Đã tổng hợp thành công vật liệu mangan đioxit
và mangan đioxit pha tạp niken oxit và lai hóa
graphene oxit cấu trúc nano (30 ÷ 40 nm) bằng
phương pháp điện hóa.
Vật liệu mangan đioxit có điện dung riêng đạt
Cmax = 349,93 F/g (v = 5 mV/s), độ bền phóng nạp là
73,81% sau 500 chu kỳ quét CV.
Khi vật liệu mangan đioxit được pha tạp niken
oxit và lai hóa graphene oxit đã làm tăng độ xốp và
độ dẫn của vật liệu, vì vậy làm tăng điện dung riêng
của vật liệu. Độ tăng điện dung và hiệu suất phóng nạp
của các vật liệu nghiên cứu được sắp xếp theo thứ tự:
Vật liệu composite MnO2 / graphen oxit (mẫu G) >
MnO2-NiO (mẫu N) > MnO2 (mẫu M).
Vật liệu mangan đioxit pha tạp niken oxit có
điện dung riêng đạt Cmax = 384,56 F/g (v = 5 mV/s);
Vật liệu composite MnO2 / graphen oxit có điện dung
riêng lớn nhất đạt Cmax = 412,55 F/g (v = 5 mV/s), có
độ xốp lớn nhất và độ bền phóng nạp cao nhất, đạt
82,23% sau 500 chu kỳ quét CV.
Lời cảm ơn. Công trình đã được hỗ trợ kinh phí từ
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (T2016-PC-161)
và Quỹ nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Thế
giới (TWAS) (No: 14-107RG/CHE/AS_G-Unesco
FR: 324028603).
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 613 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của sự pha tạp niken oxit và lai hóa graphene oxit đến tính chất siêu tụ điện hóa của màng mỏng mangan đioxit, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 088-094
88
Ảnh hưởng của sự pha tạp niken oxit và lai hóa graphene oxit đến tính chất
siêu tụ điện hóa của màng mỏng mangan đioxit
Effect of Doping Nickel Oxide and Hybrid Graphene Oxide on Electrochemistry Supercapacitor
Characteristrics of Manganese Dioxide Thin Film
Lê Đại Dương, Bùi Thị Thanh Huyền*, Hoàng Thị Bích Thủy
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội – Số 1, Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Đến Tòa soạn: 02-6-2017; chấp nhận đăng: 25-01-2018
Tóm tắt
Màng mỏng mangan đioxit và mangan đioxit có pha tạp niken oxit và lai hóa graphene oxit có cấu trúc nano
đã được tổng hợp bằng phương pháp điện hóa chronopotentiometry. Vật liệu mangan đioxit có điện dung
riêng lớn nhất đạt 349,93 F/g, độ bền phóng nạp là 73,81% sau 500 chu kỳ quét thế. Khi được pha tạp niken
oxit và lai hóa graphene oxit, độ xốp của vật liệu tăng, làm tăng điện dung riêng của vật liệu. Vật liệu
mangan đioxit pha tạp niken oxit có điện dung riêng đạt lớn nhất là 384,56 F/g. Vật liệu composite mangan
đioxit / graphene oxit có điện dung riêng lớn nhất đạt 412,55 F/g, có độ xốp lớn và độ bền phóng nạp cao,
đạt 82,23% sau 500 chu kỳ quét thế.
Từ khóa: Mangan đioxit, pha tạp niken oxit, lai hóa graphene oxit, chronopotentiometry.
Abstract
Nanostructured thin films of manganese dioxide and manganese dioxide doped with nickel oxide and
hybridized graphene oxide are synthesized by electrochemical chronopotentiometry method. Manganese
dioxide has the highest specific capacitance of 349.93 F/g; charge-discharge stability remains 73.81% after
500 CV cycles. When doped with nickel oxide and hybridized graphene oxide, porosity of the material
increases, therefore, the specific capacitance of the material increases. Manganese dioxide doped with
nickel oxide exhibits a specific capacitance of 384.56 F/g. The composite film manganese dioxide /
graphene oxide offers the highest specific capacitance of 412.55 F/g, the large porosity and high charge-
discharge stability; maintain 82.23% of its initial specific capacitance after 500 CV cycles of the charge-
discharge operation.
