KẾT LUẬN
Tóm lại, gần 2/3 người cai nghiện ở Trung
tâm Nhị Xuân đều có những vấn đề khó chịu về
răng miệng cần được giải quyết. Những vấn đề
đó đã gây ảnh hưởng không ít cho họ trong các
sinh hoạt hàng ngày. Điều này cho thấy Trung
tâm đang rất cần những chương trình khám
chữa bệnh răng miệng thường xuyên hơn, đầy
đủ và thực tế hơn. Nhưng cũng cần hơn những
chương trình giáo dục phòng bệnh để giúp cho
người cai nghiện biết cách tự giữ gìn sức khỏe
răng miệng một cách thiết thực bằng việc giáo
dục vệ sinh răng miệng thường xuyên, người cai
nghiện tự đánh răng và hợp tác với bộ phận y tế
ở trung tâm để được chăm sóc sức khỏe răng
miệng. Tự chăm sóc và được chăm sóc sức khỏe
răng miệng thường xuyên sẽ giảm đi các khó
chịu ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của
mỗi bệnh nhân ở Trung tâm Giáo dục và Dạy
nghề Nhị Xuân.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của răng miệng lên các sinh hoạt hằng ngày của người cai nghiện ma túy tại trung tâm giáo dục - dạy nghề nhị xuân thành phần Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 232
ẢNH HƯỞNG CỦA RĂNG MIỆNG LÊN CÁC SINH HOẠT HẰNG NGÀY
CỦA NGƯỜI CAI NGHIỆN MA TÚY
TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC-DẠY NGHỀ NHỊ XUÂN TPHCM
Điền Hòa Anh Vũ*, Hoàng Trọng Hùng*, Trần Đức Thành*
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tác động của các vấn đề răng miệng lên các sinh hoạt hàng ngày
của người cai nghiện ma túy tại Trung tâm Giáo Dục - Dạy Nghề Nhị Xuân thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 378 người cai nghiện tại
Trung tâm Giáo Dục - Dạy Nghề Nhị Xuân TPHCM. Người cai nghiện được phỏng vấn trực tiếp về ảnh
hưởng của các vấn đề răng miệng lên các sinh hoạt hàng ngày (ăn nhai, phát âm, vệ sinh răng miệng, nghỉ ngơi,
sự thoải mái về tinh thần, cười mà không thấy ngại ngùng, học nghề và làm việc hàng ngày, tiếp xúc với mọi
người) theo hai bước như sau: bước một hỏi về những vấn đề khó chịu hay đau ở vùng răng miệng trong ba
tháng qua, bước hai hỏi về mức độ trầm trọng, tần suất và nguyên nhân răng miệng nào gây ảnh hưởng theo
hướng dẫn sử dụng chỉ số OIDP, bởi năm phỏng vấn viên đã được huấn luyện. Các thống kê mô tả và kiểm định
2, phân tích ANOVA một yếu tố kết hợp với phương pháp Tukey được sử dụng trong nghiên cứu này.
Kết quả: 63% người cai nghiện ma túy tại Trung tâm Nhị Xuân có ít nhất một khó chịu về răng miệng ảnh
hưởng đến sinh hoạt hàng ngày. Vấn đề răng miệng thường gặp nhất ở người cai nghiện ma túy là đau răng
(41,8%), tiếp theo là có lỗ sâu trên răng (39,7%) và ê buốt răng (24,1%). Ăn nhai và vệ sinh răng miệng là hai
sinh hoạt bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nguyên nhân chính gây ảnh hưởng lên các sinh hoạt hàng ngày là đau răng,
có lỗ sâu trên răng và ê buốt răng. Không có sự khác biệt về ảnh hưởng của răng miệng lên các sinh hoạt hàng
ngày của người cai nghiện ma túy có tuổi đời và trình độ học vấn khác nhau.
Kết luận: Rõ ràng, có sự tác động đáng kể từ răng miệng lên chất lượng cuộc sống cụ thể ở đây là sinh hoạt
hàng ngày của những người cai nghiện thuộc Trung tâm Nhị Xuân TPHCM.
Từ khóa: Trung Tâm Nhị Xuân, sức khỏe răng miệng, sinh hoạt hàng ngày, chất lượng cuộc sống, người
cai nghiện.
ABSTRACT
ORAL IMPACTS ON DAILY PERFORMANCES IN DRUG USERS AT THE CENTER OF
REHABILITATION OF NHIXUAN, HOCHIMINH CITY, VIETNAM
Dien Hoa Anh Vu, Hoang Trong Hung, Tran Duc Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 232 - 240
Objective: The objective of this study was to use an OHRQoL measure, OIDP, to assess the prevalence,
characteristics and severity of oral impacts in drug users at the Center of Rehabilitation of Nhi Xuan, Ho Chi
Minh city, Vietnam.
Materials and method: A cross-sectional survey was conducted at the Center of Rehabilitation of Nhi
Xuan, Ho Chi Minh city, Vietnam. The sample consisted of 378 drug users aged at least 19 years at the Nhi
Xuan School in year 2007. Data were collected through a face to face interview for oral impacts using OIDP
indicator, by 05 trained interviewers. The drug users were interviewed individually to assess oral impacts on
*: Khoa RHM, Đại học Y Dược TPHCM
Liên lạc tác giả: Điền Hòa Anh Vũ, ĐT: 0909841012, Email: dhavu18@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 233
daily life relation to 8 daily performances. The 8 performances were: eating, speaking, brushing, relaxing
including sleeping, smiling, maintaining emotional state, working and contact with other people. If the drug
users reported an impact on any performances, the frequency of impact and the severity of its effect on their daily
life were scored. The drug users were also asked to identify oral problems that in their opinion caused the impact.
