷ 
80 của thế kỷ 20 do nạn chặt phá rừng [2]. Vào 
đầu thập kỷ 90, độ che phủ rừng trung bình toàn 
quốc đạt 25-31%, riêng khu vực miền núi phía 
Bắc tỉ lệ này chỉ đạt 17%. Nguyên nhân chính 
_______ 
*
 Tác giả liên hệ. ĐT: 84-912989783 (+32-494694385) 
 E-mail: huonghoangbg@yahoo.com 
của nạn chặt phá rừng là do dân số tăng nhanh 
dẫn đến phá rừng để mở rộng diện tích đất canh 
tác. Từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây rừng có xu 
hướng phục hồi trở lại với độ che phủ đạt 32-
37% giai đoạn 1999-2001 và 34-42% năm 2005 
[3]. Đây là kết quả tổng hợp của các chính sách 
phát triển kinh tế-xã hội [4]. 
Sa Pa là huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai, 
nơi có đỉnh Phanxipăng cao 3143m được coi là 
nóc nhà Đông Dương với sự phân hoá cảnh 
quan đa dạng theo đai cao (hình 1). Huyện này 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 
2 
nằm ở vị trí quan trọng cả về mặt kinh tế (cửa 
ngõ của 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc) và sinh 
thái với phần lớn diện tích Vườn Quốc gia 
Hoàng Liên thuộc địa bàn huyện, nơi được coi 
là khu vực rừng đầu nguồn bảo vệ cho vùng hạ 
lưu sông Hồng. Ngoài ra, Sa Pa còn là địa bàn 
cư trú của các dân tộc thiểu số. Có 6 dân tộc 
chính cùng sinh sống trong huyện, gồm 
H’mông, Dao, Kinh, Tày, Dáy, Xa Phó. Trong 
đó dân tộc H’mông và Dao chiếm đa số với 
55% và 25 % tổng dân số của huyện [5]. Với sự 
đa dạng cả về cảnh quan lẫn dân tộc khiến Sa 
Pa từ lâu được biết đến là điểm du lịch hấp dẫn 
của Việt Nam. 
Đặc biệt từ năm 1993, Sa Pa thực hiện 
chính sách mở cửa hoàn toàn cho khách du lịch 
quốc tế. Kể từ đó số lượng du khách đến Sa Pa 
ngày càng tăng từ 161 lượt người năm 1995 lên 
405000 lượt người năm 2009 [5]. Sự phát triển 
du lịch đã tạo thêm nhiều việc làm cho người 
dân địa phương. Vậy sự phát triển của du lịch 
có ảnh hưởng gì đến biến động sử dụng đất tại 
huyện Sa Pa trong vòng 20 năm qua hay 
không? Đã có một số nghiên cứu về du lịch tại 
Sa Pa, như nghiên cứu của các tác giả: 
Stubblefield và nnk [6], Grindley và nnk [7], 
Tordoff A và nnk [8], Sarah Turner [9], Nguyễn 
An Thịnh [10],. Tuy nhiên phần lớn các 
nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào phân tích 
mối quan hệ giữa phát triển du lịch và sinh kế, 
giữa du lịch và bảo tồn. Trong khi đó mối quan 
hệ giữa phát triển du lịch và biến động sử dụng 
đất còn ít được đề cập đến. Hơn nữa biến động 
sử dụng đất là một trong những nguyên nhân 
gây nên biến đổi môi trường, đặc biệt là khí 
hậu. Vì vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa phát 
triển du lịch với biến động sử dụng đất tại 
huyện miền núi Sa Pa trong vòng 20 năm qua là 
vấn đề cần thiết và cấp bách. 
2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 
2.1. Cơ sở dữ liệu 
Khu vực nghiên cứu thuộc huyện Sa Pa, tỉnh 
Lào Cai với diện tích 681km2, dân số 559000 
người [5], gồm 17 xã và 1 thị trấn (hình 1). 
Hình 1. Sơ đồ vị trí khu vực nghiên cứu 
Các dữ liệu không gian được sử dụng trong 
nghiên cứu này bao gồm ảnh vệ tinh Landsat 5 
TM chụp ngày 1/02/1993 và 4/11/2006. Tất cả 
các ảnh Landsat được tải miễn phí từ trang web: 
 với độ phân giải 30 x 30m. 
Các ảnh này được sử dụng để tính biến động 
lớp phủ mặt đất trên qui mô toàn huyện Sa Pa. 
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng ảnh máy bay năm 
1993 và ảnh SPOT độ phân giải cao 5m x 5m 
năm 2006 để nghiên cứu chi tiết biến động sử 
dụng đất tại các điểm chìa khóa. Ảnh máy bay 
và SPOT được sử dụng để thành lập bản đồ 
hiện trạng sử dụng đất các năm 1993, 2006 từ 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 3 
đó thành lập bản đồ biến động sử dụng đất giai 
đoạn 1993-2006. 
Đề tài chọn các mốc thời gian trên để 
nghiên cứu vì năm 1993 là năm Sa Pa được 
Nhà nước quan tâm tái thiết và phát triển kinh 
tế, năm Sa Pa bắt đầu mở cửa hoàn toàn cho 
khách du lịch quốc tế, năm mở cửa khẩu quốc 
tế Lào Cai – Trung Quốc. Năm 2006, ngành du 
lịch của Sa Pa đang trên đà phát triển mạnh và 
có tác động không nhỏ đến sử dụng đất, thời 
điểm gần với thực tế nghiên cứu để kiểm chứng 
những thay đổi do du lịch mang lại. 
Dữ liệu thống kê kinh tế-xã hội cấp thôn 
bản được thu thập từ cuộc điều tra nông nghiệp, 
nông thôn và thủy sản của huyện Sa Pa năm 
2006 do Phòng Thống kê thực hiện dưới sự trợ 
giúp của Ngân hàng Thế giới (World Bank). Dữ 
liệu gốc ở cấp hộ gia đình sau đó được tổng hợp 
thành cấp thôn bản theo các chỉ tiêu sau: tỉ lệ số 
hộ tham gia du lịch, tỉ lệ dân số các nhóm dân 
tộc, tốc độ tăng dân số, tỉ lệ nghèo, diện tích 
canh tác thảo quả trung bình/hộ gia đình. Ngoài 
ra, thông tin về điều kiện tự nhiên của huyện Sa 
Pa như độ cao, độ dốc, khả năng tiếp cận được 
tính toán từ bản đồ địa hình tỉ lệ 1:50.000 năm 
2009 do Bộ Tài nguyên và Môi trường xuất 
bản. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp 
viễn thám và GIS, phương pháp điều tra xã hội 
học và các phương pháp phân tích thống kê 
không gian. 
a. Phương pháp viễn thám và GIS 
Phương pháp viễn thám được sử dụng để 
tách lọc dữ liệu không gian về biến động lớp 
phủ mặt đất từ ảnh vệ tinh và ảnh máy bay. Khu 
vực nghiên cứu là miền núi nên các ảnh vệ tinh 
và ảnh máy bay đều bị ảnh hưởng của bóng địa 
hình, vì vậy trước khi đưa vào phân loại, các 
ảnh viễn thám đều được lọc nhiễu khí quyển và 
nắn chỉnh bóng địa hình bằng cách dùng phần 
mềm MODTRAN-4 code và ATCOR2/3 [11]. 
