KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Trồng xà lách trên kệ 3 tầng trong nhà lưới, sử
dụng tối đa ánh sáng tự nhiên, chiếu sáng bổ sung
đèn LED 16, 18 và 20 giờ/ngày đêm đạt cao nhất về
năng suất thương phẩm (hơn 91 - 94 % so với bổ
sung 10 giờ, hơn 45 - 48 % so với bổ sung 12 giờ,
hơn 15 - 18% so với bổ sung 14 giờ, ở 31 NSKG),
năng suất tổng, khối lượng cây, số lá trên cây và
chiều rộng lá. Chiếu sáng bổ sung đèn LED 10 giờ/
ngày đêm cho năng suất thương phẩm (1,62 kg/m2 ở
31 NSKG), năng suất tổng, khối lượng cây, số lá
trên cây và chiều rộng lá thấp nhất. Hàm lượng chất
rắn hòa tan (Brix) và hàm lượng chất khô của cây
tương đương nhau ở các mức thời gian chiếu sáng từ
10 - 20 giờ/ngày đêm. Số lá và chiều rộng lá xà lách
có khuynh hướng tăng cùng với sự gia tăng thời gian
chiếu đèn LED và đạt cao nhất ở các nghiệm thức bổ
sung 16, 18 và 20 giờ/ngày đêm.
4.2. Đề nghị
Tiếp tục nghiên cứu vào các mùa vụ khác nhau
trong năm để có kết luận tổng quát hơn về mức
thời gian chiếu bổ sung đèn LED phù hợp cho sinh
trưởng và phát triển của cây xà lách mà vẫn đảm bảo
hiệu quả kinh tế.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của thời gian chiếu bổ sung đèn led đến sinh trưởng và năng suất xà lách trồng thủy canh nhiều tầng trong nhà lưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Saad Sulieman, Chien Van Ha, Maryam Nasr
Esfahani,1,4 Yasuko Watanabe, Rie Nishiyama,
Chung Thi Bao Pham, Dong Van Nguyen, and
Lam-Son Phan Tran, 2015. Research Article
DT2008: A Promising New Genetic Resource for
Improved Drought Tolerance in Soybean When
Solely Dependent on Symbiotic N2 Fixation.
Hindawi Publishing Corporation BioMed Research
International, Vol. 2015, Article ID 687213, 7 pages.
Chien Ha Van, Dung Tien Le, Rie Nishiyama, Yasuko
Watanabe, Uyen Thi Tran, Nguyen Van Dong, and
Lam-Son Phan Tran, 2012. Characterization of
the Newly Developed Soybean Cultivar DT2008 in
Relation to the Model Variety W82 Reveals a New
Genetic Resource for Comparative and Functional
Genomics for Improved Drought Tolerance. Journal
of Biomedicine and Biotechnology, Vol. 2012.
Improvement of soybean variety DT2008
by gamma (CO60) irradiation on germination seeds
Pham Thi Bao Chung, Nguyen Van Manh
Le Duc Thao, Le Thi Anh Hong, Pham Thi Xuan
Abstract
With the aim of improving soybean variety DT2008 to shorten its growth duration and create new benefit mutants
for soybean breeding, germination seeds were treated by gamma (Co60) irradiation. At M7 generation, 10 mutant
lines derived from 25 and 50 Gy with significant traits for soybean breeding were selected, including 2 short mutant
lines with the stem height of 63.7 to 64.1 cm (5.7 - 6.1 cm shorter than DT2008’s (69.8 cm)), 1 multi-branch mutant
line (1.4 branches more than the origin) and 7 early ripening mutant lines with the growth duration of 103 to 106
days (6 - 9 days shorter than DT2008’s (112 days)). All these mutant lines had high yield of 13.24 - 14.51 g/plant,
equal to the yield of DT2008 (14.34 g/plant).
