Nghiên cứu này tổng hợp các kết quả nghiên cứu trên thế giới về ảnh hưởng của sáng
kiến xanh đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kiểm soát khí thải carbon là thách
thức lớn đối với các doanh nghiệp trên thế giới. Các doanh nghiệp phải đối mặt với áp lực từ
chính phủ đối với phát thải carbon, kiểm soát chi phí và hiệu quả hoạt động công ty. Thiện
chí và hình ảnh công ty cũng là một trong những sáng kiến xanh giúp doanh nghiệp tạo ra
lợi thế cạnh tranh. Kết quả nghiên cứu cho thấy quản trị chuỗi cung ứng xanh và cách thức
kinh doanh xanh hoặc nhãn sinh thái có mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động công ty
(Chan & cộng sự, 2012). Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quản trị chuỗi cung ứng xanh
và hiệu quả hoạt động của công ty có mối quan hệ cùng chiều với nhau (Hervani & cộng sự,
2005). Hiệu quả hoạt động của công ty phụ thuộc vào sự đổi mới và phương thức lãnh đạo
chuyển đổi (Samad, 2012). Nếu doanh nghiệp tập trung vào tăng cường sản phẩm xanh thì
cần hướng đến tính bền vững về tự nhiên và đổi mới sản phẩm, từ đó sẽ tăng cường hiệu quả
hoạt động (Lin & cộng sự, 2013). Các doanh nghiệp áp dụng sáng kiến xanh nhằm thực hiện
đổi mới và thiết kế sản phẩm xanh được ghi nhận đạt hiệu quả hoạt động tốt hơn (Camison &
Lopez, 2012). Bên cạnh đó, người tiêu dùng nhận thức nhất định về sản phẩm đạt tiêu chuẩn
xanh, thân thiện với môi trường (Rettie & cộng sự, 2012). Lựa chọn sở thích thương hiệu
xanh thường bị ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như tuổi, thu nhập, giới tính và giáo dục (Mourad
& Ahmed, 2012). Như vậy, có thể thấy, các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để
hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững góp phần xây dựng nền kinh tế xanh - nền kinh tế
phát triển bền vững, các doanh nghiệp nên nghiên cứu và áp dụng các sáng kiến xanh trong
hoạt động kinh doanh.
19 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh thái. Các sáng kiến này liên
quan đến quy trình thiết kế sản phẩm, mua sắm nguyên vật liệu và sản xuất sản phẩm, phân
phối sản phẩm ra thị trường và quy trình xử lý các vấn đề môi trường sau bán hàng. Cụ thể,
các sáng kiến xanh bao gồm các hoạt động cải tiến sản phẩm xanh, thiết kế sản phẩm xanh,
mua sắm và quản trị chuỗi cung ứng sản phẩm ra thị trường, logistic ngược, marketing xanh,
quảng cáo sản phẩm xanh và nhãn sinh thái.
2.2 Nội dung sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
2.2.1 Quản trị chuỗi cung ứng xanh
Quản trị chuỗi cung ứng xanh (Green Supply Chain Management - GSCM) được định nghĩa
là các hoạt động liên quan đến mua sắm xanh và tái cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp (Chan &
cộng sự, 2012). Nói cách khác, GSCM được hiểu là hoạt động quản trị của doanh nghiệp từ
khâu mua sắm vật liệu thô đến giao sản phẩm cuối cùng để đảm bảo môi trường không bị ảnh
hưởng. Ví dụ, lựa chọn vật liệu thân thiện với môi trường, đóng gói hàng hóa xanh, v.v Rao
(2002) chia hoạt động quản trị chuỗi cung ứng xanh thành hai phần: quản trị môi trường bên
trong và môi trường bên ngoài. Quản trị môi trường bên trong tập trung vào các hỗ trợ và cam
3Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
kết bên trong doanh nghiệp đối với hoạt động quản trị chuỗi cung ứng xanh nhằm tuân thủ các
quy định, hệ thống quản lý môi trường đang triển khai bên trong tổ chức (Zhu & Sarkis, 2004).
Quản trị môi trường bên ngoài liên quan tới xanh hóa các nhà cung cấp để họ cùng tham gia
với doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu về môi trường (Bowen & cộng sự, 2001; Rao,
2002; Hamner, 2006). Hoạt động này cũng bao gồm mua sắm xanh, hợp tác với khách hàng, đạt
được các yêu cầu về môi trường, tái cơ cấu đầu tư và ứng dụng các thiết kế sản phẩm thân thiện
với sinh thái (Rao & Holt, 2005) và cải tiến sản phẩm xanh (Chen & cộng sự, 2013).
2.2.2 Logistic ngược
Logistic ngược (Reverse logistics) là khâu cuối cùng trong vòng đời sản phẩm, bao gồm
các bước liên quan đến tái chế, tái sử dụng và duy trì sự bền vững của sản phẩm. Logistic
ngược chính là một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động quản trị chuỗi cung ứng
xanh và thực tiễn ứng dụng logistic ngược cho thấy hoạt động của doanh nghiệp thân thiện
với hệ sinh thái và hướng tới phát triển bền vững, từ đó, tạo sự tin tưởng và an tâm của người
tiêu dùng đối với doanh nghiệp (Hazen & cộng sự, 2012).
2.2.3 Marketing xanh
Marketing xanh (Green marketing) là hoạt động marketing của doanh nghiệp gắn liền với
những yêu cầu về đạo đức và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Dheeraj & Vishal, 2012).
Ko & cộng sự (2013) cho rằng marketing xanh liên quan đến các hoạt động xây dựng hình
ảnh doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực tổng thể của doanh nghiệp. Hình ảnh xanh của
doanh nghiệp được xây dựng bằng nhiều từ khóa khác nhau như thân thiện với hệ sinh thái,
tái chế được, sản phẩm xanh hay bao bì sản phẩm thân thiện với môi trường.
2.2.4 Quảng cáo xanh
Quảng cáo xanh (Green advertisement) là các chiến lược truyền thông xanh tập trung
quảng bá các đặc điểm của sản phẩm thân thiện với môi trường nhằm thu hút khách hàng
mua các các sản phẩm xanh hay các sản phẩm thân thiện với hệ sinh thái (Smith, 2012). Nhờ
bỏ quảng cáo xanh của các doanh nghiệp cho nên các sản phẩm xanh ngày càng thu hút các
khách hàng. Truyền thông bằng miệng là một trong những phương tiện truyền thông quan
trọng của quảng cáo xanh nhằm quảng bá sản phẩm xanh và thúc đẩy nhận thức của người
tiêu dùng (Chen & cộng sự, 2013).
2.2.5 Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái (Eco-labeling) là logo hay biểu tượng trên sản phẩm của doanh nghiệp,
thể hiện được mối quan tâm về môi trường của doanh nghiệp. Có thể nói, nhãn sinh thái là
một trong những phương tiện quan trọng của chiến lược marketing các sản phẩm xanh của
doanh nghiệp. Bản thân nhãn sinh thái hay còn gọi là nhãn môi trường là công cụ hữu ích để
các doanh nghiệp đưa ra thông điệp xanh với khách hàng, tự cam kết hướng tới hoạt động
sản xuất kinh doanh bền vững, giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường. Các doanh
nghiệp cần đẩy mạnh các chiến lược liên quan đến xây dựng thương hiệu xanh, dán nhãn
sinh thái cho sản phẩm và đóng gói xanh nhằm khuyến khích xu hướng tiêu dùng ngày càng
xanh hơn của khách hàng (Juwaheer & cộng sự, 2012).