Some descriptive and analytic statistics were applied in the study.
Results: 63% of drug users had at least one oral problem during three months preceding the survey and
53.7% of those had one or more oral impacts. 15.6% of the drug users with impact had impacts at very severe and
severe level of intensity. 24.3% of those with impacts had at least 3 daily performances affected (out of 8
performances). Eating was the most common performance affected (47.1%), then brushing (24.3%) and sleeping
(22%). The main clinical causes of impacts were toothache (35.2%), the presence of cavities (23.8%) and tooth
sensitivity (14.1%).
Conclusion: The study showed that oral health affected the quality of life of drug users, especially in daily
performances which are related to nutrition and oral hygiene.
Key words: Nhi Xuân, oral health, daily performances, quality of life, drug user.
MỞ ĐẦU
Con người biết đến bệnh tật hàng ngàn năm
nay nhưng sức khỏe là gì thì nhiều người vẫn
chưa biết. Mãi cho đến tận năm 1946, lần đầu
tiên Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) mới định
nghĩa sức khỏe là sự thoải mái hoàn toàn về thể
chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là
không có bệnh hay tật(10). Nhiều người có tật
nguyền nhưng lại sống rất hạnh phúc trong khi
có những người khỏe mạnh lại trở thành tác
nhân gây bất ổn cho xã hội.
Gần đây WHO mới đưa ra khái niệm chất
lượng cuộc sống gồm 100 câu hỏi trắc nghiệm để
đo mức độ sảng khoái trên sáu đề mục : về thể
chất, ăn uống, ngủ nghỉ, cả việc lệ thuộc chuyện
đi lại, thuốc men; về tinh thần thì gồm cả yếu tố
tâm lý và yếu tố tâm linh (tín ngưỡng, tôn giáo),
về xã hội gồm các mối quan hệ xã hội kể cả tình
dục và môi trường sống (bao gồm cả môi trường
xã hội: an toàn, an ninh, kinh tế, văn hóa và môi
trường thiên nhiên). Chất lượng cuộc sống được
định nghĩa như một cảm nhận có tính cách chủ
quan của cá nhân đặt trong bối cảnh môi trường
xã hội và thiên nhiên.
Chất lượng cuộc sống của một cộng đồng là
một mặt quan trọng trong kinh tế học và khoa
học chính trị. Có nhiều thành phần của chất
lượng cuộc sống, trong đó, một phần là mức
sống, đo bằng lượng tiền và khả năng tiếp cận
hàng hoá và dịch vụ mà một người có, những
con số này được đo một cách khá dễ dàng, trong
khi các yếu tố khác như tự do, hạnh phúc, nghệ
thuật, sức khỏe môi trường và sự đổi mới khó
định luợng hơn. Trong các yếu tố đó, sức khỏe
răng miệng là một thành phần không thể thiếu
của chất lượng cuộc sống. Từ đó thuật ngữ “chất
lượng cuộc sống liên quan sức khỏe răng miệng”
(OHRQOL) đã được nhiều người nhắc đến
nhưng đến nay vẫn chưa có một định nghĩa rõ
ràng nào.
OHRQOL có thể tạo ra một sự đóng góp
hữu ích đối với thực hành lâm sàng nha khoa,
nghiên cứu nha khoa và giáo dục nha khoa(1,3,5).
Những quan tâm về chất lượng cuộc sống
đã góp phần vào sự phát triển của nha khoa hơn
bất cứ yếu tố nào khác. Ban đầu, bệnh nhân tìm
đến Nha Sĩ vì những mối quan tâm về chất
lượng cuộc sống, như là tình trạng đau và cảm
giác không thoải mái. Thậm chí ngày nay, một tỉ
lệ lớn bệnh nhân ở Mỹ, đặc biệt là những người
đến từ các nước có nền kinh tế xã hội thấp hơn,
chỉ đến với nha sĩ trong những tình huống khẩn
cấp. Tuy nhiên, những tài liệu trước đây cho
thấy những khía cạnh khác của chất lượng cuộc
sống, như chức năng và thẩm mỹ cũng đóng
một vai trò quan trọng trong nhu cầu chăm sóc
răng miệng của bệnh nhân ngay từ đầu.
Vai trò của OHRQOL trong nghiên cứu Nha
Khoa cũng quan trọng không kém, thể hiện trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 234
3 hình thức : nghiên cứu khoa học cơ bản,
nghiên cứu lâm sàng, và nghiên cứu định hướng
cộng đồng. Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực
Nha Khoa cộng đồng và khoa học hành vi có thể
hỗ trợ bằng cách phát triển những công cụ đo
lường chất lượng cuộc sống và phác thảo vai trò
của chất lượng cuộc sống trong chăm sóc sức
khỏe răng miệng.
Tuy nhiên, việc áp dụng thang đo lường
OHRQOL trong các nghiên cứu khoa học cơ
bản, nghiên cứu lâm sàng, và nghiên cứu định
hướng cộng đồng trong Nha Khoa vẫn còn khá
mới mẻ ở Việt Nam cũng như một số nước trên
thế giới. Nghiên cứu này sẽ đánh giá tác động
của tình trạng răng miệng lên chất lượng cuộc
sống của người cai nghiện ma túy tại Trung tâm
Giáo Dục - Dạy Nghề Nhị Xuân TPHCM thông
qua chỉ số OIDP, với các mục tiêu sau:
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá ảnh hưởng của sức khỏe răng
miệng lên các sinh hoạt hàng ngày của người cai
nghiện ma túy tại Trung tâm Giáo Dục - Dạy
Nghề Nhị Xuân TPHCM hiện nay.