Các ảnh máy bay được nắn chỉnh hình học bằng 
phần mềm PhotoMod trước khi tiến hành giải 
đoán để loại bỏ ảnh hưởng của méo địa hình khu 
vực miền núi. 
 Sau đó, nghiên cứu sử dụng phương pháp 
phân loại có kiểm định Maximum Likelihood 
thành lập bản đồ lớp phủ mặt đất từ ảnh 
Landsat. Các mẫu giải đoán dựa trên kiểm 
chứng thựa địa tháng 7/2010 và kiểm chứng 
qua ảnh máy bay năm 2002 (độ phân giải 
1:52.000). Ảnh máy bay được giải đoán bằng 
mắt thường và qua kiểm chứng thực địa tháng 
7/2010. Ảnh máy bay được cung cấp bởi Trung 
tâm Lưu trữ tư liệu, Bộ Tài nguyên và Môi 
trường. 
Lớp phủ mặt đất được chia thành 6 đối 
tượng là: rừng giàu, rừng nghèo, ruộng bậc 
thang, nương rẫy, cây bụi, mặt nước. Đối với 
bản đồ được thành lập từ ảnh máy bay thì có 
thêm lớp đất dân cư. Độ chính xác của phân 
loại được đánh giá qua thực địa với 180 điểm 
kiểm chứng và qua bản đồ địa hình năm 2009. 
Bản đồ lớp phủ mặt đất của hai thời kỳ sau 
đó được chồng xếp bằng công cụ “Raster 
calculator” trong phần mềm ArcGIS 9.3 để tính 
biến động lớp phủ mặt đất cho giai đoạn 1993-
2006. Vì có 6 lớp sử dụng đất nên sẽ có 36 
(6x6) khả năng biến động xảy ra giữa hai thời 
kỳ. Để dễ hiểu và thuận tiện cho việc tính toán 
thống kê, các khả năng biến động sẽ được gộp 
lại thành 6 nhóm gồm: (1) không thay đổi, (2) 
suy giảm rừng (chuyển từ rừng giàu thành rừng 
nghèo), (3) phá rừng (chuyển từ đất rừng sang 
không rừng), (4) phục hồi rừng (chuyển từ rừng 
nghèo thành rừng giàu hoặc từ đất không rừng 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 
4 
thành đất rừng), (5) mở rộng ruộng bậc thang, 
(6) bỏ hoang đất canh tác (chuyển từ đất nông 
nghiệp sang cây bụi). 
b. Phương pháp điều tra xã hội học 
Để hiểu sâu hơn về ảnh hưởng của phát 
triển du lịch đến biến động sử dụng đất cấp hộ 
gia đình, đề tài lựa chọn 30% số thôn bản của 
huyện Sa Pa để tiến hành phỏng vấn. Với mục 
tiêu tìm hiểu ảnh hưởng của du lịch đến biến 
động sử dụng đất nên chúng tôi lựa chọn 13 
thôn bản thường xuyên có khách du lịch đến 
thăm và 9 thôn bản hầu như không có khách du 
lịch đến. Trong đó một số thôn bản gần với 
trung tâm huyện, số còn lại xa trung tâm. Tại 
mỗi thôn bản, 20 hộ gia đình được lựa chọn 
ngẫu nhiên để tiến hành phỏng vấn. Chúng tôi 
đã phỏng vấn 512 hộ gia đình (chiếm 21% tổng 
số hộ) tại 25 thôn bản thuộc 5 xã: Lao Chải, 
Trung Chải, Tả Phìn, San Sả Hồ và Nậm Cang. 
Mẫu này được coi là có tính đại diện cho toàn 
bộ khu vực nghiên cứu. Các bảng hỏi sau đó 
được mã hóa vào cơ sở dữ liệu để phục vụ cho 
phân tích thống kê. Các thông tin chi tiết được 
thống kê gồm: số nhân khẩu, thành phần dân 
tộc, số người tham gia du lịch, số ngày tham gia 
du lịch trong năm, thu nhập từ du lịch, tỉ lệ thu 
nhập du lịch/tổng thu nhập của hộ, hình thức 
tham gia du lịch, 
c. Phương pháp phân tích thống kê không gian 
Phương pháp phân tích thống kê không gian 
trong GIS cho phép xác định mối tương quan 
hay không tương quan của một hay một vài 
thực thể địa lý trong không gian với các thực 
thể địa lý khác [12]. 