4 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
2.2.6 Cải tiến sản phẩm xanh
Cải tiến sản phẩm xanh (Green product innovation) hay còn gọi là đổi mới sản phẩm xanh
là hoạt động cải tiến và đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp để sản phẩm xanh hơn, thân
thiện với hệ sinh thái hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn và giảm tác động tiêu cực tới môi trường.
Đổi mới hay cải tiến sản phẩm đã trở thành chìa khóa dẫn đến thành công của các doanh
nghiệp ngày nay và đổi mới xanh không chỉ tạo nên khác biệt cho doanh nghiệp mà còn
đẩy mạnh xanh hóa cả ngành công nghiệp, từ đó cải thiện hoạt động môi trường của doanh
nghiệp. Một khi nhu cầu của thị trường hướng đến các sản phẩm xanh bền vững thì doanh
nghiệp tất yếu sẽ thành công (Lin & cộng sự, 2013).
3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh là thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lời. Có thể hiểu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các nghiệp
vụ phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp được phản ánh qua các chuỗi hoạt động của doanh nghiệp như hoạt
động sản xuất, marketing, tài chính và môi trường. Để đánh giá hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, có thể sử dụng chỉ tiêu kinh tế định tính hoặc định lượng của doanh nghiệp
hoặc đánh giá thông qua báo cáo tài chính. Nói cách khác, hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp có thể được đánh giá thông qua hiệu quả các hoạt động chính của doanh
nghiệp, bao gồm hiệu quả tài chính, hiệu quả hoạt động, hiệu quả môi trường và hiệu quả
marketing (Xu & cộng sự, 2005). Như vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khi áp dụng các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh, tác giả sẽ phân
tích ảnh hưởng của sáng kiến đến các hoạt động kinh doanh nói trên của doanh nghiệp. Trên
thế giới, phương pháp đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các nghiên cứu được
thực hiện thông qua bảng hỏi, sử dụng các tiêu chí đánh giá định tính đối với hiệu quả tài
chính, hiệu quả hoạt động, hiệu quả marketing và hiệu quả môi trường.
Hình 1. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Nguồn: Xu & cộng sự (2005)
5Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
3.1 Hiệu quả tài chính
Hiệu quả tài chính phản ánh điều kiện tài chính của công ty trong một giai đoạn nhất
định. Với mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản cho chủ sở hữu doanh nghiệp, việc doanh nghiệp
đạt được hiệu quả tài chính là một trong những cách để doanh nghiệp đáp ứng được kỳ vọng
của nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính có thể được đo lường thông qua hiệu quả sinh lời của giá
trị thị trường và tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp.
Khả năng sinh lời của doanh nghiệp là khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận có thể
được hiểu là những gì còn lại từ doanh thu sau khi chi trả các chi phí khác nhau như chi phí
sản xuất và chi phí hoạt động. Khả năng sinh lời đo lường khả năng tạo ra lợi nhuận của
doanh nghiệp trong quá khứ (Ross & cộng sự, 2010).
Giá trị thị trường phản ánh đánh giá bên ngoài và kỳ vọng về hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp trong tương lai. Do đó, nó có một mối tương quan với lợi nhuận trong quá khứ và mức
tăng trưởng của các công ty trong tương lai. Chiến lược đa dạng hóa giảm thiểu rủi ro hiệu quả
và tối đa hóa lợi nhuận (Kasilingam & cộng sự, 2015). Do đó, giá trị thị trường của một công ty
là quan tâm chính và đó là khả năng dự đoán xu hướng chứng khoán trong tương lai, dựa trên
thông tin được công bố công khai. Thông tin liên quan đến lợi nhuận cổ phiếu rất quan trọng
đối với cả nhà đầu tư và các bên liên quan của các công ty.
Tốc độ tăng trưởng trong quá khứ cho thấy khả năng mở rộng quy mô của công ty (Whetten,
1987). Sự tăng trưởng về quy mô và mức sinh lời sẽ làm gia tăng lợi nhuận và tiền mặt của
doanh nghiệp. Các công ty có quy mô lớn có thể đạt hiệu quả kinh tế nhờ lợi thế về quy mô và
sức mạnh thị trường, từ đó sẽ tăng lợi nhuận trong tương lai của các công ty.
Như vậy, ảnh hưởng của các sáng kiến xanh đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp có
thể được phân tích thông qua các chỉ tiêu như lợi nhuận của doanh nghiệp, giá trị thị trường
và tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp.
3.2 Hiệu quả hoạt động
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa chung nhất là các lợi ích kinh
tế mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình hoạt động của mình. Cụ thể, hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp được nâng cao khi doanh thu của doanh nghiệp đó tăng, chi phí giảm và
cả trong trường hợp chi phí tăng nhưng tốc độ tăng doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng chi
phí để đạt được kết quả đó. Khi cân nhắc áp dụng sáng kiến xanh, một số doanh nghiệp còn
e ngại bởi vì, họ cho rằng đầu tư công nghệ sạch, thiết kế, cải tiến sản phẩm xanh v.v sẽ
làm doanh nghiệp tăng chi phí. Do đó, khi phân tích ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp, doanh thu và chi phí của doanh nghiệp sẽ là chỉ tiêu được
sử dụng để đánh giá.
3.3 Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường bao gồm các hiệu quả đạt được của doanh nghiệp trong quá trình
sản xuất như: cách thức xử lý rác thải, các chất phát thải và tái chế. Đây là một công cụ phân
6 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
tích, để so sánh các đặc điểm môi trường giữa các nhà máy khác nhau của một doanh nghiệp
hoặc các doanh nghiệp trong một ngành công nghiệp. Theo Vinayagamoorthi & cộng sự
(2015), điều cần thiết là khi công ty kiếm được nhiều lợi nhuận hơn từ hoạt động kinh doanh,
họ nên đầu tư nhất định cho bảo vệ môi trường. Có rất nhiều doanh nghiệp bị khủng hoảng
khi không xử lý tốt vấn đề môi trường ngay trong quá trình sản xuất, dẫn đến thiệt hại không
chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt danh tiếng và thị phần trên thị trường. Vì vậy, tác động của
các sáng kiến xanh trong kinh doanh của doanh nghiệp cũng cần được phân tích dưới góc
độ hiệu quả môi trường.