Mục tiêu cụ thể
1. Phát hiện những vấn đề răng miệng gây
khó chịu cho người cai nghiện ma túy tại Trung
tâm Giáo Dục - Dạy Nghề Nhị Xuân TPHCM
trong ba tháng gần đây.
2. Mô tả tần suất, mức độ trầm trọng và
phạm vi tác động của các vấn đề răng miệng lên
các sinh hoạt hàng ngày của người cai nghiện
ma túy tại Trung tâm Giáo Dục - Dạy Nghề Nhị
Xuân TPHCM hiện nay.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả có sử dụng bảng câu hỏi.
Địa điểm nghiên cứu
Trung tâm giáo dục - dạy nghề nhị xuân Tp.
HCM.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Người cai nghiện ma túy tại các Trung tâm
Giáo Dục - Dạy Nghề của TPHCM.
Dân số chọn mẫu: Người cai nghiện ma túy
tại Trung Tâm Giáo Dục - Dạy Nghề Nhị Xuân
TPHCM.
Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
Cỡ mẫu
378 người cai nghiện ma túy tại Trung tâm
Giáo Dục – Dạy Nghề Nhị Xuân TPHCM (dựa
trên mẫu sẵn có của dự án “Mô hình tăng cường
sức khỏe răng miệng cho người cai nghiện ma
túy tại Trung tâm Giáo dục – Dạy nghề Nhị
Xuân TPHCM”).
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu ngẫu nhiên theo cụm.
Chọn ngẫu nhiên người cai nghiện ở từng
tổ/đội của Trung tâm Nhị Xuân dựa trên sự
phân bố số người cai nghiện giữa các tổ/đội, cỡ
mẫu ở mỗi cụm (tổ/đội).
Tiêu chí chọn mẫu
Người cai nghiện vừa mới về trại.
Người cai nghiện chưa từng tham gia bất kỳ
hoạt động tăng cường sức khỏe răng miệng nào
của Trung tâm Nhị Xuân TPHCM.
Người cai nghiện không bị kỷ luật.
Người cai nghiện đồng ý tham gia.
Kiểm soát sai lệch chọn lựa
- Kiểm tra danh sách người cai nghiện dựa
theo danh sách của Ban Quản Huấn của Trung
tâm Giáo Dục - Dạy Nghề Nhị Xuân TPHCM.
- Hỏi trực tiếp người cai nghiện về thời gian
được đưa về Trung tâm Giáo Dục - Dạy Nghề
Nhị Xuân TPHCM.
Phương tiện nghiên cứu
Bảng phỏng vấn tác động của các vấn đề
răng miệng lên các sinh hoạt hàng ngày của
người cai nghiện ma túy tại Trung tâm Giáo Dục
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 235
- Dạy Nghề Nhị Xuân TPHCM hiện nay theo
bảng câu hỏi gốc OIDP.
Thu thập dữ kiện
Các đặc điểm nghiên cứu
- Tần suất tác động (x): x = 0 nếu không có, x
= 1 nếu tác động 1-2 lần/tháng, x= 2 nếu tác động
1-2 lần/tuần, và x = 3 nếu tác động lớn hơn hay
bằng 3 lần/tuần.
- Mức độ trầm trọng của tác động (y): không
có: y= 0; nhẹ: y= 1; trung bình: y= 2; nặng: y= 3.
- Phạm vi tác động (z): là số hoạt động có
ảnh hưởng lên chất lượng cuộc sống, thay đổi từ
1 đến 8.
- Điểm số tác động được tính bằng cách
nhân (x) với (y) theo phân loại của Slade G.D,
1997(2) như sau:
Bảng 1: Bảng phân loại mức độ tác động của Slade
G.D, 1997
Phân loại
mức độ
tác động
Mức độ trầm
trọng
Tần suất Điểm số
tác động
(x) x (y)Phân loại Điểm
số (x)
Phân loại Điểm
số (y)
Rất nặng Nặng 3 Nặng 3 9
Nặng Nặng
Trung
bình
3
2
Trung
bình
Nặng
2
3
6
6
Trung bình Trung
bình
Nặng
Nhẹ
2
3
1
Trung
bình
Nhẹ
Nặng
2
1
3
4
3
3
Nhẹ
Trung
bình
Nhẹ
2
1
Nhẹ
Trung
bình
1
2
2
2
Rất nhẹ Nhẹ 1 Nhẹ 1 1
Không ảnh
hưởng
Không 0 Không 0 0
Phương pháp thu thập dữ kiện
Sử dụng bảng câu hỏi và phỏng vấn theo chỉ
số OIDP theo 2 bước.
Bước 1: Hỏi về những vấn đề khó chịu hay
đau ở vùng răng miệng trong ba tháng qua của
người cai nghiện. Nếu người cai nghiện trả lời
không thì ghi nhận điểm số 0. Nếu người cai
nghiện trả lời có thì hỏi bước 2.
Bước 2: Hỏi về những tác động của các vấn
đề đó lên các sinh hoạt hàng ngày của người cai
nghiện gồm: ăn nhai, phát âm, vệ sinh răng
miệng, nghỉ ngơi, sự thoải mái về tinh thần, cười
mà không thấy ngại ngùng, học nghề và làm
việc hàng ngày, tiếp xúc với mọi người. Ở mỗi
hoạt động, ghi nhận điểm số từ 1 đến 3 tùy theo
mức độ tác động.
Kiểm soát sai lệch thông tin
Dịch và thử nghiệm bảng câu hỏi.
Tham vấn ý kiến nhà chuyên môn và
chỉnh sửa.
Tập huấn nhóm phỏng vấn viên.