Trước tiên, đề tài sử dụng mô hình hồi qui 
logic đa bậc (MLR) để xác định mối tương 
quan giữa biến động sử dụng đất và các yếu tố 
địa lý. Cụ thể đề tài đã xác định một nhóm các 
điểm mẫu ngẫu nhiên trên toàn khu vực nghiên 
cứu, mỗi điểm là một pixel. Số lượng điểm 
ngẫu nhiên bằng 10% số lượng pixel biến động 
ở mỗi lớp biến động sử dụng đất. Biến phụ 
thuộc là các biến động sử dụng đất. Khu vực 
xảy ra biến động được mà hóa là 1, khu vực 
không biến động là 0. Các biến độc lập gồm 9 
biến cả tự nhiên và kinh tế xã hội: tỉ lệ số hộ 
tham gia du lịch, nhóm dân tộc, tỉ lệ nghèo, tốc 
độ tăng trưởng dân số, diện tích thảo quả bình 
quân trên mỗi hộ gia đình, khoảng cách tới 
đường giao thông, khoảng cách đến sông suối, 
độ cao, độ dốc. Các biến trên tồn tại ở 3 dạng: 
nhị phân (binary) (các biến có dạng 0, 1), định 
lượng (quantitative) (các biến có giá trị liên 
tục), định tính (qualitative) (các biến được mã 
hóa dưới dạng số tự nhiên 0-9 hoặc chữ cái A-
Z). Các biến nhị phân là các biến về biến động 
sử dụng đất. Các biến định lượng gồm: tỉ lệ số 
hộ tham gia du lịch, tỉ lệ nghèo, tốc độ tăng 
trưởng dân số, diện tích thảo quả bình quân trên 
mỗi hộ gia đình, khoảng cách tới đường giao 
thông, khoảng cách đến sông suối, độ cao, độ 
dốc. Biến dân tộc thuộc loại định tính và được 
mã hóa theo ký tự như: “H” ký hiệu cho dân tộc 
H’mông, “Y” cho dân tộc Dao, “T” cho dân tộc 
Tày, “K” cho dân tộc Kinh và “D” cho dân tộc 
Dáy. Thảo quả là một lại cây thuốc và gia vị 
mới được đưa vào trồng rộng rãi ở huyện Sa Pa 
từ những năm 1990 sau khi có lệnh cấm trồng 
cây thuốc phiện. Thảo quả chỉ thích hợp trồng 
dưới tán rừng già. Đây là cây trồng mang lại 
hiệu quả kinh tế cao. Chúng tôi đặt giả thiết 
rằng việc canh tác thảo quả có thể giảm bớt áp 
lực lên đất nông nghiệp và có thể ảnh hưởng 
đến lớp phủ rừng. Vì vậy chúng tôi coi “thảo 
quả” là một biến trong phân tích MLR. Trước 
khi đưa vào phân tích MLR cần kiểm tra sự đa 
cộng tuyến giữa các biến độc lập (kiểm tra 
tương quan giữa các biến. Nếu các biến có 
tương quan chặt chẽ thì phải loại bớt để không 
ảnh hưởng đến kết quả phân tích thống kê). Các 
biến có giá trị Tolerance>0,6 thì được chấp 
nhận đưa vào phân tích [13]. Vì vậy, chỉ có 8 
biến độc lập được đưa vào phân tích MLR 
(bảng 1). 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 5 
Bước tiếp theo đề tài sử dụng phương pháp 
phân tích thành phần chính (PCA) để nghiên 
cứu sâu hơn ảnh hưởng của yếu tố du lịch đến 
biến động sử dụng đất. Từ kết quả phỏng vấn, 
một cơ sở dữ liệu mới được thành lập ở cấp độ 
thôn bản gồm 5 biến liên quan đến hoạt động 
du lịch, 3 biến liên quan đến biến động lớp phủ 
rừng và 2 biến liên quan đến biến động đất nông 
nghiệp giai đoạn 1993-2012 (bảng 2). 
Bảng 1. Các biến được đưa vào phân tích hồi qui logic đa bậc (MLR) 
Các biến phụ thuộc Các biến độc lập 
Tên biến Định dạng Tên biến Định dạng 
Rừng suy giảm Nhị phân Tỉ lệ du lịch (tỉ lệ số hộ tham gia vào du lịch 
tại mỗi thôn bản) 
Định lượng 
Phá rừng Nhị phân Tốc độ tăng dân số thời kỳ 1989-2006 Định lượng 
Rừng phục hồi Nhị phân Tỉ lệ hộ nghèo 2006 Định lượng 
Thành phần dân tộc (H’mông, Dao, Tày, Dáy, 
Xa Phó và hỗn hợp) 
Định tính 
Diện tích thảo quả/hộ gia đình Định lượng 
Mở rộng ruộng bậc thang Nhị phân 
Độ dốc Định lượng 
Khoảng cách đến đường giao thông Định lượng Bỏ hoang đất canh tác Nhị phân 
Khoảng cách đến sông suối Định lượng 
Bảng 2. Các biến được đưa vào phân tích thành phần chính (PCA) 
Tên biến Giải thích Đơn vị 
Các biến về biến động lớp phủ 
rừng 
Rừng suy giảm Diện tích rừng suy giảm/tổng diện tích thôn bản % 
Phá rừng Diện tích phá rừng/tổng diện tích thôn bản % 
Rừng phục hồi Diện tích rừng phục hồi/tổng diện tích thôn bản % 
Bỏ hoang đất canh tác Diện tích bỏ hoang/tổng diện tích thôn bản % 
Mở rộng ruộng bậc thang Diện tích ruộng bậc thang mở rộng/tổng diện tích thôn bản % 
Các biến du lịch 
Tỉ lệ du lịch Số người tham gia du lịch/tổng dân số của thôn bản % 
Ngày du lịch Số ngày trung bình một người tham gia vào hoạt động du lịch 
tại mỗi thôn bản trong năm 
ngày/năm 
Thu nhập du lịch Thu nhập trung bình/người/năm tại mỗi thôn bản triệu 
đồng/năm 
Tỉ lệ thu nhập du lịch Thu nhập du lịch/tổng thu nhập của hộ gia đình % 
Các loại hình hoạt động du lịch 
S (Bán hàng rong) Tỉ lệ số người tham gia bán hàng rong/tổng số người hoạt 
động du lịch 
% 
M (Làm thổ cẩm) Tỉ lệ số người làm thổ cẩm/tổng số người hoạt động du lịch % 
R (Làm thuê cho các nhà hàng) Tỉ lệ số người làm thuê cho các nhà hàng/tổng số người hoạt 
động du lịch 
% 
H (làm thuê tại các khách sạn) Tỉ lệ số người làm thuê cho các khách sạn/tổng số người hoạt 
động du lịch 
% 
G (Hướng dẫn viên du lịch) Tỉ lệ số người làm hướng dẫn viên/tổng số người hoạt động du 
lịch 
% 
P (Khuân vác) Tỉ lệ số người làm khuân vác đồ cho khách du lịch/tổng số 
người hoạt động du lịch 
% 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 
6 
Theo Bryant and Yarnold [14] số mẫu cần 
thiết cho phân tích thành phần chính tối thiểu là 
50 hoặc số mẫu gấp 5 lần số biến. Trong trường 
hợp này số mẫu nhỏ hơn 50 nên chúng tôi áp 
dụng điều kiện thứ 2. Tức là chỉ sử dụng từ 5 
đến 7 biến cho mỗi lần phân tích PCA. Các 
phương pháp phân tích thống kê nêu trên được 
thực hiện bằng phần mềm XLSTAT với độ tin 
cậy 95% được lựa chọn để kiểm chứng các giả thiết. 