3.4 Hiệu quả marketing
Hiệu quả marketing là hiệu quả phản ánh mối quan hệ giữa các hoạt động tiếp thị và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, sự hài lòng của khách hàng là thước đo cách
thức một công ty cung cấp sản phẩm và dịch vụ, đáp ứng hoặc vượt qua sự mong đợi của
khách hàng. Nó được coi là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Sự hài lòng của khách hàng trước hết chính là chỉ số về ý định mua hàng và
lòng trung thành của người tiêu dùng. Sharma (2012) nhấn mạnh rằng hiệu quả dịch vụ (sự
hài lòng của khách hàng) của các doanh nghiệp cần được đánh giá từ quan điểm của khách
hàng, nhà điều hành, nhân viên, chính phủ, giám sát của cộng đồng hoặc cá nhân. Sự hài
lòng của khách hàng đối với sản phẩm của công ty cũng sẽ thay đổi thói quen tiêu dùng và
mua sắm. Ngoài ra, hiệu quả marketing còn được đánh giá thông qua thị phần của doanh
nghiệp. Thị phần là chỉ số đo lường phần trăm về mức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
so với đối thủ cạnh tranh hay toàn bộ một thị trường. Hiệu quả thị phần là quan trọng hàng
đầu trong marketing và quản trị chiến lược hiện đại. Hiệu quả được biểu hiện thông qua phần
thị trường doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được hoặc phân chia thị trường của doanh nghiệp
đối với các đối thủ cạnh tranh trong ngành. Như vậy, để đánh giá tác động của sáng kiến
xanh đến hiệu quả marketing của doanh nghiệp, tác giả sẽ phân tích từ góc độ sự hài lòng
của khách hàng đối với sản phẩm xanh của doanh nghiệp và thị phần của doanh nghiệp xanh
trên thị trường.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn và kỹ thuật nghiên cứu khám phá
(exploratory research techniques). Phương pháp nghiên cứu khám phá được sử dụng đối
với các đề tài/lĩnh vực chưa được nghiên cứu và khai thác nhiều. Phương pháp này được
áp dụng nhằm tìm kiếm và khám phá các thông tin và số liệu từ các nghiên cứu có liên
quan, từ đó rà soát một cách có hệ thống và tổng hợp kết quả nghiên cứu và đưa ra kết luận
về vấn đề nghiên cứu. Để có thể đưa ra kết quả nghiên cứu có ý nghĩa nhất, tác giả đã tổng
hợp hơn 50 bài nghiên cứu về sáng kiến xanh trên thế giới trong khoảng giai đoạn (2000 -
2016) nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận về sáng kiến xanh, đồng thời đánh giá và phân tích
ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thế giới.
Từ các nghiên cứu này, tác giả đưa ra kết luận về ảnh hưởng tích cực của quá trình áp dụng
các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu chí lựa chọn các
7Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
bài nghiên cứu để tổng hợp là các bài viết phân tích các khái niệm liên quan đến một hoặc
một số sáng kiến trong hoạt động kinh doanh có áp dụng các phương pháp cải tiến nhằm
giảm tải phát thải gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, các nghiên cứu được lựa chọn
cũng phân tích đánh giá tác động của doanh nghiệp áp dụng cải tiến các bước, quy trình
sản xuất và xử lý tái chế sản phẩm sau bán hàng theo hướng xanh lên hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp theo các khía cạnh: hiệu quả hoạt động, hiệu quả tài chính,
hiệu quả marketing và hiệu quả môi trường. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kinh
doanh được tóm tắt ở Mục 3. Các tiêu chí này được đo lường trong các nghiên cứu thông
qua phương pháp định tính, sử dụng bảng hỏi để đánh giá tác động của sáng kiến xanh lên
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
5. Ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hình 2. Ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Hình 2 tóm tắt tác động của các sáng kiến xanh đến hoat động kinh doanh của doanh
nghiệp. Việc cải tiến hoạt động kinh doanh theo hướng thân thiện với môi trường còn
mang lại khả năng cạnh tranh và tăng trưởng đồng thời tăng năng suất lao động và lợi ích
kinh tế cho cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Carrion-Flores & Innes (2010) còn chỉ ra rằng
việc xanh hóa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp giúp giảm rác thải và giảm các
tác động xấu đến môi trường, đem lại sản phẩm, dịch vụ rẻ hơn và tạo ra nhiều công việc
mới cho con người. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể giảm chi phí sản xuất và tăng hiệu
quả tài chính bằng cách áp dụng các sáng kiến xanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh
(Porter, 1991). Bài viết sẽ phân tích về ảnh hưởng của sáng kiến xanh (6 mảng sáng kiến)
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: quản trị chuỗi cung ứng xanh và
logistic ngược, marketing xanh, cải tiến sản phẩm xanh, quảng cáo xanh và nhãn sinh thái.
8 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
5.1 Quản trị chuỗi cung ứng xanh và logistics ngược
Azevedo & cộng sự (2011) chỉ ra rằng việc ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh (GSCM)
đem lại lợi ích to lớn cho doanh nghiệp trong hiệu quả hoạt động, hiệu quả tài chính và hiệu quả
môi trường của mình đồng thời tiết kiệm chi phí và gìn giữ hệ sinh thái. Việc áp dụng quản trị
chuỗi cung ứng xanh đóng một vai trò rất quan trọng trong khâu quản trị chuỗi cung ứng truyền
thống. Trước đây, doanh nghiệp có thể đạt được lợi thế so sánh bằng cách áp dụng các phương
pháp quản trị chuỗi cung ứng truyền thống như nâng cấp các nguồn cung ứng (Wouters & cộng
sự, 2009). Tuy nhiên, ngày nay, các doanh nghiệp phải hội nhập chuỗi cung ứng với quản trị môi
trường do áp lực từ phía khách hàng có mối lo ngại về môi trường ngày càng tăng. Hơn nữa,
các doanh nghiệp có thể tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn đối thủ cạnh tranh, mở rộng thị
phần nếu hoạt động kinh doanh có thể giải quyết được thành công những vấn đề về môi trường
(Hansmann & Claudia, 2001).
Chuỗi cung ứng xanh đem lại hiệu quả sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường của
doanh nghiệp. Hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ hậu cần và vận tải thực hiện các mô hình
chuỗi cung ứng xanh đều có những cải thiện nhằm giảm thiểu năng lượng và chất thải cũng
như giảm bao bì đóng gói trong phân phối. Các doanh nghiệp phải tuân thủ tất cả các quy
định về môi trường và pháp luật. Đối với các tổ chức quốc tế, mở rộng và tăng thêm quy định
mới có thể gây ra khó khăn cho chính bản thân doanh nghiệp, nhưng các quy định đã được
đưa ra thì doanh nghiệp phải thực hiện để duy trì hoạt động kinh doanh. Vấn đề là làm thế
nào để xây dựng một chuỗi cung ứng linh hoạt và thích ứng với thực tiễn kinh doanh.
Quản lý chuỗi cung ứng xanh (GSCM) đóng vai trò là trung gian tác động tới hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Các hoạt động của GSCM như mua sắm và đầu tư xanh phục hồi có
tác động mạnh nhất đến hiệu quả kinh doanh của tổ chức (Chan & cộng sự, 2012). Có nhiều rào
cản khác nhau ảnh hưởng đến cách tiếp cận GSCM trong công ty như cạnh tranh thị trường,
thiếu tính ổn định, chi phí gia tăng rào cản ở cách tiếp cận vi mô đối với doanh nghiệp trong
quản lý chuỗi cung ứng xanh là không hiểu rõ khách hàng, còn rào cản ở cách tiếp cận vĩ mô
là thiếu sự can thiệp của chính phủ. Việc loại bỏ các rào cản này sẽ giúp doanh nghiệp thực
hiện thành công GSCM trong ngành công nghiệp ô tô Ấn Độ (Luthra & cộng sự, 2011). Chan
& cộng sự (2012) kết luận GSCM có một mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động kinh
doanh công ty.
Hiện nay, quản trị chuỗi cung ứng xanh (GSCM) cũng là một trong những vấn đề quan
trọng mà các tổ chức đang quan tâm do áp lực bên trong và bên ngoài. Quản lý chuỗi cung
ứng theo hướng xanh giúp doanh nghiệp bảo tồn sinh thái tiết kiệm chi phí (Azevedo &
cộng sự, 2011). Bên cạnh đó, thực hiện chuỗi cung ứng xanh cũng giúp đem lại các lợi ích
kinh doanh cho doanh nghiệp. Người tiêu dùng hiện tại đã rất chủ động khi đưa các tiêu chí
xanh trong quá trình lựa chọn sản phẩm, đặc biệt trong các ngành công nghiệp bán lẻ và ô tô.