Xử lý và phân tích dữ liệu
Các phiếu trả lời sẽ được kiểm tra ngay
trong ngày, điều chỉnh các sai sót (nếu có).
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 16 để
nhập và phân tích dữ kiện.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
378 người cai nghiện ma túy tại Trung tâm
Nhị Xuân đã tham gia vào nghiên cứu này, đây
là những người cai nghiện vừa mới chuyển về
trung tâm vào cuối năm 2007 từ các trường trại
cai nghiện khác, chưa được tham gia bất cứ hoạt
động tăng cường sức khỏe răng miệng nào của
Nhị Xuân. Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy
khoảng hai phần ba người cai nghiện trong mẫu
nghiên cứu (71,4%) dưới 30 tuổi và gần như
100% người cai nghiện có trình độ học vấn dưới
cấp III, trong đó có 67% người cai nghiện dưới
cấp II. Rõ ràng, người cai nghiện trong mẫu
nghiên cứu đa số là người trẻ và có trình độ học
vấn thấp. Đặc điểm này phù hợp với đặc điểm
mẫu nghiên cứu trên cùng đối tượng của Phạm
Thị Hương, 2005(7) và Nguyễn Đức Minh, 2007(5),
cũng phù hợp với đặc điểm xã hội của các đối
tượng nghiện chích ma túy tại Việt Nam (đối
tượng trẻ và ít học thường chưa có ý thức về tác
hại nguy hiểm của ma túy và tính nông nổi,
bồng bột của tuổi trẻ đã khiến họ dễ sa vào con
đường nghiện ngập hơn).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 236
Bảng 2: Phân bố người cai nghiện theo nhóm tuổi và
trình độ học vấn
Trình độ họcvấn
Nhóm tuổi
≤ cấp I n
(%)
cấp II – cấp
III n (%) Tổng n (%)
≤ 24 28 98 126 (33,3)
25 – 29 29 115 144 (38,1)
≥ 30 28 80 108 (28,6)
Tổng 85 (22,5) 293 (77,5) 378 (100,0)
Sức khỏe răng miệng của người cai nghiện
ma tuý tại trung tâm Nhị Xuân dựa trên
thang đo lường OIDP
Bảng 3 cho thấy 41,8% người cai nghiện bị
đau răng và nhức răng, 39,7% người cai nghiện
có lỗ sâu trên răng, 24,1% người cai nghiện bị ê
buốt răng. Điều đó chứng tỏ khó chịu ở “răng”
đang là vấn đề răng miệng lớn của người cai
nghiện ma túy tại TT Nhị Xuân. Mặc dù nghiên
cứu không đo lường bệnh sâu răng nhưng rõ
ràng kết quả này cũng đã phản ánh được gần
50% người cai nghiện của Nhị Xuân đang có sâu
răng ở giai đoạn nặng (có bệnh lý tủy), và gần
40% trong số họ có lỗ sâu lớn cần phải được
trám ngay. So sánh với những kết quả điều tra
sức khỏe răng miệng trên cùng đối tượng trong
năm 2006-2007 cho thấy 94,1% người cai nghiện
có sâu răng, trung bình mỗi người cai nghiện có
7,1 răng SMT-R(3). Dựa vào những thông số
thống kê này, kết hợp với kết quả ghi nhận được
từ nghiên cứu đã cho thấy gần 50% người cai
nghiện tại TT Nhị Xuân bị sâu răng trầm trọng,
cần được điều trị ngay. Đứng về khía cạnh
chuyên môn, tỷ lệ phần trăm cao trong dân số có
bệnh sâu răng trầm trọng đồng nghĩa với việc
đòi hỏi một nguồn nhân lực chuyên môn đáng
kể để có thể đáp ứng được nhu cầu điều trị cấp
bách này, xa hơn nữa là tổn phí điều trị mà cá
nhân, gia đình và xã hội phải chi trả cho công
việc điều trị này là rất lớn. Trên thực tế, những
khó chịu nhận được từ hậu quả của bệnh sâu
răng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc
sống của mỗi cá nhân và cộng đồng(5,6).
Bảng 3: Phân bố tỉ lệ % người cai nghiện có những
khó chịu về răng miệng trong 3 tháng gần đây
Loại khó chịu n %
Đau răng, nhức răng 158 41,8
Ê buốt răng 91 24,1
Sâu răng, có lỗ trên răng 150 39,7
Nấm trong miệng 8 2,1
Trống răng 44 11,6
Răng vĩnh viễn bị gãy 36 9,5
Màu răng 23 6,1
Hình dạng hay kích thước răng 2 0,5
Vị trí của răng 5 1,3
Chảy máu nướu 58 15,3
Sưng nướu 71 18,8
Vôi răng 20 5,3
Loét hay trầy xước trong miệng 22 5,8
Hôi miệng hay hơi thở hôi 44 11,6
Bợn trắng ở niêm mạc miệng 13 3,4
Răng vĩnh viễn đang mọc 2 0,5
Thiếu răng vĩnh viễn 2 0,5
Những khó chịu khác 12 3,2
So với nghiên cứu của Andreá Silveira
Gomes và Claides Abegg(2) ở Porto Alegre, Brazil
thì chỉ có 20,7% người bị đau răng. Sở dĩ có sự
khác biệt như vậy là vì đặc điểm mẫu nghiên
cứu trên hai cộng đồng khác nhau cả về con
người lẫn điều kiện kinh tế, xã hội. Hay tại Việt
Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Khanh
(2005)(6) trên học sinh 10 – 11 tuổi ở hai trường
tiểu học của quận 5 thì tỉ lệ phần trăm học sinh
bị đau răng trong nghiên cứu này là 15,6%, ê
buốt răng là 22,7% và có lỗ sâu trên răng là
12,3% (trường Huỳnh Kiến Hoa có 37% học sinh
bị sâu răng, SMT-R = 0,72). Dễ thấy rằng tỷ lệ
phần trăm về đau răng, ê buốt răng và sâu răng
của người cai nghiện tại Trung tâm Nhị Xuân
cao hơn hẳn học sinh 10 – 11 tuổi tại quận 5
trước đây. Điều này có thể được giải thích là vì
học sinh quận 5 cùng lúc được hưởng hai
chương trình dự phòng và chăm sóc răng miệng
lớn của TPHCM (chương trình Nha học đường
và chương trình Flour hóa nước máy), các
chương trình này đã góp phần làm giảm đáng
kể tỉ lệ và mức độ trầm trọng sâu răng cho học
sinh của quận. Trong khi người cai nghiện Nhị
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 237
Xuân là những học viên vừa mới chuyển từ
những trại khác về hoặc vừa mới vào trại sau
cai nên chưa thực sự được hưởng bất kỳ
chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng
hiện có tại Nhị Xuân. Ngoài ra, tâm sinh lý của
cộng đồng người cai nghiện gần như khác biệt
so với những cộng đồng khác như chán nản,
thái độ không hợp tác, không tiếp thu những
kiến thức mới, mệt mỏi về tinh thần và thể xác
dẫn đến dễ chểnh mảng, lơ là trong việc tự giữ
gìn vệ sinh thân thể nói chung và vệ sinh răng
miệng nói riêng.