Keywords: Manganese dioxide, doped nickel oxide, hybrid graphene oxide, chronopotentiometry.
1. Đặt vấn đề*
Ngày nay, siêu tụ điện được ứng dụng rất rộng
rãi bởi siêu tụ kết hợp được hai đặc tính ưu việt của
ắc quy và tụ điện, đó là: (i) khả năng tích trữ năng
lượng cao như ắc quy và (ii) khả năng phóng nạp cực
nhanh giống như tụ điện. Các vật liệu có thể sử dụng
làm siêu tụ gồm nhóm vật liệu cacbon [1,2]; nhóm
vật liệu polymer [3]; nhóm vật liệu oxit kim loại và
oxit rutini (RuO2) [4-7]. Đặc biệt khi sử dụng các vật
liệu nano thuộc các nhóm này như nano oxit kim loại,
graphene, ống nanocabon (CNT), sẽ đem lại các
tính năng rất cao cho siêu tụ như dung lượng cao, tuổi
thọ lớn và thân thiện với môi trường [3,8,9].
Trong số các vật liệu này, mangan oxit đã và
đang được chú ý bởi các ưu điểm như: có nguồn
nguyên liệu tương đối rẻ, phong phú trong tự nhiên,
cách chế tạo đơn giản và dễ dàng chế tạo theo nhiều
phương pháp khác nhau, tính dẫn điện và hoạt tính
* Địa chỉ liên hệ: Tel.: (+84) 989203629
Email: huyen.buithithanh@hust.edu.vn
điện hóa tương đối tốt, lại rất thân thiện với môi
trường [10,11]. Hơn nữa, vật liệu này có thể làm việc
trong môi trường trung tính. Do đó, nó đang là vật
liệu thu hút được rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu
của các nhà khoa học trên thế giới. Tuy nhiên,
mangan đioxit lại chưa hoàn toàn đáp ứng được các
yêu cầu kỹ thuật của vật liệu siêu tụ do dung lượng
riêng và tuổi thọ chưa cao. Những nhược điểm này
của vật liệu có thể được cải thiện bằng cách tổ hợp
với vật liệu nano [1,2,12], thay đổi kỹ thuật chế tạo
[10,11,13-16] hoặc pha tạp kim loại chuyển tiếp [4-
6,17]. Phương pháp điện hóa là phương pháp hiệu
quả để chế tạo điện cực mangan oxit bởi phương
pháp này cho phép kết tủa trực tiếp màng oxit lên
điện cực. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, việc
pha tạp (doping) các kim loại chuyển tiếp (Ni, Co,
Mo, Fe...) và lai hóa graphene vào mangan đioxit có
thể thực hiện bằng phương pháp điện hóa với các kỹ
thuật khác nhau: phương pháp thế động
(potentiodynamic) [8], phương pháp thế không đổi
[3], phương pháp dòng không đổi [7,18], phương
pháp thế tĩnh (potentiostatic) và phương pháp quét thế
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 088-094
89
tuần hoàn [19]. Kết quả cho thấy dung lượng của oxit
mangan sau pha tạp hoặc lai hóa tăng và chúng đều
có tính chất điện hóa tốt hơn [3,7,8].
Nghiên cứu này trình bày ảnh hưởng của việc
pha tạp niken oxit và lai hóa graphene oxit đến hình
thái cấu trúc và đặc tính siêu tụ của mangan đioxit
được tổng hợp bằng phương pháp điện hóa
chronopotentiometry.
2. Thực nghiệm
2.1. Tổng hợp vật liệu mangan đioxit bằng phương
pháp điện hóa
• Chuẩn bị điện cực:
Điện cực làm việc là graphit khối, có diện tích bề
mặt làm việc là 1cm2. Trước khi điện kết tủa, bề mặt
điện cực được mài nhẵn bằng giấy nhám 800, 1000,
1500 và 2000. Mẫu được rửa sạch bằng xà phòng,
tráng nước cất rồi được khắc mòn trong axit H2SO4
0,2M trong 15 phút. Sau đó, mẫu được lấy ra rửa sạch
siêu âm trong nước cất 15 phút, làm khô và sấy 100oC
trong 2 giờ. Mẫu được lưu trong bình hút ẩm 24 giờ
sau đó được xác định khối lượng bằng cân phân tích
Satorius TE-214S, độ chính xác 0,1 mg. Điện cực đối
là lưới titan phủ hỗn hợp oxit. Điện cực so sánh là
điện cực bạc clorua bão hòa (Ag/AgCl).