Keywords: DT2008, soybean, mutant, gamma, irradiation
Ngày nhận bài: 27/2/2019
Ngày phản biện: 6/3/2019
Người phản biện: PGS.TS. Ninh Thị Phíp
Ngày duyệt đăng: 15/4/2019
1 Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI GIAN CHIẾU BỔ SUNG ĐÈN LED
ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT XÀ LÁCH
TRỒNG THỦY CANH NHIỀU TẦNG TRONG NHÀ LƯỚI
Phan Ngọc Nhí1, Trần Thị Ba1, Võ Thị Bích Thủy1,
Mai Phúc Thạnh1, Nguyễn Phương Uyên1 và Nguyễn Thị Anh Thư1
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định thời gian chiếu bổ sung đèn LED (Light-emitting diode) phù hợp cho sinh trưởng và
năng suất xà lách trồng thủy canh nhiều tầng trong nhà lưới. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên một nhân
tố với 6 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức 9 lần lặp lại (mỗi lặp lại là 8 rọ thủy canh chuyên dụng trồng 1 cây/rọ).
Sáu nghiệm thức là 6 mức thời gian chiếu bổ sung đèn LED gồm: 10; 12; 14; 16; 18 và 20 giờ/ngày đêm. Kết quả thí
nghiệm cho thấy, các nghiệm thức thời gian chiếu bổ sung đèn LED không làm ảnh hưởng đến chiều cao cây và
chiều dài lá. Tuy nhiên, số lá và chiều rộng lá có khuynh hướng tăng cùng với sự gia tăng của thời gian chiếu đèn.
Ở các thời điểm thu hoạch 25; 28 và 31 ngày sau khi gieo, nghiệm thức bổ sung 16 giờ cho kết quả khối lượng trung
bình cây (20,4; 30,6 và 39,9 g/cây, tương ứng), năng suất tổng (1,65 kg/m2, 2,48 kg/m2 và 3,23 kg/m2, tương ứng) và
năng suất thương phẩm (1,61 kg/m2, 2,45 kg/m2 và 3,15 kg/m2, tương ứng ở các thời điểm thu hoạch) cao tương
đương nghiệm thức chiếu bổ sung 18 và 20 giờ. Không tìm thấy ảnh hưởng khác biệt của thời gian chiếu sáng bổ
sung đèn LED đến độ Brix (2,64 - 2,80%) và hàm lượng chất khô có trong xà lách (4,26 - 4,54%).
Từ khóa: Đèn LED, năng suất, thời gian chiếu bổ sung, thủy canh nhiều tầng, xà lách
44
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, đèn LED được xem là một nguồn ánh
sáng nhân tạo tối ưu trong việc thay thế ánh sáng
mặt trời cho cây quang hợp (Shimizu et al., 2011).
Với nhiều ưu điểm nổi bật như: tiêu hao ít điện năng,
kích thước nhỏ, tuổi thọ kéo dài và nhiệt lượng tỏ
ra thấp hơn các loại đèn huỳnh quang và đèn cao
áp (Gupta and Jatothu, 2013; Tewolde et al., 2016),
đèn LED đã và đang được ứng dụng trong sản xuất
ở nhiều quốc gia có nền nông nghiệp phát triển
(Stutte, 2009). Đèn LED có thể được chế tạo riêng
biệt cho mục đích phục vụ sản xuất nông nghiệp và
có thể tạo được hiệu quả sản xuất của cây trồng tối
đa mà không cần lãng phí nguồn năng lượng cho các
bước sóng không cần thiết cho cây trồng (Tamulaitis
et al., 2005). Nguồn ánh sáng bằng đèn LED có hiệu
quả hơn ánh sáng đèn huỳnh quang trong việc thúc
đẩy sinh trưởng và phát triển của một số loại rau
(Li et al., 2012), nguyên nhân là do đèn LED có thể
tạo ra bước sóng ánh sáng tối ưu cho quá trình quang
hợp của thực vật. Nguồn ánh sáng LED bắt đầu được
nghiên cứu, ứng dụng và thay thế nguồn ánh sáng
đèn huỳnh quang được sử dụng trong các mô hình
sản xuất rau trong nhà ở Nhật Bản từ những năm
2000 (Hayashi, 2016).