3. Kết quả 
3.1. Kết quả phân loại ảnh 
Kết quả phân loại ảnh Landsat được thể 
hiện trong hình 2, và kết quả giải đoán ảnh máy 
bay và SPOT trong hình 3. Độ chính xác toàn 
cục của phân loại ảnh Landsat là 71,1% và 83% 
cho năm 1993 và 2006 (hệ số Kappa 0,71 và 
0,79). Kết quả phân loại ảnh vệ tinh và ảnh máy 
bay đều cho thấy sự phân bố của lớp phủ mặt 
đất phụ thuộc nhiều vào địa hình. Đất canh tác 
thường phân bố dọc theo các thung lũng, trong 
đó ruộng bậc thang phân bố trên các sườn núi 
thoải, gần khe suối; nương rẫy phân bố xa 
nguồn nước hơn và trên các sườn núi dốc. Rừng 
giàu tập trung phần lớn trong phạm vi Vườn 
quốc gia Hoàng Liên, trên các dãy núi cao, 
sườn dốc khó tiếp cận. Rừng nghèo phân bố rải 
rác xen kẽ giữa đất nông nghiệp và rừng giàu. 
Cây bụi phân bố khá phức tạp, có mặt cả ở dưới 
thung lũng và trên những sườn núi dốc đứng. 
3.2. Biến động lớp phủ mặt đất huyện Sa Pa 
giai đoạn 1993-2006 
Kết quả tính biến động lớp phủ mặt đất giai 
đoạn 1993-2006 cho toàn huyện Sa Pa được thể 
hiện trong hình 4 và cho một số điểm chìa khóa 
được thể hiện trong hình 5. Kết quả tính biến 
động từ ảnh Landsat và ảnh có độ phân giải cao 
(ảnh máy bay và SPOT) đều cho thấy tỉ lệ chặt 
phá rừng đã giảm đáng kể trong giai đoạn 1993-
2006. 
Đây là giai đoạn rừng được tái sinh và phục 
hồi do giai đoạn này Sa Pa được Nhà nước quan 
tâm phát triển và bảo vệ rừng với chính sách 
mở cửa cho khách du lịch quốc tế, thành lập 
Khu bảo tồn Hoàng Liên Sơn. 
Hình 2. Sơ đồ lớp phủ mặt đất huyện Sa Pa năm 1993 
và 2006 được giải đoán từ ảnh Landsat. 
Hình 3. Sơ đồ lớp phủ mặt đất của điểm nghiên cứu 
chìa khóa năm 1993 và 2006 được giải đoán từ ảnh 
máy bay (1993) và ảnh SPOT độ phân giải cao (2006). 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 7 
 Diện tích rừng giàu trong giai đoạn này có 
xu hướng tăng lên, trong khi diện tích cây bụi 
giảm mạnh do chuyển thành rừng và đất nông 
nghiệp [12]. Tuy nhiên ở một vài vị trí cục bộ 
xảy ra hiện tượng bỏ hoang đất canh tác. Khu 
vực ít xảy ra biến động tập trung chủ yếu trong 
Vườn quốc gia Hoàng Liên và những khu vực 
núi cao, dốc đứng khó tiếp cận. 
Hình 4. Sơ đồ biến động lớp phủ mặt đất huyện Sa 
Pa giai đoạn 1993-2006 (thành lập từ ảnh 
Landsat). 
Hình 5. Sơ đồ biến động lớp phủ mặt đất tại điểm nghiên 
cứu chìa khóa giai đoạn 1993-2006 (thành lập từ ảnh 
máy bay và SPOT 4). 
3.3. Các nhân tố tác động đến biến động sử 
dụng đất ở Sa Pa 
Theo trang web  
trong phân tích MLR nếu p nhỏ hơn 0.05 và 
Odds ratio khác 1 thì có mối tương quan giữa 
biến phụ thuộc và biến độc lập với độ tin cậy 
95%. Nếu Odds ratio nhỏ hơn 1 là tương quan 
âm (tỉ lệ nghịch), ngược lại nếu Odds ratio lớn 
hơn 1 là tương quan dương (tỉ lệ thuận). 
Kết quả phân tích MLR ở bảng 3 cho thấy 
biến động sử dụng đất ở Sa Pa giai đoạn 1993-
2006 chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố 
gồm cả nhân tố tự nhiên (yếu tố địa hình), kinh 
tế- xã hội (yếu tố dân tộc, du lịch, tốc độ tăng 
dân số, nghèo đói) và khả năng tiếp cập 
(khoảng cách đến đường giao thông, sông 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 
8 
suối,). Trong đó nhân tố dân tộc, địa hình, 
khả năng tiếp cận chi phối hầu hết các kiểu biến 
động sử dụng đất. Kết quả này cũng tương tự 
các nghiên cứu trước đây của Vũ Kim Chi [13] 
tại Sơn La, của Castella [15] tại Bắc Kạn. Tuy 
nhiên điểm khác biệt trong nghiên cứu này là 
ngoài các yếu tố kể trên thì biến động sử dụng 
đất tại Sa Pa còn chịu sự tác động mạnh của yếu 
tố du lịch. 
Kết quả phân tích MLR cho thấy biến “du 
lịch” có tương quan tỉ lệ nghịch với biến “suy 
giảm rừng” và tỉ lệ thuận với biến “bỏ hoang 
đất canh tác”. Điều đó có nghĩa là khả năng xảy 
ra suy giảm rừng sẽ giảm khi tỉ lệ số hộ tham 
gia du lịch tăng, ngược lại khả năng bỏ hoang 
đất canh tác sẽ tăng khi tỉ lệ số hộ tham gia du 
lịch tăng. 
Nếu tỉ lệ số hộ tham gia du lịch tăng 10%, 
thì khả năng xảy ra suy giảm rừng sẽ giảm 
1/0,81=1,2 lần (10%=10 đơn vị, do đó Odds 
Ratio = e-0,021*10=0,81) trong giai đoạn 1993-
2006. Ngược lại, nếu tỉ lệ số hộ tham gia du lịch 
tăng 10% thì khả năng bỏ hoang đất canh tác sẽ 
tăng 1.2 lần (10%=10 đơn vị, do đó Odds Ratio 
= e0,016*10=1,2) trong giai đoạn này. 