• Dung dịch điện phân được chuẩn bị từ
Mn(CH3COO)3.2H2O, Ni(CH3COO)2.2H2O tinh khiết
(Trung Quốc), graphene oxit (Sigma-Aldrich), phụ
gia và nước cất có thành phần như trong bảng 1.
Bảng 1. Thành phần dung dịch điện phân
Mẫu
Thành phần
Mangan
đioxit
Lai hóa
graphene
oxit
Pha tạp
niken
oxit
Mẫu M Mẫu G Mẫu N
[EDTA] (mol/L) 0,20 0,2 0,20
[Mn3+] (mol/L) 0,30 0,3 0,25
[Ni2+] (mol/L) - - 0,05
[Mn3+]:[Ni2+] - - 9:1
Graphene oxit
(mg/L)
- 10 -
SDS (g/L) - 0,2 -
* SDS: Sodium dodecyl sulfate (chất hoạt động bề mặt)
• Chế độ điện kết tủa: Quá trình điện kết tủa
được tiến hành trên máy AUTOLAB PGSTAT 302N
(Hà Lan) với hệ 3 điện cực, mật độ dòng không đổi ở
7 A/dm2 trong 6 phút. Dung dịch được khuấy từ với
tốc độ 200 vòng/phút, nhiệt độ dung dịch được duy trì
ở 80 ±1 oC.
Sau khi điện phân, mẫu được rửa bằng nước cất
nhiều lần, để khô ngoài không khí ở nhiệt độ phòng,
sau đó sấy trong tủ sấy ở 100oC trong 2 giờ. Mẫu sấy
xong được làm nguội, để trong bình hút ẩm 24 giờ rồi
đem cân xác định khối lượng sau điện kết tủa.
2.2. Các phương pháp nghiên cứu
Hình thái bề mặt và thành phần của màng vật liệu
được phân tích bằng kính hiển vi điện tử quét và phổ
tán xạ năng lượng tia X trên thiết bị FESEM S4800-
Hitachi (Nhật Bản), tích hợp bộ phận tán xạ năng
lượng tia X (Emax-Horiba).
Đặc tính siêu tụ của vật liệu tổng hợp được nghiên
cứu sử dụng hai kỹ thuật:
(i) Phương pháp quét thế tuần hoàn (CV) sử dụng
khoảng quét từ -0,2V đến 0,8V vs. Ag/AgCl với các tốc
độ quét thế khác nhau để xác định điện dung riêng và độ
bền phóng nạp của vật liệu. Điện dung riêng được xác
định theo công thức (1).
𝐶 =
𝐼.∆𝑡
𝑚.∆𝐸
=
𝑄
𝑚.∆𝐸
(1)
Trong đó: C là điện dung riêng (F/g); I là cường
độ điện phóng (hoặc nạp) trung bình (A); ∆𝐸 là
khoảng quét thế (V); ∆𝑡 là khoảng thời gian quét một
chu kỳ(s); m là khối lượng của vật liệu (g); Q là điện
lượng phóng nạp (culong) và được tính bởi công
thức: Q = ∫ 𝑖(𝑡)𝑑𝑡
𝑡2
𝑡1
.