Bên cạnh những khó chịu thông thường nêu
trên, sưng nướu và chảy máu nướu cũng chiếm
một tỷ lệ đáng chú ý (sưng nướu 18,8% và chảy
máu nướu 15,3%). Đây là những khó chịu thực
sự có nguồn gốc từ bệnh nha chu. So sánh với
kết quả điều tra sức khỏe răng miệng trên người
cai nghiện ma tuý ở cùng Trung tâm trong năm
2006-2007(3) cho thấy 94% người cai nghiện Nhị
Xuân bị bệnh lý nha chu có chảy máu nướu. So
sánh giữa số thống kê lâm sàng trước đây và
khó chịu thực sự do bệnh lý nha chu mà người
cai nghiện cảm nhận được trong nghiên cứu
này, có thể nói có đến 15,3% người cai nghiện có
vấn đề thực sự do bệnh nha chu gây ra.
Một cách tổng quát, 63% người cai nghiện tại
Nhị Xuân trong mẫu nghiên cứu có vấn đề thực
sự về răng miệng trong vòng ba tháng trước
nghiên cứu (bảng 3 và 4). Rõ ràng, những vấn đề
răng miệng này không chỉ dừng lại ở mức được
phát hiện bởi nhà lâm sàng mà đã thực sự gây
khó chịu cho bản thân người cai nghiện. So với
các nghiên cứu khác trên thế giới, kết quả này
cao hơn kết quả nghiên cứu của Sánchez-Garciá
S và cs(8) là 21,5% số cá thể trong cộng đồng
người dân thành phố Mexico bị ảnh hưởng bởi
răng miệng lên đời sống hàng ngày. Nhưng lại
thấp hơn 73,6% đối tượng trong nghiên cứu của
Andreá Silveira Gomes và Claides Abegg(2) ở
Porto Alegre, Brazil bị ảnh hưởng bởi sức khỏe
răng miệng lên ít nhất một hoạt động trong
ngày. Điều này được giải thích là do đặc điểm
mẫu nghiên cứu của các nhóm nghiên cứu, cũng
như tình trạng kinh tế - xã hội của các nước là
khác nhau, đặc biệt nghiên cứu này thực hiện
trên cộng đồng người cai nghiện ma túy, là một
cộng đồng đặc biệt hơn các cộng đồng khác.
Tóm lại, sức khỏe răng miệng hiện tại của
người cai nghiện tại trung tâm Nhị Xuân là
tương đối kém, gần hai phần ba mẫu nghiên
cứu có vấn đề khó chịu về răng miệng trong ba
tháng gần đây, trong đó sâu răng và đau răng
vẫn là những vấn đề trầm trọng nhất. Thang đo
lường OIDP đã phản ánh một cách rõ ràng về
tình trạng sức khỏe răng miệng của người cai
nghiện nơi đây. Trong bối cảnh tình trạng sức
khỏe toàn thân nói chung và sức khỏe răng
miệng nói riêng rất kém, đây chính là gánh nặng
không chỉ của riêng người cai nghiên ma túy mà
còn là mối quan tâm lớn cho xã hội, cho ngành Y
tế và đặc biệt là ngành Răng Hàm Mặt TPHCM.
Ảnh hưởng của răng miệng lên các SH
hàng ngày của người cai nghiện ma túy
Kết quả ở bảng 4 cho thấy ăn nhai là hoạt
động bị ảnh hưởng nhiều nhất (47,1%) bởi các
vấn đề về răng miệng trong các sinh hoạt hàng
ngày. Tiếp theo là vệ sinh răng miệng (24,3%),
nghỉ ngơi (22,0%), sự thoải mái về tinh thần
(21,4%). Hoạt động học tập và làm việc chiếm
15,1 % ảnh hưởng nhiều hơn việc giao tiếp với
mọi người (10,8%). Cười và nói, phát âm là hai
hoạt động ít bị ảnh hưởng nhất (8,7% và 6,3%).