3.4. Mối quan hệ giữa biến động sử dụng đất và 
du lịch 
Kết quả phân tích MLR ở trên đã chỉ ra 
rằng du lịch là một trong những nhân tố ảnh 
hưởng đến biến động đất rừng và đất nông 
nghiệp bên cạnh các yếu tố khác như dân tộc, 
địa hình, khả năng tiếp cận. Tuy nhiên, phương 
pháp trên không cho chúng ta cái nhìn chi tiết 
về ảnh hưởng của du lịch đến biến động sử 
dụng đất. Vì vậy, bước tiếp theo chúng tôi sẽ áp 
dụng phương pháp Phân tích thành phần chính 
(PCA) để phân tích kỹ hơn ảnh hưởng của yếu 
tố du lịch đến biến động sử dụng đất dựa trên 
dữ liệu phỏng vấn 512 hộ gia đình tại 25 thôn 
bản chìa khóa. Dữ liệu về biến động sử dụng 
đất tại các điểm chìa khóa được tính toán từ ảnh 
máy bay năm 1993 và ảnh SPOT năm 2006 với 
độ phân giải cao. 
Bảng 3. Kết quả phân tích hồi qui logic đa bậc (MLR) (chỉ liệt kê các biến có tương quan 
với các loại hình biến động sử dụng đất với độ tin cậy 95%) 
Các loại hình biến động sử dụng đất Các nhân tố tác động đến biến 
động sử dụng đất 
Hệ số hồi 
qui 
Pr > Chi² 
Odds ratio 
Tỉ lệ du lịch -0,021 0,003 0,997 
Dân tộc Dao 0,32 0,046 1,377 
Độ cao -0,001 0 0,999 Suy giảm rừng 
Độ dốc 0,028 <0,0001 1,028 
Độ dốc -0,014 <0,0001 0,986 
Diện tích thảo quả/hộ gia đình -0,147 0,029 0,863 
Phá rừng 
Dân tộc Tày -0,575 0,008 0,562 
Độc dốc 0,009 <0,0001 1,009 
Tốc độ tăng dân số -0,083 0,012 0,921 Phục hồi rừng 
Dân tộc Dáy -1,078 0,038 0,34 
Độ cao -0,001 0,038 0,999 
Độ dốc -0,085 <0,0001 0,919 
Mở rộng ruộng bậc thang 
Dân tộc Tày -2,524 0,039 0,080 
Tỉ lệ du lịch 0,015 0,026 1,015 
Tỉ lệ nghèo 0,01 0,045 1,01 
Khoảng cách đến đường giao 
thông 
-0,001 0 0,999 Bỏ hoang đất canh tác 
Khoảng cách đến sông suối 0,001 0,046 1,001 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 9 
Kết quả phân tích PCA một lần nữa khẳng 
định có mối tương quan giữa nhân tố du lịch 
với biến động đất rừng và đất nông nghiệp. Như 
phần trên đã trình bày, các biến liên quan đến 
du lịch gồm: tỉ lệ số người tham gia du lịch, số 
ngày tham gia du lịch/năm, thu nhập du 
lịch/năm, thu nhập du lịch/tổng thu nhập của hộ 
gia đình, tỉ lệ số người tham gia vào từng hoạt 
động du lịch (bán hàng rong, dệt thổ cẩm, 
hướng dẫn viên, làm trong nhà hàng, khách 
sạn,). Các biến này được tính trung bình cho 
từng thôn bản. 
a. Du lịch và biến động đất rừng 
Nếu như phân tích MLR cho thấy tỉ lệ số hộ 
tham gia du lịch có tương quan tỉ lệ nghịch với 
“suy giảm rừng” thì phân tích PCA lại cho thấy 
tỉ lệ số người tham gia vào du lịch tỉ lệ thuận 
với “phục hồi rừng” (bảng 4). 
Những thôn bản nào có tỉ lệ số người tham 
gia vào du lịch càng cao thì tỉ lệ rừng phục hồi 
càng cao. Như vậy kết quả của cả 2 phương 
pháp đều khẳng định một điều: du lịch là một 
nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến việc bảo vệ 
và duy trì nguồn tài nguyên rừng ở Sa Pa. 
Ngoài ra, kết quả phân tích PCA còn cho thấy 
khả năng phục hồi rừng có mối tương quan 
thuận với các hoạt động du lịch như bán hàng 
rong và hướng dẫn viên du lịch (bảng 4). 
Kết quả phân tích PCA ở hình 6 cho thấy sự 
đối lập giữa các dân tộc trong việc tham gia du 
lịch và biến động đất rừng. Trục đầu tiên thể 
hiện sự đối lập giữa dân tộc H’mông và Dao. 
Nhóm dân tộc H’mông đặc trưng bởi tỉ lệ thu 
nhập du lịch cao, số ngày tham gia du lịch 
nhiều và biến động đất rừng mạnh mẽ thì ở 
nhóm dân tộc Dao lại ngược lại. Trục thứ 2 thể 
hiện sự đối lập giữa nhóm dân tộc H’mong và 
Kinh trong việc tham gia du lịch. 
Bảng 4. Mối tương quan giữa các biến du lịch với biến động sử dụng đất trong phân tích thành phần chính (PCA) 
Biến động sử dụng đất Biến du lịch Hệ số tương quan 
Tỉ lệ số người hoạt động du lịch 0.5* 
Tỉ lệ số người bán hàng rong 0.47* Phục hồi rừng 
Tỉ lệ số người làm hướng dẫn viên 0.56** 
Bỏ hoang đất canh tác 
Tỉ lệ thu nhập du lịch trong tổng thu nhập 
của hộ gia đình 
0.59** 
* Tương quan chặt với độ tin cậy 95%, ** Tương quan chặt với độ tin cậy 99% 
Hình 6. Kết quả phân tích PCA giữa các biến dân tộc; tỉ lệ tham gia, thời gian tham gia, thu nhập du lịch 
và biến động đất rừng 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 
10 
Hình 7. Kết quả phân tích PCA giữa các biến dân tộc; tỉ lệ tham gia, thời gian tham gia, thu nhập du lịch và 
biến động đất nông nghiệp. 
Cùng tham gia du lịch nhưng nhóm người 
Kinh đạt được thu nhập du lịch/người/năm cao 
hơn trong khi nhóm người H’mông lại có tỉ lệ 
du lịch trong tổng thu nhập cao hơn. Điều đó 
chứng tỏ người Kinh đạt được thu nhập du lịch 
cao hơn người H’mông nhưng thu nhập từ du 
lịch không phải là nguồn thu duy nhất của họ. 