(ii) Phương pháp chronopotentiometry: Vật liệu
được phóng và nạp trong khoảng điện thế từ 0 - 0,8 V
bằng dòng một chiều không đổi với các mật độ dòng
phóng nạp khác nhau: 0,5 mA/cm2, 1 mA/cm2, 1,5
mA/cm2, 2 mA/cm2 và 5 mA/cm2.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Hình thái cấu trúc và thành phần của vật liệu
3.1.1. Hình thái bề mặt của vật liệu
Hình thái bề mặt của mangan đioxit trước và sau
khi pha tạp niken oxit và lai hóa graphene oxit được
phân tích bằng phương pháp kính hiển vi điện tử quét
(FESEM), kết quả được chỉ ra ở hình 1. Kết quả cho
thấy, vật liệu M (hình 1a) có cấu trúc dạng hạt và có
xu hướng co cụm lại gần nhau, bề mặt vật liệu kém
xốp, xuất hiện rãnh nhỏ. Khi lai hóa graphene oxit
(hình 1b), cấu trúc dạng hạt rõ rệt nhất. Khi pha tạp
niken oxit (hình 1c), vật liệu có cấu trúc dạng hạt tách
rời nhau hơn so với khi chưa pha tạp. Đường kính hạt
khi pha tạp niken oxit và lai hóa graphen khoảng 30 ÷
40 nm, chúng phân bố đều trên bề mặt và liên kết với
nhau tạo nên cấu trúc xốp. Vì vậy, vật liệu tổng hợp
được khi pha tạp niken oxit N và lai hóa graphene
oxit có cấu trúc xốp hơn so với mẫu M. Vì vậy sẽ có
nhiều lỗ, rãnh để các cation có kích thước nhỏ như
H+, K+, Na+, hay Li+ dễ dàng khuếch tán vào sâu bên
trong cấu trúc vật liệu [10]. Điều đó có thể dự đoán
diện tích bề mặt vật liệu mẫu G có thể lớn hơn.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 088-094
90
Hình 1. Ảnh FESEM của các vật liệu tổng hợp trong các dung dịch khác nhau:
(a) Mẫu M, (b) Mẫu G và (c) Mẫu N
Hình 2. Phổ EDX của các vật liệu tổng hợp trong các
dung dịch khác nhau: a) mẫu M, b) mẫu G và c) mẫu
N
3.1.2. Thành phần hóa học
Phổ EDX của mẫu mangan điôxit và các mẫu
mangan điôxit pha tạp niken oxit và lai hóa graphene
oxit được trình bày trên hình 2.
Kết quả phân tích phổ EDX được đưa ra trong
bảng 2. Từ kết quả EDX cho thấy, vật liệu được tổng
hợp trên điện cực graphit được cấu thành bởi các
nguyên tố O, Mn và C. Riêng mẫu N được pha tạp
niken oxit cho thấy có thêm 0,19% Ni. Hàm lượng
cacbon của mẫu M và mẫu N được xác định là
10,56% và 9,05%, biết đến là cacbon trong vật liệu
nền graphit. Ở mẫu có lai hóa graphene oxit, lượng
cacbon tăng lần lượt 2,78% và 4,29% so với mẫu M
và N cho thấy graphene oxit đã tham gia vào cấu trúc
vật liệu.
Bảng 2. Kết quả chụp EDX của các mẫu mangan
điôxit và mangan điôxit pha tạp / lai hóa
Thành phần
nguyên tố (%)
Mẫu M Mẫu G Mẫu N
Mn 24,24 22,00 25,98
O 65,20 64,66 64,78
C 10,56 13,34 9,05
Ni - - 0,19
3.2. Hoạt tính điện hóa của vật liệu tổng hợp
3.2.1. Đặc trưng CV và điện dung riêng của vật liệu
Các mẫu mangan đioxit và mangan đioxit pha
tạp niken oxit và lai hóa graphene oxit được quét CV
trong dung dịch Na2SO4 1M lần lượt ở các tốc độ
quét thế 5, 10, 20, 50, 75, 100, 150 và 200 mV/s. Kết
quả quét CV của các mẫu M, G và N (hình 3) cho
thấy khi tốc độ quét thế tăng thì dáng điệu đường CV
dần trở nên dốc hơn, điều này có thể do tại các tốc độ
quét thế lớn, các ion cài và giải cài không kịp thoát ra
khỏi cấu trúc vật liệu. Quá trình cài và giải cài các ion
C+ (ở đây là Na+) vào trong cấu trúc vật liệu theo
phản ứng:
MnO2 + xC+ + yH+ + (x+y)e- ↔ MnOOCxHy
So sánh đặc tính CV của các vật liệu ở cùng vận
tốc quét thế 10 mV/s (hình 3d) thấy rằng, các đường
CV của vật liệu có hoặc không được pha tạp hay lai
hóa đều có dạng hình chữ nhật, giống với đường
phóng nạp đặc trưng của tụ điện lí tưởng. Như vậy,
vật liệu tổng hợp dù được pha tạp hoặc lai hóa hay
không đều có thể ứng dụng làm vật liệu cho siêu tụ.