Bảng 4: Phân bố tỉ lệ % người cai nghiện ở những
nhóm tuổi khác nhau theo các ảnh hưởng của răng
miệng trên từng sinh hoạt hàng ngày
Các hoạt
động
≤ 24 tuổi 25 – 29
tuổi
≥ 30 tuổi
Tổng p*
n (%) n (%) n (%)
Ăn nhai 64 (50,8) 61 (42,4) 53 (49,1) 178 (47,1) 0,340
Phát âm 7 (5,6) 7 (4,9) 10 (9,3) 24 (6,3) 0,332
VSRM 34 (27,0) 34(23,6) 24 (22,2) 92 (24,3) 0,676
Nghỉ ngơi 27 (21,4) 29 (20,1) 27 (25,0) 83 (22,0) 0,643
Tinh thần 30 (23,8) 32 (22,2) 19 (17,6) 81 (21,4) 0,491
Cười 10 (7,9) 12 (8,3) 11 (10,2) 33 (8,7) 0,813
Làm việc 17 (13,5) 24 (16,7) 16 (14,8) 57 (15,1) 0,764
Giao tiếp 15 (11,9) 16 (11,1) 10 (9,3) 41 (10,8) 0,803
Đối với hoạt động ăn nhai, đây là hoạt động
bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các khó chịu đến
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 238
chủ yếu từ răng miệng. Kết quả này phù hợp với
những ghi nhận của Shepherd và cs (1999)(9) trên
664 học sinh 8 tuổi tại Harrow cho là 73,3% ảnh
hưởng chủ yếu lên ăn nhai là do đau răng. Ở
Brazil, Andreá Silveira Gomes và Claides
Abegg(2) cũng cho kết quả ăn nhai là hoạt động
bị ảnh hưởng nhiều nhất (48,6%) trên 276 người
từ 35-44 tuổi tham gia nghiên cứu. Tại Tanzania,
nghiên cứu của Kida và cs(4) cũng cho kết quả
tương tự trong đó 51,2% người ở thành thị và
62,1% người dân nông thôn bị ảnh hưởng lên
việc ăn nhai hàng ngày do đau răng. Ở Việt
Nam, Nguyễn Thị Ngọc Khanh(6) đã rút ra kết
luận rằng “ảnh hưởng của vấn đề răng miệng
lên việc ăn nhai của học sinh là một khía cạnh
đáng quan tâm nhất”. Một cá nhân nếu bị đau
răng sẽ bị khó khăn khi ăn nhai, dẫn đến những
hệ quả nghiêm trọng khác trong sinh hoạt cũng
như công việc của họ.
Vệ sinh răng miệng là hoạt động bị ảnh
hưởng nhiều sau ăn nhai. Kết quả phù hợp với
nghiên cứu ở Tanzania(8) với 18,2% đối tượng
tham gia nghiên cứu ở thành thị gặp khó khăn
trong việc vệ sinh răng miệng. Nghiên cứu của
Nguyễn Thị Ngọc Khanh (2005)(6) cũng cho kết
quả tương tự. Việc người cai nghiện thường
xuyên bị đau răng, sâu răng, chảy máu nướu
hay sưng nướu dẫn đến những khó khăn trong
việc vệ sinh răng miệng hàng ngày của họ.
Hơn nữa, 22% và 21,4% người cai nghiện bị
ảnh hưởng của răng miệng trên sự nghỉ ngơi và
sự thoải mái về tinh thần. Quay ngược trở lại với
các điều tra trước đây trên những người cai
nghiện Nhị Xuân, hơn 90% người cai nghiện có
vấn đề về sức khỏe răng miệng (sâu răng, nha
chu, )(3), thế nhưng kết hợp với kết quả ghi
nhận trong nghiên cứu này thì rõ ràng trong số
những người cai nghiện có vấn đề răng miệng
thì có đến 1/5 số người cai nghiện Nhị Xuân
đang bị ảnh hưởng răng miệng lên sự nghỉ ngơi
và thoải mái về tinh thần, ảnh hưởng đáng kể
đến chất lượng cuộc sống của họ. Trong phần
nguyên nhân sẽ bàn luận sâu hơn về các vấn đề
này. Song song đó, những khó chịu từ răng
miệng như đau răng, nhức răng, ê buốt răng,
hay hôi miệng, viêm nướu cũng làm cho người
cai nghiện bị hạn chế trong việc học tập và làm
việc, giao tiếp với mọi người chung quanh. Tâm
lý bực dọc, hay cáu bẩn thường xuất hiện ở
những nhóm người cai nghiện này. Họ thường
khó tập trung khi học và làm việc, vì bị chi phối
bởi những khó chịu răng miệng đó.
Tính phổ biến của mức độ trầm trọng bệnh
răng miệng có ảnh hưởng lên sinh hoạt hàng
ngày bất chấp những đặc điểm về tuổi tác và
trình độ học vấn. Điều này khá dễ hiểu là vì
những người cai nghiện này có một môi trường
sống như nhau, sinh hoạt giống nhau và trạng
thái tâm sinh lý cũng giống nhau. Kết quả ở
bảng 4 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa
thống kê về tỉ lệ phần trăm người cai nghiện bị
ảnh hưởng bởi răng miệng lên các sinh hoạt
hàng ngày giữa các nhóm tuổi khác nhau
(p>0,05), cũng như giữa các nhóm người cai
nghiện có trình độ học vấn khác nhau (p>0,05).