Trong khi đối với người H’mông tuy thu nhập 
từ du lịch không cao bằng người Kinh nhưng 
đây là nguồn thu quan trọng. 
b. Du lịch và biến động đất nông nghiệp 
Kết quả phân tích PCA ở hình 7 cho thấy 
nếu tỉ lệ tham gia du lịch và các loại hình du 
lịch có mối tương quan với biến động đất rừng 
thì tỉ lệ thu nhập du lịch trong tổng thu nhập của 
hộ gia đình lại có mối tương quan tỉ lệ thuận 
với tỉ lệ bỏ hoang đất canh tác. Điều đó có 
nghĩa khi tỉ lệ thu nhập từ du lịch của hộ gia 
đình càng cao thì họ có xu hướng bỏ hoang một 
phần đất canh tác. 
Kết quả phân tích PCA ở hình 7 cũng cho 
thấy có sự đối lập giữa dân tộc H’mông và Dao 
trong việc tham gia vào du lịch và tỉ lệ đất bỏ 
hoang. Nếu nhóm người H’mông có tỉ lệ thu 
nhập du lịch trong tổng thu nhập của hộ gia 
đình cao hơn và tỉ lệ đất bỏ hoang cao hơn thì 
nhóm người Dao lại ngược lại. Do đề tài chỉ 
tiến hành khảo sát ở những xã nông nghiệp nơi 
có rất ít người Kinh cư trú, hơn nữa người Kinh 
phần lớn hoạt động sản xuất phi nông nghiệp 
nên kết quả phân tích không cho thấy mối 
tương quan giữa du lịch và biến động sử dụng 
đất ở nhóm người Kinh. 
4. Thảo luận 
4.1. Du lịch làm thay đổi sự phân công lao 
động xã hội và cơ cấu thu nhập của hộ gia đình 
Về mặt truyền thống, lao động của các dân 
tộc thiểu số chủ yếu được chia theo giới [16]. 
Tên các biến: 
Dân tộc 
Hmong: Dân tộc H’mông 
Dao: Dân tộc Dao 
Kinh: Dân tộc Kinh 
Biến động đất nông nghiệp 
LUC4: Mở rộng diện tích ruộng bậc thang 
LUC7: Bỏ hoang đất canh tác (nương rẫy) 
Du lịch 
T1: Tỉ lệ số người tham gia du lịch 
T2: Số ngày tham gia du lịch/người/năm 
T3: Thu nhập du lịch/người/năm 
T4: Tỉ lệ thu nhập du lịch/tổng thu nhập 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 11 
Phụ nữ đảm nhiệm các công việc như nội trợ, 
đồng áng, may vá, thêu thùa, Đàn ông phụ 
trách các công việc nặng nhọc hơn như: đi 
rừng, làm nhà, gia công công cụ lao động [17, 
18]. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của 
du lịch, số lượng phụ nữ dân tộc thiểu số tìm 
được công việc ổn định tại các khách sạn và 
nhà hàng tăng lên. Việc bán hàng thổ cẩm và 
làm hướng dẫn viên du lịch cũng phát triển 
mạnh trở thành một nghề chứ không còn là việc 
làm thêm lúc nhàn rỗi [16]. Theo kết quả phỏng 
vấn tháng 7/2012, thu nhập trung bình từ việc 
bán hàng rong là 14,8 triệu đồng/người/năm, từ 
hướng dẫn viên là 20,4 triệu đồng/người/năm, 
cao hơn rất nhiều so với thu nhập từ nông 
nghiệp (5-10 triệu đồng/người/năm) (kết quả 
phỏng vấn tháng 7/2012). 
Do sự phát triển của du lịch chủ yếu tạo cơ 
hội việc làm cho phụ nữ dẫn đến sự thay đổi 
trong phân công lao động xã hội. Một hình thức 
phân công lao động xã hội mới xuất hiện, đó là 
người vợ đi ra ngoài kiếm tiền hỗ trợ gia đình, 
người chồng sẽ ở nhà phụ trách công việc đồng 
áng và chăm sóc con cái. 
Du lịch không những làm thay đổi sự phân 
công lao động xã hội mà còn thay đổi cả cơ cấu 
thu nhập của các hộ gia đình. Theo kết quả 
phỏng vấn, thu nhập du lịch chiếm tới 66% tổng 
thu nhập tiền mặt của các hộ gia đình. Điều đó 
có nghĩa du lịch đã trở thành một nguồn thu 
quan trọng của người dân địa phương. Kết quả 
phỏng vấn cho thấy 78% số người được hỏi cho 
rằng du lịch đã giúp cuộc sống của họ khá lên và 
56% nói rằng du lịch giúp họ nâng cao nhận 
thức. 
4.2. Du lịch làm giảm áp lực lên đất rừng 
Kết quả phân tích MLR chỉ ra rằng tỉ lệ du 
lịch có mối tương quan âm với suy giảm rừng. 
Hay nói cách khác là khả năng xảy ra chặt phá 
rừng sẽ giảm khi tỉ lệ số hộ tham gia vào du lịch 
tăng. Đồng thời kết quả phân tích PCA cũng cho 
thấy có mối tương quan thuận giữa tỉ lệ số người 
tham gia du lịch với sự phục hồi rừng. 
Kết quả từ 2 phương pháp giúp chúng ta 
khẳng định rằng du lịch là một nhân tố có tác 
động tích cực đến việc duy trì và bảo vệ tài 
nguyên rừng. 
Theo kết quả phỏng vấn các hộ gia đình tại 
điểm nghiên cứu chìa khóa, có tới 12% số 
người trong độ tuổi lao động tham gia vào hoạt 
động du lịch. Phần lớn trong số họ tham gia vào 
bán hàng rong, dệt thổ cẩm và làm hướng dẫn 
viên du lịch (chiếm 91,3% tổng số người hoạt 
động du lịch). Những hoạt động này chiếm khá 
nhiều thời gian: 210 ngày/năm đối với hoạt 
động bán hàng rong, 250 ngày/năm đối với dệt 
thổ cẩm và 205 ngày/năm đối với nghề hướng 
dẫn viên du lịch. Hơn nữa, những hoạt động du 
lịch như bán hàng rong và làm hướng dẫn viên 
du lịch đòi hỏi người dân phải làm việc cách xa 
nơi ở, chủ yếu tập trung tại thị trấn Sa Pa. Vì 
vậy họ hầu như không còn thời gian để vào 
rừng khai thác lâm sản. Hơn nữa, nguồn thu 
nhập từ rừng dần dần trở nên không còn quan 
trọng đối với người dân địa phương do họ đã có 
nguồn thu bổ sung từ du lịch cao hơn. Đây là cơ 
hội làm hạn chế sự khai thác rừng và giúp rừng 
phục hồi tốt hơn. 