Xanh hóa các bộ phận sẽ giúp doanh nghiệp định hướng được giá trị trong thương hiệu và
chuỗi cung ứng đóng vai trò quan trọng. Lợi ích của quá trình quản trị chuỗi cung ứng xanh
đối với doanh nghiệp bao gồm: (1) Tiết kiệm chi phí hoạt động do giảm chất thải; (2) Giảm
9Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
chi phí vận chuyển, năng lượng, nhiên liệu; (3) Giảm chi phí y tế và chi phí an toàn; (4) Chi
phí lao động thấp hơn của doanh nghiệp đối với làm việc tốt hơn có thể tăng động lực, năng
suất và giảm sự cần thiết của nhân viên hậu cần; (5) Giảm sự phụ thuộc vào biến động giá
của các nguồn tài nguyên; (6) Tăng tính tuân thủ các quy định; (7) Nâng cao danh tiếng của
doanh nghiệp đối với các nhà cung cấp và khách hàng, các nhà đầu tư và (8) Tăng doanh thu
và cải thiện chuỗi cung ứng.
Các công ty ô tô ở một số nước đang phát triển như Trung Quốc hoặc Malaysia đã triển khai
GSCM và bắt đầu học kinh nghiệm từ các đối tác quốc tế (Lin & cộng sự, 2013). Do sự phát
triển của công nghiệp hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực ô tô đã tạo ra gánh nặng môi trường và
do đó, tạo ra những cơ hội tuyệt vời để các doanh nghiệp ứng dụng GSCM trong ngành công
nghiệp ô tô đạt được hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững (Lin & cộng sự, 2013). Chuỗi cung
ứng xanh là một chiến lược quan trọng đối với ngành công nghiệp ô tô Trung Quốc nhằm đạt
được phát triển môi trường, kinh tế và xã hội bền vững (Zhu & cộng sự, 2004).
Quản trị chuỗi cung ứng xanh (GSCM) và hiệu suất tăng trưởng bền vững doanh nghiệp
có mối quan hệ với nhau (Hervani & cộng sự, 2005). Các công ty công bố sáng kiến GSCM
có tác động tích cực đến giá cổ phiếu của họ (Bose & Pal, 2012). Các nhà cung cấp ô tô của
Đức luôn tập trung vào chất lượng, chi phí, thời gian và thân thiện với môi trường. Quản trị
chuỗi cung ứng xanh phát triển mạnh ở thị trường Đức do chính sách môi trường của nước
này. Nếu các doanh nghiệp cung cấp linh, phụ kiện lắp ráp ô tô mà không áp dụng công
nghệ xanh thì họ có thể mất thị phần trên thị trường hoặc phải đối mặt với nguy cơ đóng
cửa doanh nghiệp, bởi vì hầu hết các quốc gia đều quan tâm về môi trường và đây là ưu
tiên hàng đầu (Caniels, 2013). Các nhà sản xuất linh kiện ô tô đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế của một quốc gia và họ đã xác định việc ứng dụng GSCM là chiến lược
(Mathiyazhagan & Govindan, 2013). Các nghiên cứu cho thấy các quy định của chính phủ
và pháp luật và logistic ngược là những động lực chính để đạt được sự hợp tác giữa nhà thiết
kế sản phẩm và nhà cung cấp, từ đó, mới có thể giảm tác động tiêu cực đến môi trường và
thực hiện GSCM (Diabat & Govindan, 2011). Logistic ngược là một trong những yếu tố quan
trọng của GSCM. Thông qua logistic ngược, doanh nghiệp mới có thể thực hiện chiến lược
kinh doanh thân thiện với môi trường và thúc đẩy nhận thức của người tiêu dùng nhằm phát
triển bền vững (Hazen & cộng sự, 2012).
Tóm lại, các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa quản trị chuỗi
cung ứng xanh và hiệu quả hoạt động, tài chính, marketing và môi trường của doanh nghiệp
(xem Bảng 1). Có thể nói, hiện nay, trong bối cảnh ô nhiễm môi trường đang ngày càng trở
thành vấn đề cấp bách, quản trị chuỗi cung ứng xanh và logistic ngược đang là xu hướng của
các doanh nghiệp nhằm hướng tới tăng trưởng bền vững.
5.2 Marketing xanh
Marketing xanh có thể được xem là quá trình tuân thủ đạo đức và các yêu cầu về trách
nhiệm xã hội trong marketing (Dheeraj & Vishal, 2012). Hoạt động này liên quan chặt chẽ
10 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
đến phát triển hình ảnh và nâng cao năng lực của công ty trong mọi khía cạnh (Ko & cộng
sự, 2013). Fisk (2010) chỉ ra rằng marketing xanh và công nghệ bền vững là các nhân tố thúc
đẩy hiệu quả tài chính, hiệu quả marketing và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, chiến lược marketing gắn với sinh thái có thể thay đổi hành vi của người tiêu dùng
các phương tiện đi lại một cách tích cực. Tuy nhiên, các thông tin phải được truyền tải lặp đi
lặp lại nhằm đạt được sự thay đổi bền vững đối với hành vi của người tiêu dùng.
Kết quả nghiên cứu của Siriwardena & cộng sự cũng nhận định rằng tác động tích cực của
chiến lược thay đổi hành vi góp phần làm tăng hành vi của người tiêu dùng xanh (Siriwardena
& cộng sự, 2012). Các nghiên cứu cũng khẳng định hiệu ứng tích cực của các thông tin sinh
thái trong thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh. Green & cộng sự (2012) đề cập đến những ảnh
hưởng tích cực của hài hòa hóa các chiến lược marketing xanh đến chuỗi cung ứng và hoạt
động marketing của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hoạt động tài chính của tổ chức.
Hình ảnh xanh của sản phẩm được truyền tải tới người tiêu dùng bao gồm: sản phẩm có
các tính năng thân thiện với môi trường, sản phẩm có thể tái chế được và sản phẩm được
đóng gói xanh. Nghiên cứu của Smith năm 2010 cho thấy các sản phẩm thân thiện với môi
trường ảnh hưởng tích cực đến danh tiếng của công ty và hình ảnh của công ty (Smith, 2010).
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu khác chỉ ra rằng tồn tại mối quan hệ giữa các chiến lược môi
trường chủ động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và đề xuất rằng các nhà quản lý
nên nhìn nhận marketing xanh như một chiến lược tuyệt vời, không chỉ góp phần giảm chi
phí, mà còn tối ưu hóa kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần tạo ra các lợi thế khác
biệt (Fraj & cộng sự, 2011).
Một số nghiên cứu khác cho rằng người quản lý gián tiếp đóng vai trò quan trọng trong
thiết kế và phát triển các chiến lược marketing xanh thông qua tích hợp giá trị môi trường
trong văn hóa tổ chức. Các nghiên cứu này cũng nhận định, trong khi các sáng kiến định
hướng thị trường trực tiếp và xác định hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, các hoạt động
định hướng nội bộ gián tiếp ảnh hưởng kết quả tài chính thông qua cải thiện môi trường
hoạt động của công ty (Fraj & cộng sự, 2013). Hơn nữa, marketing xanh còn đem lại tính
bền vững cho doanh nghiệp (Peattie & Crane, 2005). Các công ty đang tiến hành cải thiện
môi trường sản phẩm vì một số lý do, trong đó có mong muốn trở thành doanh nghiệp có
trách nhiệm xã hội (Polonsky & cộng sự, 1998). Thực tế, ngày càng có nhiều người tiêu dùng
thích sản phẩm xanh hơn (Saxena & Khandelwal, 2008). Hãng General Motors đã đầu tư 2,5
tỷ USD trong các dự án kinh doanh xanh (Gleim, 2013). Các chiến lược xanh được doanh
nghiệp áp dụng bao gồm: (1) Đổi mới xanh; (2) Phủ xanh tổ chức và (3) Liên minh xanh
(Cronin & cộng sự, 2011).