Bên cạnh việc đo lường ảnh hưởng răng
miệng lên 8 sinh hoạt hàng ngày của người cai
nghiện như đã đề cập ở trên, thang OIDP thể
hiện mức độ trầm trọng của các ảnh hưởng này
thông qua đo lường về phạm vi tác động và
cường độ tác động của các vấn đề răng miệng
lên những sinh hoạt hàng ngày của người cai
nghiện. Xét về phạm vi tác động, hiểu một cách
đơn giản đó là số sinh hoạt trong ngày bị ảnh
hưởng bởi các khó chịu từ răng miệng, thì số
người cai nghiện bị ảnh hưởng từ một đến hai
sinh hoạt chiếm 29,4% và có 24,3% người cai
nghiện bị ảnh hưởng đến ba sinh hoạt hàng
ngày trở lên (bảng 5), điều đó cho thấy cũng có
khá nhiều người cai nghiện bị các vấn đề răng
miệng ảnh hưởng lớn đến các sinh hoạt trong
cuộc sống, hay đúng hơn là chất lượng cuộc
sống của họ. Đánh giá được phạm vi tác động
này, mới có thể có một cái nhìn tổng quát về
mức độ ảnh hưởng của sức khỏe răng miệng lên
các sinh hoạt hàng ngày. Như vậy, các vấn đề
răng miệng này không chỉ ảnh hưởng đến một
sinh hoạt duy nhất mà còn ảnh hưởng đến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 239
nhiều sinh hoạt hàng ngày, chính những ảnh
hưởng đó làm giảm chất lượng cuộc sống của
người cai nghiện ma tuý nơi đây.
Bảng 5: Phân bố tỉ lệ % người cai nghiện theo tuổi
và theo số sinh hoạt bị ảnh hưởng
Nhóm tuổi
Số sinh hoạt bị ảnh hưởng
(phạm vi tác động)
0 1-2 sinh hoạt >=3 sinh hoạt
≤ 24 55 (43,7) 37 (29,4) 34 (27,0)
25 – 29 69 (47,9) 42 (29,2) 33 (22,9)
≥ 30 51 (47,2) 32 (29,6) 25 (23,1)
Tổng cộng 175 (46,3) 111 (29,4) 92 (24,3)
15,6% người cai nghiện ma túy ở trung tâm
Nhị Xuân bị ảnh hưởng bởi các vấn đề răng
miệng lên việc ăn nhai hàng ngày ở mức độ
nặng và rất nặng. Tiếp đến là vệ sinh răng miệng
(5,8%) và nghỉ ngơi (5,3%) cũng chịu ảnh hưởng
nhiều từ những khó chịu về răng miệng. Nói,
phát âm là hoạt động có cường độ ảnh hưởng ít
nhất chỉ là 1,1%. Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Khanh
(2005)(6) ghi nhận được về cường độ tác động
răng miệng lên sinh hoạt ăn nhai, vệ sinh răng
miệng và nghỉ ngơi.
Tóm lại, ảnh hưởng từ các khó chịu về răng
miệng lên hoạt động ăn nhai luôn chiếm tỉ lệ cao
nhất, đồng thời cường độ tác động ở mức độ
nặng và rất nặng nhiều hơn đáng kể so với các
hoạt động khác. Đồng thời, vẫn còn khá nhiều
người cai nghiện bị ảnh hưởng bởi những khó
chịu xuất phát từ răng miệng lên nhiều hơn hai
hoạt động sống hàng ngày. Rõ ràng, bức tranh
toàn cảnh về tình trạng sức khỏe răng miệng
trong mối liên quan đến chất luợng cuộc sống
của các người cai nghiện ở trung tâm Nhị Xuân
TPHCM tương đối phức tạp và cần có sự can
thiệp của xã hội nói chung và của ngành Răng
Hàm Mặt nói riêng.
Nguyên nhân răng miệng ảnh hưởng lên
từng sinh hoạt về thể chất, tâm lý, xã hội
của các người cai nghiện ma tuý tại Trung
tâm Nhị Xuân
Nghiên cứu này cho thấy người cai nghiện
thường than phiền về tình trạng đau răng đã
ảnh hưởng không ít đến mọi sinh hoạt trong
ngày của họ. Như biểu đồ 1 thể hiện, đau răng là
nguyên nhân chủ yếu gây ảnh hưởng lên tất cả
các sinh hoạt hàng ngày của các người cai
nghiện. Các nghiên cứu khác trên thế giới cũng
cho kết quả tương tự như nghiên cứu của
Andreá Silveira(2) có 20,7% người nghiên cứu bị
đau răng làm ảnh hưởng đến các sinh hoạt hàng
ngày, Kida ở Tanzania(4) cũng cho kết quả đau
răng và trống răng là hai nguyên nhân chủ yếu
mà các đối tượng nghiên cứu của họ mắc phải.
Bên cạnh nguyên nhân đau răng, ê buốt răng và
có lỗ sâu trên răng là hai nguyên nhân ảnh
hưởng khá phổ biến lên hầu hết các sinh hoạt
hàng ngày của người cai nghiện. Hơn nữa, các
vấn đề về mô nha chu (chảy máu nướu, sưng
nướu) cũng ảnh hường không nhỏ đến đời sống
hàng ngày của các cá thể trong nghiên cứu.
Ăn nhai là hoạt động nổi bật nhất bị ảnh
hưởng nhiều nhất bởi đau răng. Người cai
nghiện bị đau răng vì nhiều lý do, có thể họ đau
vì bị sâu răng, bị các bệnh lý về tủy, hay một
chấn thương nào đó vùng miệng mặt. Có những
trường hợp đau răng làm cho họ rất khó nghỉ
ngơi, khó ngủ, thậm chí không ngủ được. Hay
những trường hợp thường xuyên cảm thấy khó
chịu, bực dọc, hay cáu gắt với mọi người. Sâu
răng, có lỗ sâu trên răng và sưng nướu là hai
nguyên nhân gây ảnh hưởng lên việc ăn nhai
nhiều thứ hai sau đau răng. Khi người cai
nghiện chải răng với tình trạng viêm nướu thì sẽ
dễ gây chảy máu hơn khi chải răng ở tình trạng
nướu lành mạnh, điều này làm cho họ né tránh
việc chải răng thường xuyên và do đó vấn đề
của nướu lại ngày càng trầm trọng hơn. Điều
này tất yếu sẽ dấn đến việc ăn nhai vô cùng khó
khăn, họ sẽ khó chịu hay đau rát khi ăn.