Mặt khác, rừng được bảo vệ tốt hơn nhờ lệ 
phí thu được từ các điểm tham quan du lịch như 
núi Hàm Rồng hay đỉnh Phan Xi Păng hoặc 
thuế thu được từ hoạt động kinh doanh nhà 
hàng, khách sạn, dịch vụ du lịch, [8]. Năm 
2010, một trung tâm du lịch sinh thái trực thuộc 
Ban quản lý Vườn quốc gia Hoàng Liên đã 
được thành lập. Lệ phí tham quan tại các điểm 
du lịch được trích 15% phục vụ cho công tác 
bảo tồn. Bên cạnh đó, các xã thường xuyên tổ 
chức “lễ ăn thề” bảo vệ rừng thiêng và tổ chức 
các chương trình vệ sinh làng bản khuyến khích 
cộng đồng địa phương cũng như khách du lịch 
tham gia. 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 
12 
4.3. Du lịch thúc đẩy thâm canh nông nghiệp 
Việc dân số tăng nhanh đã làm cho đất nông 
nghiệp trở thành vấn đề cấp bách, đất đai sẵn có 
để mở rộng ruộng bậc thang ngày càng ít ỏi 
[16]. Tuy nhiên ở Sa Pa từ đầu thập kỷ 90 đến 
nay, nhờ áp dụng hiện đại hóa nông nghiệp như 
trồng các giống lúa mới năng suất cao cũng như 
sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu mà mâu thuẫn 
này đã được giải quyết. Tuy nhiên, việc hiện đại 
hóa nông nghiệp chỉ được áp dụng phổ biến từ 
khi có nguồn thu nhập bổ sung từ du lịch. Kết 
quả phân tích PCA cho thấy có mối tương quan 
thuận giữa tỉ lệ thu nhập du lịch với chi phí đầu 
tư cho nông nghiệp. Khi các hộ gia đình kiếm 
được càng nhiều tiền từ hoạt động du lịch thì họ 
sẽ đầu tư nhiều cho sản xuất nông nghiệp như 
mua lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu giúp 
cho năng suất cao hơn. Ngày nay, người dân địa 
phương chỉ tập trung thâm canh trên những 
thửa ruộng bậc thang và bỏ hoang một phần 
nương rẫy năng suất thấp để phục hồi thành 
rừng. Trong tương lại tại những khu rừng tái 
sinh này, người dân sẽ trồng thảo quả, một loại 
cây cho thu nhập khá cao mà không mất nhiều 
công chăm bón, đầu tư. Có thể nói du lịch đã 
giúp giảm dần phương thức canh tác nương rẫy 
vốn được coi là hệ thống canh tác kém bền 
vững trên đất dốc mà Nhà nước đang hạn chế 
dần phương thức canh tác này [19]. Một lần 
nữa, chúng ta có thể khẳng định rằng sự phát 
triển của du lịch đã hỗ trợ cho hiện đại hóa 
nông nghiệp, giúp người dân địa phương giải 
quyết được phần nào sự thiếu hụt lượng thực và 
giúp cho việc sử dụng đất nông nghiệp bền 
vững, hiệu quả hơn. 
Kết luận 
Kết quả phân loại ảnh từ ảnh Landsat cho 
toàn huyện Sa Pa và từ ảnh máy bay và SPOT 
cho các điểm chìa khóa đều cho thấy hiện tượng 
phá rừng đã giảm trong thời kỳ 1993-2006. Cả 
hai phương pháp phân tích thống kê thực hiện 
trên 2 cơ sở dữ liệu không gian khác nhau: một 
từ nguồn ảnh Landsat với độ phân giải trung 
bình, một từ nguồn ảnh máy bay và ảnh SPOT 
với độ phân giải cao đều khẳng định du lịch là 
một trong những nhân tố có ảnh hưởng tích cực 
đến biến động lớp phủ rừng và đất nông nghiệp. 
Phương pháp phân tích hồi qui logic đa bậc 
MLR cho thấy biến động lớp phủ mặt đất tại 
huyện Sa Pa trong giai đoạn 1993-2006 là kết 
quả tổng hợp của nhiều nhân tố, bao gồm cả 
nhân tố địa lý tự nhiên, khả năng tiếp cận và 
nhân tố kinh tế-xã hội. Trong đó du lịch là nhân 
tố nổi trội làm giảm sự suy giảm rừng và làm 
tăng tỉ lệ bỏ hoang đất canh tác. 
Kết quả phân tích thành phần chính PCA 
dựa trên nguồn dữ liệu điều tra xã hội học tại 
các thôn bản chìa khóa cho thấy tỉ lệ phục hồi 
rừng có tương quan với những hoạt động du 
lịch chiếm nhiều thời gian của người dân địa 
phương như bán hàng rong và làm hướng dẫn 
viên du lịch. Trong khi thu nhập từ du lịch lại 
ảnh hưởng đến tỉ lệ bỏ hoang đất canh tác theo 
tỉ lệ thuận. Như vậy kết quả nghiên cứu của đề 
tài khẳng định rằng du lịch là một nhân tố có 
ảnh hưởng tích cực đến việc duy trì nguồn tài 
nguyên rừng tại huyện Sa Pa giai đoạn 1993-
2006. Bên cạnh đó, du lịch còn thúc đẩy hiện 
đại hóa nông nghiệp và giúp cho việc sử dụng 
đất nông nghiệp hiệu quả hơn. Đó là bỏ hoang 
những khu vực nương rẫy cằn cỗi để phục hồi 
thành rừng và đầu tư nhiều hơn cho ruộng bậc 
thang để thu được năng suất lương thực cao 
hơn. 
Lời cảm ơn 
Bài báo được hoàn thành trong khuôn khổ 
đề tài Nghị định thư Việt – Bỉ: “Nghiên cứu tác 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 13 
động của hoạt động kinh tế - xã hội tới biến 
động sử dụng đất và môi trường tự nhiên trong 
khung cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu (Nghiên 
cứu trường hợp tại Đồng bằng sông Hồng và 
vùng núi Tây Bắc Việt Nam)” và đề tài 
NAFOSTED“Nghiên cứu biến đổi môi trường 
khu vực Tây Bắc dưới ảnh hưởng của biến đổi 
khí hậu bằng công nghệ viễn thám và GIS”, mã 
số 105.06-2012.20. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Tugault-Lafleur C. Diversifying Livelihoods: 
Hmong use and Trade of Forest Products in 
Northern Vietnam. PhD Thesis. Montreal, 
Canada: McGill University, 2007. 