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc phối hợp giữa các tổ chức (liên minh xanh) có thể
đem lại hiệu quả hoạt động môi trường của một doanh nghiệp. Do đó, từ trước đến nay, các
doanh nghiệp phải chung tay để tìm ra những phương pháp cải thiện hiệu quả môi trường
như chia sẻ kiến thức, khả năng và nỗ lực sáng tạo bởi vì, đổi mới đóng vai trò vô cùng quan
trọng đối với doanh nghiệp (Albino & cộng sự, 2012).
11Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Như vậy, các kết quả nghiên cứu nêu trên đã chỉ ra ảnh hưởng tích cực của sáng kiến
marketing xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xét trên góc độ hiệu quả marketing
thông qua danh tiếng và thị phần của công ty. Ngoài ra, xét về hiệu quả môi trường, hiệu quả
hoạt động và hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, chiến lược marketing xanh cũng gián tiếp
đóng góp vào cải thiện môi trường văn hóa doanh nghiệp và tạo ra khác biệt cho sản phẩm của
doanh nghiệp, từ đó, nâng cao doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp (Bảng 1).
5.3 Quảng cáo xanh
Nếu một sản phẩm, dịch vụ xanh của doanh nghiệp cần đảm bảo đầy đủ các yếu tố như
chất lượng, giá cả, bao bì, tái chế, hệ thống phân phối giảm thiểu ô nhiễm môi trường thì
quảng cáo xanh sẽ là công cụ làm nổi bật tính năng và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và
dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường. Quảng cáo xanh giúp người tiêu dùng tiếp cận
được sản phẩm xanh rõ ràng, thân thiện và gần gũi hơn. Vì vậy, quảng cáo xanh không chỉ
góp phần cải thiện hình ảnh doanh nghiệp, tăng tính hiệu quả marketing, mà còn hướng
người tiêu dùng thay đổi dần thói quen mua xanh.
Có thể nói, quảng cáo xanh hoặc thông điệp xanh cũng giúp thu hút người tiêu dùng tin
tưởng vào truyền thông (Grimmer & Wooley, 2014). Sản phẩm xanh trong các nội dung
quảng cáo xanh thường thu hút khách hàng. Quảng cáo xanh khiến người tiêu dùng mua sản
phẩm xanh và cảm nhận thân thiện với môi trường (Smith, 2012).
Quảng cáo truyền miệng (WOM - word of mouth) là một trong hình thức quảng cáo quan
trọng thúc đẩy các sản phẩm xanh và nhận thức của người tiêu dùng (Chen & cộng sự, 2013).
Kết quả nghiên cứu cho thấy những tác động tích cực của thông tin sinh thái và vai trò của
nguồn thông tin này trong gia tăng hành vi của người tiêu dùng xanh (Siriwardena & cộng
sự, 2012). Cung cấp thông tin liên quan có sẵn tại điểm mua hàng có thể giáo dục người tiêu
dùng về lợi ích lựa chọn lối sống xanh hơn (Borin & Cerf, 2011). Kết quả của nghiên cứu
cho thấy các ngành công nghiệp ở Ấn Độ có quan điểm tích cực về áp dụng lối sống xanh
(Saxena & Khandelwal, 2012). Thậm chí, thiện chí xanh có thể tác động tích cực đến lợi
nhuận doanh nghiệp thông qua giá đầu ra (Kristrom & Lundgreen, 2003). Ngoài ra, hiệu quả
môi trường tạo ra một hình ảnh tích cực của công ty. Do đó, việc triển khai chiến lược tiếp
thị xanh có thể đem lại lợi ích cho các công ty (Camino, 2007).
5.4 Nhãn sinh thái
Sản phẩm của doanh nghiệp được cấp nhãn sinh thái đồng nghĩa với công nhận sản phẩm
thân thiện với môi trường. Khi thực hiện dán nhãn sinh thái cho sản phẩm là doanh nghiệp
đã tạo dựng hình ảnh tuyệt đối tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật về môi trường và
lao động; tạo được lợi thế cạnh tranh trong các thị trường khó tính với yêu cầu cao về môi
trường và xã hội và có trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng. Nhãn sinh thái (Eco-label) nổi
lên như một trong những phương tiện thống trị của tiếp thị truyền thông cho các thông tin
xanh của sản phẩm, nhưng để tiến tới một hệ thống sản xuất và tiêu thụ bền vững vẫn còn
khá xa (Rex & Baumann, 2007). Nhãn sinh thái hoặc nhãn môi trường là công cụ hữu ích
12 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
thể hiện sự hợp tác và tự cam kết của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp (Panda &
Goswami, 2009).
Bên cạnh đó, nhãn sinh thái là công cụ quan trọng hỗ trợ quá trình ra quyết định liên
quan đến các sản phẩm có xem xét yếu tố môi trường (Thogersen & cộng sự, 2010). Do đó,
các công ty xây dựng chiến lược quảng cáo, thương hiệu xanh, nhãn sinh thái và đóng gói
xanh nhằm khuyến khích mô hình tiêu dùng xanh (Juwaheer & cộng sự, 2012). Hình ảnh và
thông điệp từ nhãn sinh thái mang lại tác động tích cực và quyết định mua hàng của người
tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Tang &
cộng sự, 2004) (xem Bảng 1).
5.5 Cải tiến sản phẩm xanh
Ngày nay, cải tiến hay đổi mới sản phẩm đã trở thành chìa khóa dẫn đến thành công của
các doanh nghiệp và cải tiến sản phẩm xanh không chỉ tạo nên khác biệt cho doanh nghiệp
mà còn xanh hóa cả ngành công nghiệp, từ đó, cải thiện hoạt động môi trường của doanh
nghiệp. Đổi mới và lãnh đạo thời kỳ chuyển đổi cũng là một trong những các yếu tố rất quan
trọng trong hoạt động của công ty (Samad, 2012). Lin & cộng sự (2013) chỉ ra rằng nhu cầu
thị trường có mối quan hệ tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và quy trình đổi
mới sản phẩm xanh. Một khi nhu cầu của thị trường hướng đến các sản phẩm xanh một cách
bền vững thì doanh nghiệp nhất định sẽ thành công (Lin & cộng sự, 2013). Những công ty
tích cực tham gia vào đổi mới và thiết kế sản phẩm xanh thì có kết quả hoạt động kinh doanh
tốt hơn so với những công ty ít hoặc không chú trọng vào cải tiến sản phẩm xanh (Camison &
Lopez, 2012). Công ty phải trả tiền chú ý đến sản phẩm và hiệu quả kinh tế để thực hiện yêu
cầu về môi trường. Nhiều công ty sản xuất xe máy ở Việt Nam đã triển khai các chương trình
hành động để tích hợp đổi mới sản phẩm và cải thiện hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
mình (Lin & cộng sự, 2013). Ngoài tập trung vào sản phẩm và kết quả hoạt động kinh doanh,
các doanh nghiệp cần chú ý đến hoạt động môi trường của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu
tăng trưởng bền vững. Trong nghiên cứu về ảnh hưởng của cải tiến sản phẩm xanh đến kết quả
hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tác giả Ar Ilker (2012) đã kết
luận cải tiến sản phẩm xanh có ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh doanh và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Cải tiến sản phẩm xanh có thể đạt được bằng thực hiện quá trình phát triển sản phẩm sử
dụng tài nguyên tối thiểu (RCPD - Resource Constrained Product Development). Có thể hiểu,
RCPD là quá trình phát triển các sản phẩm mới sử dụng tài nguyên một cách tối thiểu đồng thời
sản xuất với chi phí thấp nhất có thể, nhờ đó mà giảm giá thành sản phẩm. Phát triển sản phẩm
sử dụng tài nguyên tối thiểu có thể giúp sản phẩm thâm nhập thị trường tốt hơn với giá thành
thấp hơn và cũng cung cấp cho khách hàng các lợi ích ngoài mong đợi, như sử dụng nguồn lực
tiết kiệm, từ đó, bảo tồn tài nguyên khan hiếm góp phần phát triển bền vững (Sharma & Iyer,
2012). Tóm lại, cải tiến/đổi mới sản phẩm xanh là xu hướng tất yếu của doanh nghiệp nhằm
phát triển bền vững. Lợi ích mà cải tiến sản phẩm xanh mang lại không chỉ ở hiệu quả hoạt
động kinh doanh mà còn ở hiệu quả hoạt động môi trường cho doanh nghiệp (Bảng 1).
13Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
B
ản
g
1.
Ả
n
h
hư
ở
ng
c
ủa
s
án
g
k
iế
n
xa
n
h
đế
n
ho
ạt
đ
ộn
g
k
in
h
do
an
h
củ
a
do
an
h
ng
h
iệ
p
Sá
ng
k
iế
n
xa
nh
H
iệ
u
qu
ả
tà
i c
hí
nh
H
iệ
u
qu
ả
ho
ạt
đ
ộn
g
H
iệ
u
qu
ả
m
ar
ke
ti
ng
H
iệ
u
qu
ả
m
ôi
t
rư
ờn
g
N
gh
iê
n
cứ
u
bổ
t
rợ
Q
uả
n
tr
ị c
hu
ỗi
cu
ng
ứ
ng
x
an
h
+
+
+
+
H
an
sm
an
n
&
C
la
ud
ia
(
20
01
);
Z
hu
&
c
ộn
g
sự
,
(2
00
4)
;
A
ze
ve
do
&
c
ộn
g
sự
(
20
11
);
(
H
an
sm
an
n
&
C
la
ud
ia
,
20
01
);
D
ia
ba
t
&
G
ov
in
da
n
(2
01
1)
;
C
ha
n
&
c
ộn
g
sự
(2
01
2)
;
B
os
e
&
P
al
(
20
12
);
L
in
&
c
ộn
g
sự
,
(2
01
3)
;
C
an
ie
ls
(
20
13
);
M
at
hi
ya
zh
ag
an
&
G
ov
in
da
n
(2
01
3)
L
og
is
ti
cs
n
gư
ợc
--
-
--
-
--
-
+
D
ia
ba
t &
G
ov
in
da
n
(2
01
1)
; H
az
en
&
c
ộn
g
sự
(
20
12
)
M
ar
ke
ti
ng
x
an
h
+
+
+
+
S
m
it
h
(2
01
0)
;
F
ra
j
&
c
ộn
g
sự
(
20
11
);
S
ir
iw
ar
de
na
&
cộ
ng
s
ự
(2
01
2)
; G
re
en
&
c
ộn
g
sự
(
20
12
);
K
o
&
c
ộn
g
sự
(2
01
3)
; F
ra
j &
c
ộn
g
sự
(
20
13
)
Q
uả
ng
c
áo
x
an
h
--
-
+
+
--
-
C
am
in
o
(2
00
7)
;
K
ri
st
ro
m
&
L
un
dg
re
en
(
20
03
);
S
m
it
h
(2
01
2)
;
S
ir
iw
ar
de
na
&
c
ộn
g
sự
(
20
12
);
C
he
n
&
c
ộn
g
sự
(2
01
3)
; G
ri
m
m
er
&
W
oo
le
y,
2
01
4
N
hã
n
si
nh
th
ái
--
-
--
-
--
-
+
P
an
da
&
G
os
w
am
i
(2
00
9)
R
ex
&
B
au
m
an
n
(2
00
7)
;
P
an
da
&
G
os
w
am
i (
20
09
)
C
ải
ti
ến
sả
n
ph
ẩm
x
an
h
+
+
+
--
-
A
r I
lk
er
(2
01
2)
; C
am
is
on
&
L
op
ez
(2
01
2)
; S
am
ad
(2
01
2)
;
S
ha
rm
a
&
I
ye
r
(2
01
2)
; L
in
&
c
ộn
g
sự
(
20
13
)
G
hi
c
hú
:
“+
”:
m
ối
q
ua
n
hệ
tí
ch
c
ự
c;
“
-”
:
m
ối
q
ua
n
hệ
ti
êu
c
ự
c;
“
--
-”
:
ch
ư
a
tì
m
th
ấy
m
ối
q
ua
n
hệ
N
gu
ồn
:
Tá
c
gi
ả
tự
tổ
ng
h
ợ
p
14 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
6. Kết luận
Nghiên cứu này tổng hợp các kết quả nghiên cứu trên thế giới về ảnh hưởng của sáng
kiến xanh đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kiểm soát khí thải carbon là thách
thức lớn đối với các doanh nghiệp trên thế giới. Các doanh nghiệp phải đối mặt với áp lực từ
chính phủ đối với phát thải carbon, kiểm soát chi phí và hiệu quả hoạt động công ty. Thiện
chí và hình ảnh công ty cũng là một trong những sáng kiến xanh giúp doanh nghiệp tạo ra
lợi thế cạnh tranh. Kết quả nghiên cứu cho thấy quản trị chuỗi cung ứng xanh và cách thức
kinh doanh xanh hoặc nhãn sinh thái có mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động công ty
(Chan & cộng sự, 2012). Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quản trị chuỗi cung ứng xanh
và hiệu quả hoạt động của công ty có mối quan hệ cùng chiều với nhau (Hervani & cộng sự,
2005). Hiệu quả hoạt động của công ty phụ thuộc vào sự đổi mới và phương thức lãnh đạo
chuyển đổi (Samad, 2012). Nếu doanh nghiệp tập trung vào tăng cường sản phẩm xanh thì
cần hướng đến tính bền vững về tự nhiên và đổi mới sản phẩm, từ đó sẽ tăng cường hiệu quả
hoạt động (Lin & cộng sự, 2013). Các doanh nghiệp áp dụng sáng kiến xanh nhằm thực hiện
đổi mới và thiết kế sản phẩm xanh được ghi nhận đạt hiệu quả hoạt động tốt hơn (Camison &
Lopez, 2012). Bên cạnh đó, người tiêu dùng nhận thức nhất định về sản phẩm đạt tiêu chuẩn
xanh, thân thiện với môi trường (Rettie & cộng sự, 2012). Lựa chọn sở thích thương hiệu
xanh thường bị ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như tuổi, thu nhập, giới tính và giáo dục (Mourad
& Ahmed, 2012). Như vậy, có thể thấy, các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để
hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững góp phần xây dựng nền kinh tế xanh - nền kinh tế
phát triển bền vững, các doanh nghiệp nên nghiên cứu và áp dụng các sáng kiến xanh trong
hoạt động kinh doanh.