c)
a)
b)
c)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 088-094
91
Hình 3. Đường cong CV của vật liệu mangan đioxit mẫu M (a), lai hóa graphen oxit mẫu G (b), pha tạp niken
oxit mẫu N (c) tại các tốc độ quét khác nhau ở chu kỳ thứ 10 và đường cong CV của cả 3 loại vật liệu tại tốc
độ quét thế 10 mV/s ở chu kỳ 10 (d)
Bảng 3. Khối lượng và điện dung riêng của các vật
liệu (v = 10 mV/s)
Mẫu
Thông số
Mangan
đioxit
Lai hóa
graphene
oxit
Pha tạp
niken oxit
Mẫu M Mẫu G Mẫu N
m (mg) 1,6 1,6 1,6
Q+ (mC) 497,28 572,95 547,01
Q- (mC) -510,64 -577,65 -552,21
Qtb (mC) 503,96 575,30 549,61
C (F/g) 314,98 359,56 343,51
Đối với các vật liệu được pha tạp niken oxit hay
lai hóa graphene oxit, đường CV đều có cường độ
dòng lớn hơn so với vật liệu chưa pha tạp. Điều này
chứng tỏ việc pha tạp hay lai hóa đã có tác dụng làm
tăng điện dung riêng của vật liệu. Thật vậy, điện dung
riêng của từng loại vật liệu được tính toán theo công
thức (1). Kết quả được thể hiện ở bảng 3.
Ở tốc độ quét 10 mV/s, điện dung riêng của vật
liệu mangan đioxit (mẫu M) là 314,98 F/g. Khi pha
tạp niken oxit và lai hóa graphene oxit, điện dung
riêng của chúng lần lượt là 343,51 F/g (tăng 9,06%)
và 359,56 F/g (tăng 14,15%) so với mẫu M. Kết quả
này cho thấy, điện dung riêng của các vật liệu nghiên
cứu M, G và N cũng tương đương với một số công bố
trước đây [20,21]. Điều này có thể giải thích là do vật
liệu mangan đioxit pha tạp niken oxit và lai hóa
graphene oxit có độ xốp lớn hơn nên làm tăng điện
dung riêng và đặc tính siêu tụ cho vật liệu.
Các kết quả cho thấy khi tăng tốc độ quét thế thì
điện dung riêng của vật liệu giảm đi. Ở tốc độ quét 5
mV/s, vật liệu mangan đioxit có điện dung riêng lớn
nhất đạt 349,93 F/g. Khi được pha tạp niken oxit và lai
hóa graphene oxit, điện dung riêng đạt lớn nhất lần
lượt là 384,56 F/g và 412,55 F/g. Tuy nhiên, trong
khoảng tốc độ quét từ 5 ÷ 100 mV/s thì điện dung
riêng của vật liệu vẫn lớn, lớn hơn 100 F/g và ở tốc độ
phóng nạp cao (100 mV/s) thì vật liệu vẫn cho đáp ứng
phóng nạp tốt.
Để khảo sát sự ảnh hưởng của tốc độ quét đến điện
dung riêng của vật liệu ta tiến hành quét CV 3 mẫu vật
liệu trên ở các tốc độ quét khác nhau từ 5 mV/s đến 200
mV/s. Kết quả đo được thể hiện ở hình 4.