Ở Việt Nam, ứng dụng đèn LED trong sản xuất
một số loại ra ăn lá phổ biến bắt đầu được quan
tâm, nghiên cứu trong những năm gần đây. Các kết
quả nghiên cứu bước đầu cho thấy, trong điều kiện
phòng tối hoàn toàn nếu sử dụng đèn LED 80% đỏ:
20% xanh dương với cường độ 66 μmol.m-2.s-1 trong
thời gian chiếu 16 giờ/ngày đêm cho kết quả về sinh
trưởng và năng suất cao hơn trong điều kiện ánh sáng
tự nhiên (Phan Ngọc Nhí và ctv., 2018), đồng thời
khi tăng cường độ chiếu sáng lên 107 μmol.m-2.s-1
và thời gian chiếu sáng đến 22 giờ/ngày đêm làm
cho năng suất xà lách cao nhất (Nguyễn Thị Kiều
Khuyên, 2018). Tuy nhiên, việc chiếu đèn LED quá
nhiều giờ trong ngày sẽ tiêu hao nhiều điện năng,
làm tăng chi phí sản xuất, đồng thời sẽ làm giảm tuổi
thọ đèn LED. Chính vì thế, nghiên cứu “Ảnh hưởng
của thời gian chiếu bổ sung đèn LED đến sinh
trưởng và năng suất xà lách (Lactuca sativa L.) trồng
thủy canh nhiều tầng trong nhà lưới” được thực hiện
nhằm mục tiêu xác định thời gian bổ sung ánh sáng
nhân tạo LED phù hợp cho sinh trưởng và năng suất
xà lách, đồng thời đảm bảo sử dụng tối đa nguồn
ánh sáng tự nhiên.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Giống xà lách GN 63 (cung cấp bởi công ty Gino)
được chọn để thực hiện thí nghiệm, là giống xà lách
búp chiụ nhiệt tương đối thích hợp với điều kiện
khí hậu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Loại
đèn LED sử dụng trong thí nghiệm có tỷ lệ 80%
đỏ : 20% xanh dương được cung cấp bởi công ty Cổ
phần Phích nước Bóng đèn Rạng Đông. Cường độ
đèn LED được chọn sử dụng trong thí nghiệm là
107 μmol.m-2.s-1 (gồm 3 thanh đèn có công suất 25 w).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên
1 nhân tố với 6 nghiệm thức và 9 lần lặp lại, mỗi
lặp lại là 8 rọ xà lách thủy canh chuyên dụng (chiều
cao 5,5 cm, đường kính miệng 5,5 cm, đường kính
đáy 4 cm) trồng 1 cây/rọ. Sáu nghiệm thức là 6 mức
thời gian chiếu bổ sung đèn LED gồm: 10, 12, 14,
16, 18 và 20 giờ/ngày đêm. Dinh dưỡng thủy canh
là dung dịch Hoagland cải tiến (cung cấp bởi phòng
thí nghiệm thuộc Bộ môn Khoa học cây trồng, Khoa
Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ). Có 6 kệ
trồng xà lách (Kích thước cao 1,6 m, dài 1,3 m và
rộng 0,6 m), tương ứng 6 mức thời gian chiếu bổ
sung đèn LED, có 3 tầng trồng rau/kệ, lắp 3 thanh
đèn LED/tầng, mức cường độ ánh sáng trung bình
là 107 μmol.m-2.s-1/tầng. Mỗi kệ được gắn với 1 thiết
bị điều chỉnh thời gian tắt mở đèn (timer) theo các
nghiệm thức thí nghiệm. Thời gian chiếu đèn tập
trung vào chiều tối đến sáng sớm hôm sau nhằm tận
dụng tối đa nguồn ánh sáng tự nhiên vào buổi trưa.
- Số liệu được thu thập vào các thời điểm 12, 18,
24 và 30 và 31 ngày sau khi gieo (NSKG), gồm các
chỉ tiêu: chiều cao cây, số lá thật và kích thước lá;
các chỉ tiêu như khối lượng trung bình cây, năng
suất tổng, năng suất thương phẩm, độ Brix (dùng
Brix kế) và hàm lượng chất khô được thu thập vào
các thời điểm 25, 28, 31 NSKG. Số liệu sau khi thu
thập được xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 22.0.
Phân tích phương sai ANOVA để đánh giá sự khác
biệt của các nghiệm thức. Kiểm định Duncan được
sử dụng để so sánh các giá trị trung bình ở độ tin
cậy 95%.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 12/2018 -
tháng 1/2019 tại nhà lưới, Trại Nghiên cứu và Thực
nghiệm nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.