Bên cạnh những nguyên nhân tác động về
mặt thể chất, thì về mặt tâm lý và xã hội,
những vấn đề về thẩm mỹ như màu răng xấu,
hình dạng răng và sự mất răng do sâu, do
chấn thương hay tình trạng hôi miệng cũng đã
góp phần vào làm ảnh hưởng đến sinh hoạt
hàng ngày của người cai nghiện tại Trung tâm.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 240
Mặc dù ở Trung tâm đa số là người cai nghiện
nam, và việc tiếp xúc với cộng đồng bên ngoài
là rất hạn chế nhưng vì là những người trẻ tuổi
nên họ cũng cảm thấy thiếu tự tin với những
khiếm khuyết răng miệng của mình trong lao
động và học tập, cũng như trong việc giao tiếp
với mọi người.
Nguyên nhân răng miệng ảnh hưởng lên từng sinh
hoạt thể chất, tâm lý, xã hội của người cai nghiện
13
49
11
65
73
53
13
133
7
10
21
20
26
9
53
8
22
8
35
35
31
8
90
15 20
6
12
5
9
15 9
10
20
19
12
16
14
58
Giao tiếp
Làm việc
Cười
Tinh thần
Nghỉ ngơi
VSRM
Nói, phát âm
Ăn nhai
Đau răng
Ê buốt răng
Sâu răng
Chảy máu nướu
Sưng nướu
Trống răng
Màu răng
Hôi miệng
Khác
Biểu đồ 1: Nguyên nhân răng miệng ảnh hưởng lên
từng sinh hoạt thể chất, tâm lý, xã hội của người cai
nghiện
KẾT LUẬN
Tóm lại, gần 2/3 người cai nghiện ở Trung
tâm Nhị Xuân đều có những vấn đề khó chịu về
răng miệng cần được giải quyết. Những vấn đề
đó đã gây ảnh hưởng không ít cho họ trong các
sinh hoạt hàng ngày. Điều này cho thấy Trung
tâm đang rất cần những chương trình khám
chữa bệnh răng miệng thường xuyên hơn, đầy
đủ và thực tế hơn. Nhưng cũng cần hơn những
chương trình giáo dục phòng bệnh để giúp cho
người cai nghiện biết cách tự giữ gìn sức khỏe
răng miệng một cách thiết thực bằng việc giáo
dục vệ sinh răng miệng thường xuyên, người cai
nghiện tự đánh răng và hợp tác với bộ phận y tế
ở trung tâm để được chăm sóc sức khỏe răng
miệng. Tự chăm sóc và được chăm sóc sức khỏe
răng miệng thường xuyên sẽ giảm đi các khó
chịu ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của
mỗi bệnh nhân ở Trung tâm Giáo dục và Dạy
nghề Nhị Xuân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cornell JE, Saunders MJ, Paunovich ED, Frisch MD,. (1997).
Effects on well-being and quality of life. In: Slade GD (ed).
Measuring Oral Health and Quality of Life. Chapel Hill:
University of North Carolina-Dental Ecology, 1997.
2. Gomes AS, Abegg C (2006). The impact of oral health on daily
performance of municipal waste disposal workers in Porto
Alegre, Rio Grande do Sul State, Brazil. Saúde Pública, Rio de
Janeiro, 23(4):1707-1714.
3. Hoàng Tử Hùng & cộng sự (2009), Báo cáo đề tài “Xây dựng
và thử nghiệm mô hình tăng cường sức khỏe răng miệng cho
học viên cai nghiện ma túy tại trung tâm giáo dục dạy nghề ở
TPHCM, 2006-2007.
4. Kida IA, Astrom AN, Strand GV, Masalu JR and Tsakos G,
(2005). Psychometric properties and the prevalence, intensity
and causes of oral impacts on daily performance (OIDP) in a
population of older Tanzanians.
5. Nguyễn Đức Minh, (2007). Hiệu quả giáo dục sức khỏe răng
miệng dựa vào cộng đồng cho người cai nghiện ma túy, Luận
văn Thạc sĩ Y học, 2007.
6. Nguyễn Thị Ngọc Khanh, (2005). Ảnh hưởng của tình trạng
răng miệng lên các hoạt động hàng ngày của học sinh lớp 5
tại hai trường tiểu học quận 5, TPHCM, Tiểu luận tốt nghiệp
Bác sĩ Răng Hàm Mặt, 2005.
7. Phạm Thị Hương và CTV, (2005). Khả năng tiếp cận dịch vụ
HIV của nhóm tiêm chích ma túy tại thành phố Hải Phòng,
Báo cáo khoa học tại Hội nghị khoa học quốc gia lần thứ III về
HIV/AIDS, tại TPHCM từ 24 – 26/12/2005.
8. Sánchez-Garciá S (2007). State of dentition and its impact on
the capacity of elders to perform daily activities. Salud
Publica Mex; 49:173-181.
9. Shepherd MA, Nadanovsky P, Sheiham A, (1999), The
prevalence and impact of dental pain in 8-year-old school
children in Harrow, Endland, Br Dent J, 187(2), 38 – 41.
10. World Health Organization (1948). Constitution of the World
Health Organization. Geneva: World Health Organization.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_rang_mieng_len_cac_sinh_hoat_hang_ngay_cua_ngu.pdf