(a) (b)
(c) (d)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 088-094
92
Hình 4. Ảnh hưởng của tốc độ quét đến điện dung
riêng của vật liệu
Hình 5. Sự sụt giảm điện dung riêng theo chu kỳ của
vật liệu mangan đioxit và mangan đioxit có pha tạp /
lai hóa ở tốc độ quét 20 mV/s
3.2.2. Độ bền phóng nạp
Tuổi thọ của siêu tụ có thể được xác định thông
qua mức độ giảm điện dung của tụ sau một thời gian
làm việc. Trong nghiên cứu này, sự giảm điện dung
riêng của vật liệu M, G, N được đánh giá sau 500 chu
kì quét thế vòng (CV) trong dung dịch Na2SO4 1M,
với tốc độ quét 20mV/s. Kết quả thu được thể hiện
trên bảng 4 và hình 5. Điện dung riêng của vật liệu
mangan đioxit pha tạp niken oxit và lai hóa graphene
oxit giảm dần theo số chu kỳ quét. Sự suy giảm điện
dung của vật liệu khi tăng số chu kỳ quét CV có thể
do hai nguyên nhân: (i) Do sự ăn mòn vật liệu trong
quá trình hoạt động; (ii) Do sự suy giảm đặc tính cài
và giải cài của vật liệu trong quá trình quét CV [22].
Nếu quá trình cài và giải cài diễn ra thuận lợi và
sự thay đổi thể tích của oxit khi cài và giải cài là nhỏ,
không đáng kể, không làm tăng điện trở kết nối giữa
các hạt tinh thể thì điện dung riêng của vật liệu sau
500 chu kỳ quét CV sẽ giảm xuống ít hơn.
Từ các kết quả trên ta thấy, độ bền phóng nạp
của vật liệu composite mangan đioxit/ graphene oxit
là tốt nhất, hay nói cách khác việc lai hóa với
graphene oxit đã nâng cao điện dung riêng và độ bền
phóng nạp của mangan đioxit. Điều này có thể do
graphene oxit thêm vào làm tăng độ xốp, độ dẫn và
hiệu ứng tụ lớp kép cho vật liệu tổng hợp.
Bảng 4. Sự phụ thuộc của điện dung riêng vào số chu
kỳ quét thế
Chu kỳ
Điện dung của vật liệu (F/g)
Mẫu M Mẫu G Mẫu N
10 231,05 278,53 250,42
100 213,85 256,60 212,52
200 209,40 255,07 178,98
300 195,19 227,09 172,53
400 184,16 229,78 157,59
500 171,92 230,49 152,23
Độ bền
phóng nạp
sau 500 CV
73,81% 82,23% 60,11%
3.2.3. Phóng nạp ở dòng không đổi
Kết quả đường biểu diễn mối quan hệ giữa điện
thế và thời gian (hình 6) của cả ba mẫu đều có dạng
tam giác cân - dạng đặc trưng cho đường phóng nạp
của siêu tụ lí tưởng. Mẫu G là mẫu composite
mangan đioxit / graphene oxit có dạng cân nhất cho
thấy tính thuận nghịch tốt nhất. Nhìn chung, ở mật độ
dòng thấp (0,5 mA/cm2), cả 3 mẫu đều cho đường
biểu thị có dạng tam giác cân hơn so với phóng nạp ở
mật độ dòng cao.
Từ các dữ liệu phóng nạp sau 500 chu kỳ của
các đồ thị hình 6, đã tính được hiệu suất phóng nạp
(hiệu suất culong) của các vật liệu, kết quả được thể
hiện trong bảng 5. Hiệu suất culong của chế độ phóng
nạp với mật độ dòng thấp cao hơn ở chế độ mật độ
dòng cao. Điều này là do ở tốc độ phóng nạp cao, quá
trình giải cài các ion không kịp thoát ra nên thời gian
phóng thấp hơn, thời gian phóng thấp nên hiệu suất
culong của mẫu cũng thấp. Khi mật độ dòng tăng từ
0,5 mA/cm2 đến 5 mA/cm2 thì mẫu N có hiệu suất
culong giảm nhanh nhất, mẫu G giảm ít nhất.