[2] Meyfroidt P. Forest Transition in Vietnam : 
Evidence, Theory and Social-Ecological 
Feedbacks. PhD thesis. Université Catholique de 
Louvain, Belgium, 2009. 
[3] Meyfroidt P and Lambin EF. Forest transition in 
Vietnam and its environmental impacts. Global 
Change Biology 14(6):1319–1336, 2008b. 
[4] Meyfroidt P, Lambin EF.. The causes of the 
reforestation in Vietnam. Land Use Policy 
25(2):182-197, 2008a. 
[5] Niên giám thống kê huyện Sa Pa năm 2010 
[6] Stubblefield, L., Rendel, P. & Preddy, H. (eds), A 
Survey of Ethnic Groups within Nui Hoang Lien 
Nature Reserve, Sa Pa District. Frontier Vietnam: 
pp 1, 1994. 
[7] Grindley, M. (ed.). Constraints and Opportunities 
for a Nature Trail and Visitor Centre within the 
Hoang Lien Mountains Nature Reserve, Sa Pa 
District A Fesibility Study. Frontier Vietnam, 
1998 
[8] Tordoff, A., Swan, S., Grindley, M. & Siurua, H. 
(eds), Hoang Lien Nature Reserve Conservation 
Evaluation 1997/98. Frontier Vietnam: pp viii, 86, 
1999. 
[9] Turner S. Making a Living the Hmong Way: An 
Actor-Oriented Livelihoods Approach to 
Everyday Politics and Resistance in Upland 
Vietnam. Annals of the Association of American 
Geographers 102(2):403-422, 2011. 
[10] Nguyễn An Thịnh, Phân tích cấu trúc sinh thái 
cảnh quan phục vụ phát triển bền vững nông lâm 
nghiệp và du lịch huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Luận 
án tiến sĩ Địa lý, Hà Nội, 2007. 
[11] Richter, R. Atmospheric/Topographic Correction 
for Satellite Imagery—ATCOR-2/3 User Guide, 
Version 8.0. Switzerland: ReSe Applications 
Schla ¨pfer, 2011. 
[12] Vũ Kim Chi, Nguyễn Thị Thu Trang, Hoàng Thị 
Thu Hương, Áp dụng mô hình phân tích hồi quy 
logic đa bậc trong phân tích không gian về sự suy 
giảm tài nguyên rừng huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. 
Hội nghị Địa lý toàn quốc năm 2012, 2012. 
[13] Vu Kim Chi. Land use change in the Suoi Muoi 
catchment. PhD thesis. KULeuven, Belgium, 
2007. 
[14] Bryant and Yarnold (1995). Principal components 
analysis and exploratory and confirmatory factor 
analysis. In Grimm and Yarnold, Reading and 
understanding multivariate analysis. American 
Psychological Association Books. 
[15] Castella, J. C, Pham Hung Manh, Suan Pheng 
Kamb, Lorena Villanob, Nathalie Rachel 
Tronchea, Analysis of village accessibility and its 
impact on land use dynamics in a mountainous 
province of northern Vietnam. Applied 
Geography 25 (2005): pp 308–326, 2005. 
[16] Dương Bích Hạnh. Sự thay đổi các mối quan hệ 
lao động ở một bản H’mong tại Sa Pa, Tây Bắc 
Việt Nam. Trong “Thomas Sikor, Jenny 
Sowerwine, Jeff Romm, Nghiêm Phương Tuyến. 
Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao 
Việt Nam. Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và 
Môi Trường, Trang 85-97, 2008. 
[17] Cooper, Robert, Resource Scarcity and the 
H’mong Response: Patterns of Settlement and 
Economy in Transition. National University of 
Singapore Press, Singapore.4. David S.Moore, 
George P.McCabe, 2001. Introduction to the 
practice of statistics, third edition. pp 730, 1984. 
[18] Symonds, Patricia V., Calling in the Soul: Gender 
and the Cycle of Life in a H’mong Village 
University of Washington Press, Seatle and 
London, 2004. 
[19] Castella J.C, Nathalie Rachel Tronche, Vũ 
Nguyên, Biến động cảnh quan tại huyện Chợ Đồn 
trong thời kỳ đổi mới (1990-2000) và hệ quả của 
chúng tới việc quản lý bền vững tài nguyên thiên 
nhiên tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam 
trong: (J.C. Castella và Đặng Đình Quang chủ 
biên) Đổi mới ở vùng miền núi. Chuyển đổi sử 
dụng đất và chiến lược sản xuất của nông dân tỉnh 
Bắc Kạn, Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 
Việt Nam. 149-173), 2002. 
H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 
14 
The Impact of Tourism Development on Land Cover Change 
in Mountainous Area: A Case Study in Sa Pa District, Lào Cai 
Province, Vietnam in Period 1993-2006 
Hoàng Thị Thu Hương1,2,3, Vũ Kim Chi4, Anton Van Rompeay2, 
Veerle Vanacker3, Isaline Jadin3 
1Faculty of Geography, VNU University of Science, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam 
2Division of Geography, Department of Earth and Environmental Sciences, K.U. Leuven 
3Earth and Life Institute, Georges Lemaître Center for Earth and Climate Research, 
Université Catholique de Louvain 
4 VNU Institute of Vietnamese Studies and Development Sciences, 
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Northern mountainous region of Vietnam has been known as tourism attraction area. 
Since 1990s, Vietnam has become increasingly more open to international tourism, and the domestic 
tourism market has also expanded. This research was carried out in Sa Pa District, a famous tourism 
area in Lào Cai province in order to test if tourism development is a driver of land cover change. The 
statistical analyses were applied at district and village level to find out the relationship between 
tourism development and land cover change. The results have confirmed that tourism positively relates 
to reforestation as well as agricultural abandonment and negatively to forest degradation in the study 
area. Interview also was applied to get an insight understanding of the mechanism by which tourism 
impacts on land cover changes. The development of tourism has created more jobs, increased incomes 
for local people, supported agricultural intensification that lead to land abandonment in the marginal 
area. 
Keywords: Tourism, land use/cover change, statistical analysis, livelihood, Sa Pa. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
1_1_6988.pdf