45
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Hình 1. Các kệ trồng xà lách có bổ sung ánh sáng đèn LED trong thí nghiệm
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình sinh trưởng
Kết quả bảng 1 cho thấy, chiều cao cây xà lách
ở các thời gian chiếu sáng bổ sung đèn LED khác
biệt không ý nghĩa phân tích thống kê vào các thời
điểm khảo sát, dao động từ 4,82 đến 4,93 cm ở thời
điểm 12 NSKG. Vào thời điểm 30 NSKG, chiều cao
cây xà lách ở các nghiệm thức dao động từ 17,5 đến
18,4 cm. Như vậy, với điều kiện trồng xà lách thủy
canh nhiều tầng trong nhà lưới, thời gian bổ sung
đèn LED từ 10 - 20 giờ không làm ảnh hưởng đến
chiều cao cây. Chiều cao cây là một chỉ tiêu quan
trọng trong sản xuất rau nhiều tầng. Thông thường
các loại cây được chọn để sản xuất có chiều cao ngắn
hơn 30 cm, vì khoảng cách giữa các tầng là khoảng
40 cm để có thể trồng được nhiều tầng trên đơn vị
diện tích (Kozai, 2013).
Bảng 1. Chiều cao cây xà lách ở các nghiệm thức
thời gian bổ sung ánh sáng khác nhau qua các NSKG
Thời gian
bổ sung
đèn LED
Chiều cao cây xà lách
qua các NSKG (cm)
12 18 24 30
Bổ sung 10 giờ 4,90 11,7 14,4 17,5
Bổ sung 12 giờ 4,93 11,9 14,7 17,6
Bổ sung 14 giờ 4,84 11,7 14,8 18,4
Bổ sung 16 giờ 4,84 11,7 14,7 18,1
Bổ sung 18 giờ 4,82 11,7 14,8 18,1
Bổ sung 20 giờ 4,82 12,0 14,6 17,8
F ns ns ns ns
CV (%) 3,80 3,13 2,70 4,01
Ghi chú: Các bảng 1, 3, 8: ns: khác biệt không ý nghĩa
thống kê (P>0,05).
Số lá thật trên cây xà lách ở các nghiệm thức
thời gian chiếu sáng bổ sung đèn LED khác biệt có
ý nghĩa qua phân tích thống kê vào các thời điểm
khảo sát (Bảng 2). Ở thời điểm 12 NSKG, các nghiệm
thức bổ sung 16, 18 và 20 giờ cho số lá trung bình
trên cây (2,46 - 2,53 lá) cao hơn khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với các nghiệm thức bổ sung 10, 12 và
14 giờ (2,11 - 2,18 lá). Vào thời điểm 18 và 24 NSKG,
số lá trên cây xà lách trong điều kiện bổ sung 20 giờ
cho thấy sự gia tăng vượt trội (8,34 và 12,8 lá, tương
ứng) so với các nghiệm thức còn lại. Tuy nhiên, đến
thời điểm 30 NSKG, các nghiệm thức bổ sung 16 và
18 giờ cho kết quả số lá xà lách (15,8 và 16,0 lá) cao
tương đương nghiệm thức bổ sung 20 giờ (16,3 lá)
và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm
thức chiếu bổ sung 10, 12 và 14 giờ. Theo Nguyễn
Bảo Vệ và Nguyễn Huy Tài (2010), lá là cơ quan
quang hợp chủ yếu và khoảng 90 - 95% năng suất cây
trồng là do quang hợp, cây có lá càng nhiều thì hiệu
suất quang hợp càng tốt góp phần rất lớn cho sự gia
tăng năng suất. Sự khác biệt về số lá trên cây xà lách
có thể sẽ dẫn đến sự khác biệt về chỉ tiêu khối lượng
trung bình cây năng suất khi thu hoạch.
Bảng 2. Số lá trên cây xà lách ở các nghiệm thức
thời gian bổ sung ánh sáng khác nhau qua các NSKG
Thời gian
bổ sung
đèn LED
Số lá trên cây xà lách
qua các NSKG (lá)
12 18 24 30
Bổ sung 10 giờ 2,18b 6,74c 10,1d 10,7c
Bổ sung 12 giờ 2,14b 7,14b 10,2d 11,2c
Bổ sung 14 giờ 2,11b 7,19b 10,8c 12,2b
Bổ sung 16 giờ 2,46a 7,47b 11,8b 15,8a
Bổ sung 18 giờ 2,53a 7,38b 12,1b 16,0a
Bổ sung 20 giờ 2,50a 8,34a 12,8a 16,3a
F ** ** ** **
CV (%) 5,45 4,87 4,03 5,09
Ghi chú: Các bảng 2, 4, 5, 6, 7: Trong cùng một cột các
số có chữ theo sau giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa
thống kê qua phép thử Duncan; **: khác biệt có ý nghĩa
thống kê ở mức 1%.