Mẫu G có hiệu suất culong cao nhất ở mật độ
dòng phóng nạp 5 mA/cm2 vì độ xốp của vật liệu
magan đioxit được tăng nhiều khi lai hóa graphene
oxit, giúp cho ion giải cài thoát ra dễ dàng hơn các
mẫu còn lại. Riêng mẫu N, hiệu suất phóng nạp lớn
hơn 100% có thể là do ở các chu kỳ nạp ban đầu, điện
tích được nạp đầy, các ion khó giải cài hoàn toàn, vì
vậy được tích lại. Đến các chu kỳ sau (sau 500 chu
kỳ), quá trình cài và giải cài đều dễ dàng và các ion
còn tích lại ở chu kỳ trước được giải cài ở chu kỳ sau,
dẫn đến hiệu suất phóng nạp đạt >100%.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 088-094
93
Bảng 5. Hiệu suất phóng nạp của các vật liệu ở chu kỳ 500
Dòng điện
Hiệu suất
(%)
0,5
(mA/cm2)
1
(mA/cm2)
1,5
(mA/cm2)
2
(mA/cm2)
5
(mA/cm2)
Mẫu M 99,22 89,64 88,60 84,80 73,67
Mẫu G 99,92 99,86 92,33 91,06 82,40
Mẫu N 114,49 86,32 84,40 81,34 58,99
Hình 6. Đường phóng nạp của vật liệu mangan đioxit
(a); mangan đioxit lai hóa graphene oxit (b) và
mangan đioxit pha tạp niken oxit (c)
Như vậy, việc pha tạp niken oxit và lai hóa
graphene oxit đã làm tăng điện dung riêng của vật liệu
mangan đioxit. Điều này có thể do: (i) khi kim loại
chuyển tiếp tham gia vào cấu trúc sẽ làm mở rộng
phạm vi thay đổi số oxy hóa của vật liệu [3]; (ii) sự
tham gia của graphene oxit vào màng MnO2 đã làm
tăng độ xốp (tăng điện dung lớp kép, nâng cao tính
thuận nghịch của vật liệu), giảm điện trở (thúc đẩy quá
trình Faraday) [1,12]. Vì vậy làm cho quá trình cài và
giải cài được diễn ra thuận lợi hơn so với khi chưa pha
tạp / lai hóa.
Độ tăng điện dung và hiệu suất phóng nạp của
các vật liệu nghiên cứu được sắp xếp theo thứ tự: Mẫu
composite MnO2 / graphen oxit > Mẫu MnO2-NiO >
MnO2. Điều này có thể do vật liệu composite MnO2 /
graphen oxit có độ xốp lớn nhất và độ dẫn cao hơn cả
trong 3 mẫu M, G và N.
4. Kết luận
Đã tổng hợp thành công vật liệu mangan đioxit
và mangan đioxit pha tạp niken oxit và lai hóa
graphene oxit cấu trúc nano (30 ÷ 40 nm) bằng
phương pháp điện hóa.
Vật liệu mangan đioxit có điện dung riêng đạt
Cmax = 349,93 F/g (v = 5 mV/s), độ bền phóng nạp là
73,81% sau 500 chu kỳ quét CV.
Khi vật liệu mangan đioxit được pha tạp niken
oxit và lai hóa graphene oxit đã làm tăng độ xốp và
độ dẫn của vật liệu, vì vậy làm tăng điện dung riêng
của vật liệu. Độ tăng điện dung và hiệu suất phóng nạp
của các vật liệu nghiên cứu được sắp xếp theo thứ tự:
Vật liệu composite MnO2 / graphen oxit (mẫu G) >
MnO2-NiO (mẫu N) > MnO2 (mẫu M).
Vật liệu mangan đioxit pha tạp niken oxit có
điện dung riêng đạt Cmax = 384,56 F/g (v = 5 mV/s);
Vật liệu composite MnO2 / graphen oxit có điện dung
riêng lớn nhất đạt Cmax = 412,55 F/g (v = 5 mV/s), có
độ xốp lớn nhất và độ bền phóng nạp cao nhất, đạt
82,23% sau 500 chu kỳ quét CV.
Lời cảm ơn. Công trình đã được hỗ trợ kinh phí từ
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (T2016-PC-161)
và Quỹ nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Thế
giới (TWAS) (No: 14-107RG/CHE/AS_G-Unesco
FR: 324028603).