Hạn chế của nghiên cứu là mới chỉ hệ thống hóa cơ sở lý luận về sáng kiến xanh và phân
tích, đánh giá ảnh hưởng của các sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp dựa trên các kết quả nghiên cứu trên thế giới mà chưa đề cập đến bối cảnh tại Việt
Nam. Ngoài ra, do hạn chế về dữ liệu, nên thời gian phân tích chỉ được thực hiện trong giai
đoạn (2000-2016). Hướng nghiên cứu trong tương lai liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của
đề tài có thể mở rộng ở khía cạnh nghiên cứu thực nghiệm về việc áp dụng các sáng kiến
xanh này trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả nghiên cứu theo cách tiếp cận này sẽ thúc
đẩy các doanh nghiệp phát triển theo hướng xanh nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng bền
vững, tạo cơ sở vững chắc phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam.
Bài nghiên cứu này thuộc khuôn khổ Đề tài cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, mã số B2018 -
NTH -20.
15Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Tài liệu tham khảo
Albino, V., Dangelico, R. & Pontrandolfo, P. (2012), “Do inter-organizational collaborations enhance
a firm's environmental performance: a study of the largest US companies?”, Journal of
Cleaner Production, Vol. 37, pp. 304 - 315.
Ar Ilker, M. (2012), “The impact of green product innovation on firm performance and competitive
capability: the moderating role of managerial environmental concern”, Procedia Social and
Behavioral Sciences, Vol. 62, pp. 854 - 864.
Azevedo, S., Carwalho, H. & Machado, V. (2011), “The influence of green initiatives on supply
chain performance: a case study approach”, Transportation Research Part E: Logistics and
Transportation Review, Vol. 47, pp. 850 - 871.
Borin, N. & Cerf, C. (2011), “Consumer effects of environmental impact on product labeling”,
Journal of Consumer Marketing, Vol. 28 No. 1, pp 76 - 86.
Bose, L. & Pal, R. (2012), “Do green supply chain management impact stock prices of the firm”,
Decision Support System, Vol. 52, pp. 624 - 634.
Bowen, F.E., Cousins, P.D., Lamming, R.C. & Faruk, A.C. (2001), “The role of supply management
capabilities in green supply”, Journal of Production and Operation Management Society,
Vol. 10 No. 2, pp. 174 - 189.
Camino, J. R. (2007), “Re-evaluating green marketing strategy: a stakeholder perception”, European
Journal of Marketing, Vol. 41 No. 11-12, pp. 1328 - 1358.
Camison, C. & Lopez, A. (2012), “Organization innovation as an enabler of technology, innovation
capabilities and firm performance”, Journal of Business Research, Vol. 67 No. 1, pp 2891-
2902.
Caniels, M. (2013), “Participation of suppliers in the greening supply chain: an empirical analysis
of German automotive suppliers”, Journal of Purchasing and Supply Management, Vol. 19,
pp. 134 - 143.
Carrion-Flores, C.E. & Innes, R. (2010), “Environmental innovation and environmental performance”,
Journal of Environmental Economics and Management, Vol. 59, pp 27 - 42.
Chan, R.Y., He, H., Chan, H.K. & Wang, W.Y. (2012a), “Environment orientation and corporate
performance: the mediation mechanism of green supply chain management and the
moderating effect of competitive intensity”, Industrial Marketing Management, Vol. 41 No.
4, pp. 621 - 630.
Chen, Y.S., Lai, S.B. & Wen, C.T. (2006), “The influence of green innovation performance on
corporate advantage in Taiwan”, Journal of Business Ethics, Vol. 67 No. 4, pp. 331 - 339.
Chen, Y.S., Lin, C.L. & Chang, C.H. (2013), “The influence of green wash on green word-of-mouth
(green WOM): the mediation effects of green perceived quality and green satisfaction”,
Quality & Quantity: International Journal of Methodology, Vol. 48 No. 5, pp. 2411 - 2425.
Cronin Jr., J.J., Smith, J.S., Gleim, M.R., Ramirez, E. & Martinez, J.D. (2011), “Green marketing
strategies: an examination of stakeholders and the opportunities they present”, Journal of
Academy of Marketing Science, Vol. 39 No. 1, pp 158 - 174.
Dheeraj, N. & Vishal, N. (2012), “An overview of green supply chain management in India”,
Research Journal of Recent Sciences, Vol. 1 No. 6, pp. 77 - 82.
16 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Diabat, A. & Govindan, K. (2011), “An analysis of the drivers affecting the implementation of green
supply chain management”, Resour Conserv Recycl, Vol. 55 No. 6, pp. 659 - 667.
Fisk, G. (2010) “Green marketing: a multiplier for appropriate technology transfer”, Journal of
Marketing Management, Vol. 17 No. 6, pp. 657 - 676.
Fraj, E., Martinez, E. & Matute, J. (2011), “Green marketing strategy and the firm's performance:
the moderating role of environmental culture”, Journal of Strategic Marketing, Vol. 19 No.
4, pp. 339 - 355.
Fraj, E., Martinez, E. & Matute, J. (2013), “Green marketing in B2B organizations: an empirical
analysis from the natural resources-based view of the firm”, Journal of Business and
Industrial Marketing, Vol. 28 No. 5, pp. 396 - 410.
Gleim, M. R. (2013), “Against the green: a multimethod examination of the barriers to green
consumption”, Journal of Retailing, Vol. 44, pp. 44 - 56.
Green Jr., K.W., Whitten, D. & Inman, R.A. (2012), “Aligning marketing strategies throughout the
supply chain to enhance performance”, Indudustrial Marketing Management, Vol. 41, pp.
1008 - 1018.
Grimmer, M. & Wooley, M. (2014) “Green marketing messages and consumers' purchase intention:
promoting personal versus environmental benefits”, Journal of Marketing Communication,
Vol. 20 No. 4, 231 - 250.
Hamner, B. (2006), “Effects of green purchasing strategies on supplier behaviour”, In: Sarkis, J.
(Ed.), Greening the Supply Chain, Springer, London, online ISBN: 978-1-84628-299-7, pp.
25 - 37.
Hansmann, K.W. & Claudia, K. (2001), “Environmental management policies”, In: Sarkis, J. (Ed.),
Green Manufacturing and Operation: From Design to Delivery and Back, Sheffield, UK:
Greenleaf Publishing.
Hazen, B. T., Wu, Y., Cegielski, C. G., Jones-Farmer, L. A. & Hall, D. J. (2012), “Consumer reaction
to the adoption of green reverse logistics, the international review of retail”, The International
Review of Retail Distribution and Consumer Research, Vol. 22 No. 4, pp. 417 - 434.
Hervani, A., Helms, M. & Sarkis, J. (2005), “Performance measurement for green supply chain
management”, Benchmark International Journal, Vol. 12 No. 4, pp. 330 - 353.
Juwaheer, T.D., Pudaruth, S. & Noyaux, M.E. (2012), “Analyzing the impact of green marketing
strategies on consumer purchasing patterns in Mauritius”, World Journal of Entrepreneurship
Management Sustainable Development, Vol. 8 No. 1, pp. 36 - 59.
Kasilingam, L., Selvam, M. & Venkateswar, S. (2015), “An Empirical Examination of Returns on
Select Asian Stock Market Indices”, Journal of Applied Finance and Banking, Vol. 5, pp
115 - 119.
Ko, E., Hwang, Y.K. & Kim, E.Y. (2013), “Green marketing functions in building a corporate image
in the retail setting”, Journal of Business Resources, Vol. 66 No. 10, pp. 1709 - 1715.