46
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Chiều dài lá thật xà lách ở các nghiệm thức thời
gian chiếu sáng bổ sung đèn LED khác biệt không ý
nghĩa qua phân tích thống kê vào các thời điểm 12,
18, 24 và 30 NSKG (Bảng 3). Ở thời điểm 12 NSKG,
chiều dài lá xà lách dao động từ 2,52 - 2,68 cm và
tăng dần lên 12,6 - 12,8 cm vào thời điểm 30 NSKG.
Bảng 3. Chiều dài lá xà lách ở các nghiệm thức
thời gian bổ sung ánh sáng khác nhau qua các NSKG
Thời gian
bổ sung
đèn LED
Chiều dài lá xà lách
qua các NSKG (cm)
12 18 24 30
Bổ sung 10 giờ 2,55 9,61 11,4 12,6
Bổ sung 12 giờ 2,52 9,66 11,8 12,8
Bổ sung 14 giờ 2,52 9,74 11,5 12,7
Bổ sung 16 giờ 2,60 9,50 11,8 12,7
Bổ sung 18 giờ 2,68 9,44 11,7 12,8
Bổ sung 20 giờ 2,65 9,62 11,7 12,6
F ns ns ns ns
CV (%) 6,23 3,16 3,10 2,38
Bảng 4. Chiều rộng lá xà lách ở các nghiệm thức
thời gian bổ sung ánh sáng khác nhau qua các NSKG
Thời gian
bổ sung
đèn LED
Chiều rộng lá xà lách
qua các NSKG (cm)
12 18 24 30
Bổ sung 10 giờ 1,54d 5,97d 8,35c 9,43c
Bổ sung 12 giờ 1,56cd 6,26c 8,94b 10,0b
Bổ sung 14 giờ 1,62c 6,79b 9,15b 10,7a
Bổ sung 16 giờ 1,75b 6,98b 10,1a 10,9a
Bổ sung 18 giờ 1,85a 7,60a 10,3a 11,0a
Bổ sung 20 giờ 1,84a 7,48a 10,3a 10,8a
F ** ** ** **
CV (%) 4,17 3,52 3,40 4,17
Kết quả bảng 4 cho thấy, chiều rộng lá xà lách ở
các nghiệm thức thời gian bổ sung đèn LED khác
biệt có ý nghĩa thống kê vào các thời điểm khảo
sát. Ở thời điểm 12 và 18 NSKG, nghiệm thức bổ
sung 18 và 20 giờ cho kết quả chiều rộng lá lớn nhất
(7,60 và 7,48 cm, tương ứng ở 18 NSKG), thấp nhất
là ở nghiệm thức bổ sung 10 giờ. Nhưng đến thời
điểm 30 NSKG, không có sự khác biệt qua phân
tích thống kê về chiều rộng của xà lách được trồng
trong điều kiện bổ sung đèn LED 14, 16, 18 và
20 giờ/ngày đêm (10,7 - 11,0 cm). Kết quả thấp nhất
vẫn được tìm thấy ở nghiệm thức bổ sung 10 giờ
(9,43 cm). Bên cạnh số lá, chiều dài và chiều rộng
lá cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng
sinh trưởng của cây trồng. Cây có nhiều lá, kích
thước lá lớn thì khả năng nhận ánh sáng và quang
hợp tốt hơn. Sự khác biệt về kích thước lá sẽ dẫn đến
sự khác biệt năng suất về sau bởi theo Lê Văn Hòa và
Nguyễn Bảo Toàn (2004), ngoài số lượng lá trên cây,
kích thước lá cũng rất quan trọng trong việc nhận
năng lượng ánh sáng mặt trời làm gia tăng cường độ
quang hợp.