Hình 6. Đường phóng nạp của vật liệu ma gan
đioxit (a); mangan đioxit pha tạ graphene oxit (b)
và mang n đioxit pha tạp niken oxit (c)
(a)
(b)
(c)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 088-094
94
Tài liệu tham khảo
[1]. Cheng, Q.; Tang, J.; Ma, J.; Zhang, H.; Shinya, N.;
Qin, L. C., Journal of Physical Chemistry Chemical
Physics, 13, (2011) 17615−17624.
[2]. Inagaki, M.; Konno, H.; Tanaike, O., Journal of
Power Sources, 195, (2010) 7880−7903.
[3]. Hae-Min Lee, Kangtaek Lee, Chang-Koo Kim,
Materials, 7, (2014) 265-274.
[4]. Ming - Tsung Lee, Jeng - Kuei Chang, Wen - Ta Tsai,
Chung - Kwei Lin, Journal of Power Sources, 178 (1),
(2008) 478.
[5]. Ming - Tsung Lee, Jeng - Kuei Chang, Yao-Tsung
Hsieh, Wen - Ta Tsai, Journal of Power Sources 185
(2), (2008) 1555.
[6]. Jeng Kuei Chang, Wen Chien Hsieh, Wen Ta Tsai,
Journal of Alloys and Compounds, 461 (1-2), (2008)
667-674.
[7]. Mai Thanh Tung, Hoang Thi Bich Thuy, Le Thi Thu
Hang, Journal of Nanoscience and Nanotechnology,
Vol. 15, (2015) 1-8.
[8]. Kalakodimi Rajendra Prasad, Norio miura,
Electrochemistry Communications, 6 (10), (2004)
1004-1008.
[9]. Trung Dung Dang, Arghya Narayan Banerjee, Sang
Woo Joo, and Bong-Ki Min, Industrial and
Engineering Chemistry Reaseach, (2014) 9743-9753.
[10]. Rongrong Jiang, Tao Huang, Jiali Liu, Jihua Zhuang,
Aishui Yu, Electrochimica Acta, 54 (11), (2009)
3047–3052.
[11]. Khaled Parvez, Rongjin Li, Sreenivasa Reddy
Puniredd, Yenny Hernandez, Felix Hinkel, Suhao
Wang, Xinliang Feng, and Klaus Mullen, VOL. 7,
NO. 4, (2013) 3598–3606.
[12]. Liu, C. G.; Yu, Z. N.; Neff, D.; Zhamu, A.; Jang, B.
Z., Nano Letter, 10, (2010) 4863−4868.
[13]. Chin-Yi Chen, Sheng-Chang Wang, Yue-Han Tien,
Wen-Ta Tsai, Chung-Kwei Lin, Thin Solid Films,
518, (2009) 1557–1560.
[14]. Chung-Kwei Lin, Kai-Han Chuang, Chia-Yen Lin,
Chien-Yie Tsay, Chin-Yi Chen, Surface & Coatings
Technology, 202, (2007) 1272–1276.
[15]. Suh Cem Pang, Marc A. Anderson, Thomas W.
Chapman, Journal of The Electrochemical Society,
147 (2), (2000) 444-450.
[16]. Dongfang Yang, Journal of Power Sources, Volume
228, (2012) 89-96.
[17]. Jeng Kuei Chang, Ming Tsung Lee, Chiung Hui
Huang, Wen Ta Tsai (2008), Materials Chemistry and
Physics, 108 (1), 124-131.
[18]. D.P. Dubal, W.B. Kim, C.D. Lokhande, Journal of
Physics and Chemistry of Solids, 73, (2012) 18.
[19]. H. Ashassi-Sorkhabi, E. Asghari, P. La’le
Badakhshan, Current Applied Physics, Volume 14,
Issue 2, (2014) 187-191.
[20]. Hao Chen et al., ACS Appl. Mater. Interfaces, 6 (11)
(2014) 8621–8630.
[21]. Guihua Yu et al., Nano Lett., 11 (10) (2011) 4438-
4442.
[22]. S.L.Kuo, J.F. Lee, N.L. Wu, Journal of the
Electrochemical Society, 154, (2007) A34.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 016_17_074_1882_2095468.pdf