Kristrom, B. & Lundgreen, T. (2003), “Abatement investments and green goodwill”, Applied
Economics, Vol. 35 No. 18, pp. 1915 - 1921.
Kurdve, M., Zackrisson, M., Wiktorsson, M. & Harlin, U. (2014), “Lean and green integration
into production system models experiences from Swedish industry”, Journal of Cleaner
Production, Vol. 85, pp. 180 - 190.
17Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Lin, R.J., Tan, K.H. & Geng, Y. (2013), “Market demand, green product innovation, and firm
performance: evidence from Vietnam motorcycle industry”, Journal of Cleaner Production,
Vol. 40, pp. 101-107.
Luthra, S., Kumar, V., Kumar, S. & Haleem, A. (2011), “Barriers to implementing green supply chain
management in automobile industry using interpretive structured modeling techniques: an
Indian perspective”, Journal of Industrial and Engineering and Management, Vol. 4 No. 2,
pp. 231 - 257.
Mathiyazhagan, K., Govindan, K., NoorulHaq, A. & Geng, Y. (2013), “An ISM approach for the
barrier analysis in implementing green supply chain management”, Journal of Cleaner
Production, Vol. 47, pp. 283 - 297.
McKinsey and Company (2010), “The road to 2020 and beyond: what's driving the global automotive
industry”, tại https://www.mckinsey.com/industries/automotive-and-assembly/our-insights/
the-road-to-2020-and-beyond-whats-driving-the-global-automotive-industry (truy cập ngày
26/12/2019).
Mourad, M. & Ahmed, Y.S.E. (2012), “Perception of the green brand in an emerging innovative
market”, European Journal of Innovation Management, Vol. 15 No. 4, pp. 514 - 537.
OECD (2009), "Sustainable manufacturing and eco-innovation: towards a green economy", tại https://
www.oecd.org/env/consumption-innovation/42957785.pdf (truy cập ngày 26/12/2019).
Panda, L. K. & Goswami, S. (2009), “Eco-labels and its environmental countenance”, Orissa Review,
October 2009, tại
Pages64-71.pdf, (truy cập ngày 26/12/2019) .
Peattie, K. & Crane, A. (2005), “Green marketing: legend, myth, farce, prophesy?”, Qualitative
Marketing Research, Vol. 8 No. 4, pp. 357 - 370.
Polonsky, M.J. & Rosenberger, P.J. (2001), “Reevaluating green marketing: a strategic approach”,
Business Horizon, Vol. 44 No. 5, pp. 21 - 30.
Porter, M.E. (1991), “Towards a dynamic theory of strategy”, Strategic Management Journal, Winter
Special Issue, Vol. 12, pp. 95 - 117.
Rao, P. (2002), “Greening the supply chain: a new initiative in South East Asia”, International
Journal of Operation and Production Management, Vol. 22 No. 6, pp. 632 - 655.
Rao, P. & Holt, D. (2005), “Do green supply chains lead to competitiveness and economic
performance?”, International Journal of Operation & Production Management, Vol. 25 No.
9, pp. 898 - 916.
Reid, A. & Miedzinski, M. (2008), “Eco-innovation”, Final Report for Sectoral Innovation Watch,
Brussels, Technopolis Group, DOI:10.13140/RG.2.1.1748.0089.
Rettie, R., Burchell, K. & Riley, D. (2012), “Normalizing green behavior: a new approach to
sustainability marketing”, Journal of Marketing Management, Vol. 28 No. 3, pp. 420 - 444.
Rex, E. & Baumann, H. (2007), “Beyond eco-labels: what green marketing can learn from
conventional marketing”, Journal of Cleaner Produciton, pp. 567 - 576.
Ross, Westerfield & Jordan (2010), Fundamentals of Corporate Finance, McGraw-Hill Irwin, 9E.
Samad, S. (2012), “The influence of innovation & transformational leadership on organization
performance”, Procedia Social and Behavioral Sciences, Vol. 57, pp. 486 - 493.
18 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Saxena, R.P. & Khandelwal, P.K. (2008), “Consumer attitudes towards green marketing on an
exploratory study”, The International Journal of Indian Psychology, Vol. 2, pp. 140 - 146.
Saxena, R.P. & Khandelwal, P.K. (2012), “Greening of industries for sustainable growth, an
exploratory study on durable, non-durable & services industries”, International Journal
Social Economics, Vol. 39 No. 8, pp. 551 - 586.
Sharma, A. & Iyer, G.R. (2012), “Resource-constrained product development, the implication for
greenmarketing and green supply chains”, Industrial Marketing Management, Vol. 41, pp.
599 - 608.
Shen, L., Olfat, L., Govindan, K., Khodaverdi, R. & Diabat, A. (2013), “A fuzzy multi criteria
approach for evaluating green suppliers performance in green supply chain with linguistic
preferences”, Resources, Conservation and Recycle, Vol. 74, pp. 170 - 179.
Siriwardena, S., Hunt, G., Teisl, M.F. & Noblet, C.L. (2012), “Effective environmental marketing of
green cars: a nested logit approach”, Transportation Research Part D, pp 237 - 242.
Smith, K.T. (2012), “A longitudinal study of green marketing strategies that influence millennial”,
Journal of Strategic Marketing, Vol. 20 No. 6, pp. 535 - 551.
Tang, E., Fryxell, G. E. & Chow, C.F. (2004), “Visual & verbal communication in the design of eco-
labels for green consumer products”, Journal of International Consumer Marketing, Vol. 16
No. 4, pp. 85 - 105.
Tseng, M.L., Tan, K., Lim, M., Lin, R.J. & Geng, Y. (2014b), “Benchmarking eco-efficiency in green
supply chain practices in uncertainty”, Production Planning and Control, Vol. 25 No. 13 - 14,
pp. 1079 - 1090.
Tseng, M.L., Tan, K. & Chiu, A.S.F. (2015), “Identifying the competitive determinants of firms green
supply chain capabilities under uncertainty”, Clean Technologies Environmental Policy, Vol.
18, pp. 1247 - 1262.
Thogersen, J., Haugaard, P. & Olesen, A. (2010), “Consumer responses to eco-labels”, European
Journal of Marketing, Vol. 44 No. 11-12, pp. 1787 - 1810.
Vinayagamoorthi, V., Murugesan, S. & Kasilingam, L. (2015), “Impact of firms profitability on
environmental performance: evidence from companies in India”, Mediterranean Journal of
Social Sciences, Vol. 6 No. 1, pp. 109 - 119.
Whetten, D.A. (1987), “Organizational growth and decline processes”, Annual Review of Sociology,
Vol. 13, pp. 335 - 358.
Wouters, M., Anderson, J.C., Narus, J.A. & Wynstra, F. (2009), “Improving sourcing decisions
in NPD projects: monetary quantification of points of difference”, Journal of Operations
Management, Vol. 27 No. 1, pp. 64 - 77.
Xu, L.C., Zhu, T. & Lin, Y. (2005), “Politician control, agency problems and ownership reform:
Evidence from China”, Economics of Transition, Vol. 13 No. 1, pp. 1 - 24.
Zhu, Q. & Sarkis, J. (2004), “Relationships between operational practices and performance among
early adopters of green supply chain management practices in Chinese manufacturing
enterprises”, Journal of Operations Management, Vol. 22 No. 3, pp 265 - 289.
19Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_sang_kien_xanh_den_hoat_dong_kinh_doanh_cua_do.pdf