3.2. Thành phần năng suất và năng suất
Khối lượng trung bình cây xà lách ở các nghiệm
thức thời gian bổ sung ánh sáng khác biệt có ý
nghĩa qua phân tích thống kê ở 3 thời điểm khảo
sát, cao nhất và tương đương nhau là các nghiệm
thức bổ sung 16, 18 và 20 giờ/ngày đêm, dao động từ
20,4 - 22,0 g/cây ở 25 NSKG đến 39,5 - 40,1 g/cây
ở 31 NSKG, kế đến là nghiệm thức bổ sung 12 giờ/
ngày đêm (15,4 - 27,0 g/cây, tương ứng), thấp nhất
là nghiệm thức bổ sung 10 giờ/ngày đêm (12,6 - 20,6
g/cây) (Bảng 5). Kết quả này có cùng khuynh hướng
chỉ tiêu số lá và chiều rộng lá.
Bảng 5. Khối lượng trung bình cây xà lách
ở các nghiệm thức thời gian bổ sung ánh sáng
khác nhau qua các NSKG
Thời gian
bổ sung
đèn LED
Khối lượng trung bình
cây xà lách qua các NSKG (g/cây)
25 28 31
Bổ sung 10 giờ 12,6d 18,1d 20,6d
Bổ sung 12 giờ 15,4c 22,4c 27,0c
Bổ sung 14 giờ 18,4b 27,6b 34,1b
Bổ sung 16 giờ 20,4a 30,6a 39,9a
Bổ sung 18 giờ 22,0a 30,0a 40,1a
Bổ sung 20 giờ 20,4a 30,1a 39,5a
F ** ** **
CV (%) 10,7 8,92 8,99
Năng suất xà lách ở các nghiệm thức thời gian
chiếu sáng bổ sung đèn LED khác biệt có ý nghĩa
qua phân tích thống kê vào các thời điểm 25, 28 và
31 NSKG (Bảng 6). Nhìn chung, ở cả 3 thời điểm
thu hoạch, năng suất xà lách ở các nghiệm thức bổ
sung 16, 18 và 20 giờ cho kết quả tương đương nhau
(1,65 - 1,78 kg/m2; 2,43 - 2,48 kg/m2; 3,20 - 3,25 kg/m2,
tương ứng) và cao hơn khác biệt thống kê so với các
nghiệm thức bổ sung 14 giờ (1,49 kg/m2, 2,24 kg/m2
và 2,76 kg/m2, tương ứng ở 25, 28 và 31 NSKG).
Nghiệm thức bổ sung 10 giờ cho kết quả năng suất xà
lách thấp nhất (1,02 kg/m2, 1,46 kg/m2 và 1,67 kg/m2,
tương ứng). Kết quả này hoàn toàn phù hợp với các
chỉ tiêu về sinh trưởng và khối lượng trung bình cây.
Cây xà lách có lá nhiều, kích thước lá lớn dẫn đến
khối lượng cây lớn và năng suất cao.
47
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Bảng 6. Năng suất tổng xà lách ở các nghiệm thức
thời gian bổ sung ánh sáng khác nhau qua các NSKG
Thời gian
bổ sung
đèn LED
Năng suất tổng xà lách
qua các NSKG (kg/m2)
25 28 31
Bổ sung 10 giờ 1,02d 1,46d 1,67d
Bổ sung 12 giờ 1,24c 1,81c 2,18c
Bổ sung 14 giờ 1,49b 2,24b 2,76b
Bổ sung 16 giờ 1,65a 2,48a 3,23a
Bổ sung 18 giờ 1,78a 2,43a 3,25a
Bổ sung 20 giờ 1,65a 2,44a 3,20a
F ** ** **
CV (%) 10,73 8,97 9,03
Kết quả bảng 7 cho thấy, năng suất thương phẩm
xà lách ở các nghiệm thức thời gian chiếu sáng bổ
sung đèn LED khác biệt có ý nghĩa qua phân tích
thống kê vào các thời điểm thu hoạch. Khuynh
hướng tương tự như chỉ tiêu năng suất tổng, các
nghiệm thức bổ sung 16, 18 và 20 cho năng suất
thương phẩm (dao động 1,61- 1,73 kg/m2, 2,39 -
2,45 kg/m2, 3,09 - 3,15 kg/m2, tương ứng ở 25, 28 và
31 NSKG) cao hơn các nghiệm thức còn lại. Nghiệm
thức bổ sung 10 giờ luôn cho kết quả năng suất
thương phẩm xà lách thấp nhất.
Bảng 7. Năng suất thương phẩm xà lách
ở các nghiệm thức thời gian bổ sung ánh sáng
khác nhau qua các NSKG
Thời gian
bổ sung
đèn LED
Năng suất thương phẩm xà lách
qua các NSKG (kg/m2)
25 28 31
Bổ sung 10 giờ 1,02d 1,45d 1,62d
Bổ sung 12 giờ 1,22c 1,79c 2,13c
Bổ sung 14 giờ 1,46b 2,20b 2,68b
Bổ sung 16 giờ 1,61ab 2,45a 3,15a
Bổ sung 18 giờ 1,73a 2,39a 3,15a
Bổ sung 20 giờ 1,60ab 2,40a 3,09a
F ** ** **
CV (%) 10,76 8,98 8,90
3.3. Một số chỉ tiêu về chất lượng
Độ Brix và hàm lượng chất khô của xà lách ở
các nghiệm thức thời gian chiếu sáng bổ sung đèn
LED khác biệt không ý nghĩa qua phân tích thống kê
(Bảng 8). Độ Brix xà lách dao động từ 2,64 - 2,80%
và hàm lượng chất khô dao động từ 4,26 - 4,54%. Có
thể nhận thấy, trong điều kiện trồng xà lách nhiều
tầng trong nhà lưới, việc chiếu bổ sung đèn LED từ
10 đến 20 giờ không làm ảnh hưởng đến lượng chất
rắn hòa tan và hàm lượng xơ có trong cây xà lách.
Bảng 8. Độ Brix và hàm lượng chất khô xà lách
ở các nghiệm thức thời gian bổ sung
ánh sáng khác nhau qua các NSKG
Thời gian bổ sung
đèn LED Độ Brix (%)
Hàm lượng
chất khô (%)
Bổ sung 10 giờ 2,68 4,31
Bổ sung 12 giờ 2,67 4,26
Bổ sung 14 giờ 2,72 4,35
Bổ sung 16 giờ 2,64 4,54
Bổ sung 18 giờ 2,72 4,47
Bổ sung 20 giờ 2,80 4,49
F ns ns
CV (%) 7,84 5,97
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Trồng xà lách trên kệ 3 tầng trong nhà lưới, sử
dụng tối đa ánh sáng tự nhiên, chiếu sáng bổ sung
đèn LED 16, 18 và 20 giờ/ngày đêm đạt cao nhất về
năng suất thương phẩm (hơn 91 - 94 % so với bổ
sung 10 giờ, hơn 45 - 48 % so với bổ sung 12 giờ,
hơn 15 - 18% so với bổ sung 14 giờ, ở 31 NSKG),
năng suất tổng, khối lượng cây, số lá trên cây và
chiều rộng lá. Chiếu sáng bổ sung đèn LED 10 giờ/
ngày đêm cho năng suất thương phẩm (1,62 kg/m2 ở
31 NSKG), năng suất tổng, khối lượng cây, số lá
trên cây và chiều rộng lá thấp nhất. Hàm lượng chất
rắn hòa tan (Brix) và hàm lượng chất khô của cây
tương đương nhau ở các mức thời gian chiếu sáng từ
10 - 20 giờ/ngày đêm. Số lá và chiều rộng lá xà lách
có khuynh hướng tăng cùng với sự gia tăng thời gian
chiếu đèn LED và đạt cao nhất ở các nghiệm thức bổ
sung 16, 18 và 20 giờ/ngày đêm.
4.2. Đề nghị
Tiếp tục nghiên cứu vào các mùa vụ khác nhau
trong năm để có kết luận tổng quát hơn về mức
thời gian chiếu bổ sung đèn LED phù hợp cho sinh
trưởng và phát triển của cây xà lách mà vẫn đảm bảo
hiệu quả kinh tế.
48
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Văn Hoà và Nguyễn Bảo Toàn, 2004. Giáo trình
sinh lý thực vật. Khoa Nông nghiệp & Sinh học Ứng
dụng, Trường Đại học Cần Thơ. 318 trang.
Nguyễn Thị Kiều Khuyên, 2018. Ảnh hưởng của ánh
sáng đèn LED (Light - Emiting Diodes) đến sự sinh
trưởng và năng suất xà lách (Lactuca sativa L.). Luận
văn cao học. Trường Đại học Cần Thơ. Thành phố
Cần Thơ.
Phan Ngọc Nhí, Nguyễn Thị Kiều Khuyên, Trần
Thanh Hậu, Võ Thị Bích Thủy, Trần Thị Ba, 2018.
Ảnh hưởng của quang phổ đèn LED đến sự sinh
trưởng và năng suất xà lách thủy canh. Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, số chuyên đề: Phát
triển nông nghiệp bền vững trong tác động của biến
đổi khí hậu: Thách thức và cơ hội (tháng 8/2018):
199-205.
Nguyễn Bảo Vệ và Nguyễn Huy Tài, 2010. Dinh dưỡng
khoáng cây trồng. Nhà xuất bản Nông nghiệp thành
phố Hồ Chí Minh. 204 trang.
Gupta, S.D. and B. Jatothu, 2013. Fundamentals and
application of light - emitting diodes (LEDs) in
invitro plant growth and morphogenesis. Plant
Biotechnol Rep, 7: 211-220.
Hayashi, E., 2016. Current Status of Commercial Plant
Factories with LED Lighting Market in Asia, Europe,
and Other Regions. In: Kozai, T., K. Fujiwara and
E.S. Runkle (Editors). LED Lighting for Urban
Agriculture. Springer Science + Business Medi
Singapore. P 295-308.
Kozai, T., 2013. Plant Factory in Japan - Current
Situation and Perspectives. Chronica horticulturae,
53 (2): 8-11.
Li, H., C. Tang, Z. Xu, X. Liu and X. Han, 2012. Effects
of Different Light Sources on the Growth of Non-
heading Chinese Cabbage (Brassica campestris L.).
Journal of Agricultural Science, 4 (4): 262-273.
Shimizu, H., Y. Saito, H. Nakashima, J. Miyasaka, and
K. Ohdoi, 2011. Light environment optimization for
lettuce growth in plant factory. IFAC World Congress.
Milano (Italy). 605-609.
Stutte, W.G., 2009. Light-emitting diodes for
manipulating the phytochrome apparatus.
Hortscience, 44: 231-234.
Tamulaitis, G., P. Duchovskis, Z. Bliznikas, K. Breivė,
R. Ulinskaitė, A. Brazaitytė, A. Novičkovas, and A.
Žukauskas, 2005. High power light-emitting diode
based facility for plant cultivation. Journal of Physics
D: Applied Physics, 38: 3182-3187.
Tewolde, F.T., N. Lu, K. Shiina, T. Maruo, M.
Takagaki, T. Kozai, and W. Yamori, 2016. Nighttime
Supplemental LED Inte-lighting Improves Growth
and Yield of Single-Truss Tomatoes by Enhacing
Photosynthesis in Both Winter and Summer. Front.
Plant Sci., 7: 448.
Effects of supplemental LED lighting regimes on growth
and yield of lettuce under multilayer hydroponic cultivation in greenhouse
Phan Ngoc Nhi, Tran Thi Ba, Vo Thi Bich Thuy,
Mai Phuc Thanh, Nguyen Phuong Uyen, Nguyen Thi Anh Thu
Abstract
This study was carried out to determine supplemental LED lighting regimes most reasonable for growth and yield of
lettuce. The experiment was laid out in completely randomized design with six treatments including: 10; 12; 14 16;
18 and 20 hours per day. Each treatment was replicated nine times. The results showed that the supplemental LED
lighting regimes didn’t affect plant height and leaf length of lettuce. However, leaf number and leaf width tended to
increase with the increase of supplemental lighting time. At harvest times 25, 28 and 31 days after sowing, 16 hour
supplemental treatments resulted in average weight of plants (20.4 g, 30.6, 39.9 g/plant, respectively), total yield
(1.65 kg/m2, 2.48 kg/m2, 3.23 kg/m2, respectively) and commercial yield (1.61 kg/m2, 2.45 kg/m2, 3.15 kg/m2,
respectively), equivalent to 18 and 20 hours supplemental treatments. There was no difference in supplemental LED
lighting time to BRIX level (2.64 - 2.80%) and lettuce dry matter ratio (4.26 - 4.54%).
Keywords: LED light, photoperiod regimes supplemental, yield, lettuce, hydroponic multistage cultivation bed
Ngày nhận bài: 17/3/2019
Ngày phản biện: 4/5/2019
Người phản biện: TS. Nguyễn Thị Kiều
Ngày duyệt đăng: 15/5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_thoi_gian_chieu_bo_sung_den_led_den_sinh_truon.pdf