Tuy nhiên, đánh giá mức độ suy giảm năng
suất tăng theo các mức thời gian gây úng kết quả
cho thấy: Gây úng 5 ngày, giống ĐXVN5, ĐXVN7,
ĐX14, ĐX11 suy giảm năng suất so với công thức
đối chứng tương ứng 13,22%, 11,58%, 17,90%,
24,36%. Tăng thời gian gây úng lên 10 ngày, giống
ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11 suy giảm năng suất
so với công thức gây úng 5 ngày tương ứng 16,30%,
12,38%; 23,27%; 5,85%. Tiếp tục tăng thời gian gây
úng lên 15 ngày, giống ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14,
ĐX11 suy giảm năng suất so với công thức gây úng
10 ngày tương ứng 14,17%; 14,59%; 12,48%; 10,55%.
Như vậy, kết quả cho thấy giống ĐX14 là giống khá
mẫm cảm với điều kiện úng biểu hiện mức độ suy
giảm tăng lên rất cao so với các giống khác khi tăng
thời gian gây úng từ 0 lên 5 và 10 ngày. Tuy nhiên
tiếp tục tăng thời gian gây úng từ 10 ngày lên 15 ngày
giống ĐX14 lại có tỷ lệ suy giảm thấp hơn so với
giống ĐXVN5, ĐXVN7.
Đánh giá về chỉ số chịu úng kết quả cũng cho
thấy chỉ số chịu úng khi gây úng 5 ngày luôn đạt giá
trị cao nhất và thấp nhất được quan sát ở các công
thức gây úng 15 ngày. So sánh giữa các giống kết quả
cũng cho thấy giống ĐXVN7 là giống có chỉ số chịu
úng đạt giá trị cao nhất ở tất cả các giai đoạn xử lý.
IV. KẾT LUẬN
Ngập úng làm suy giảm các chỉ tiêu sinh trưởng,
sinh lý dẫn đến làm suy giảm năng suất ở tất cả các
giống đậu xanh tham gia thí nghiệm. Thời gian gây
úng 15 ngày ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chỉ
tiêu sinh trưởng, sinh lý và năng suất của các giống.
Trong khi đó, thời gian gây úng 5 ngày ít ảnh hưởng
đến các chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý và năng suất của
các giống đậu xanh tham gia thí nghiệm. Đánh giá
về mức độ suy giảm năng suất cá thể so với công thức
đối chứng kết quả cho thấy thời gian gây úng 5 ngày
mức độ suy giảm năng suất cá thể ảnh hưởng ít nhất
đến của các giống ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11
tương ứng 13,22%; 11,58%; 17,90%; 24,36%. Trong
khi đó, gây úng 15 ngày ảnh hưởng nghiêm trọng
đến mức độ suy giảm năng suất cá thể của các giống
ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11 tương ứng 43,69%;
38,55%; 53,65%; 40,76%. So sánh 4 giống đậu xanh
tham gia thí nghiệm kết quả cho thấy giống ĐXVN7
có biểu hiện tốt hơn về sinh trưởng, sinh lý và năng
suất so với các giống khác trong điều kiện úng ở các
mức thời gian gây úng khác nhau.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của thời gian gây úng đến sinh trưởng, sinh lý và năng suất của đậu xanh trong điều kiện nhà lưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI GIAN GÂY ÚNG ĐẾN SINH TRƯỞNG, SINH LÝ
VÀ NĂNG SUẤT CỦA ĐẬU XANH TRONG ĐIỀU KIỆN NHÀ LƯỚI
Nguyễn Thị Dung1, Vũ Ngọc Thắng2, Lê Thị Tuyết Châm2
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của thời gian ngập úng ở giai đoạn cây ra hoa đến sinh trưởng, sinh
lý và năng suất của 4 giống đậu xanh (ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX11, ĐX14) trong điều kiện nhà lưới. Kết quả thí nghiệm
cho thấy ngập úng làm suy giảm chiều cao cây, số lá, diện tích lá, nốt sần, khối lượng tươi và khô của rễ và thân lá,
chỉ số SPAD, hiệu suất huỳnh quang diệp lục, năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất. Thời gian gây úng 5 ngày
ảnh hưởng ít nhất đến các chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý và năng suất của các giống. Trong khi đó, thời gian gây úng
15 ngày ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý và năng suất của các giống đậu xanh tham gia
thí nghiệm. Đánh giá về mức độ suy giảm năng suất cá thể so với công thức đối chứng, kết quả cho thấy thời gian gây
úng 5 ngày mức độ suy giảm năng suất cá thể ảnh hưởng ít nhất đến của các giống ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11
tương ứng 13,22%, 11,58%, 17,90%, 24,36%. Trong khi đó, gây úng 15 ngày ảnh hưởng nghiêm trọng đến mức độ
suy giảm năng suất cá thể của các giống ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11 tương ứng 43,69%; 38,55%; 53,65%; 40,76%.
So sánh 4 giống đậu xanh tham gia thí nghiệm, giống ĐXVN7 có biểu hiện tốt hơn về sinh trưởng, sinh lý và năng
suất so với các giống khác ở tất cả các mức thời gian gây úng.
Từ khóa: Đậu xanh, úng, sinh trưởng, sinh lý, năng suất
1 Học viên Cao học, Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2 Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đậu xanh (Vigna radiata L. Wilczek) là cây thực
phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và cân đối, đặc biệt
đây là cây trồng có tính thích nghi rộng (Trần Đình
Long và ctv., 1998). Cây đậu xanh là một trong các
cây họ đậu quan trọng trong hệ thống canh tác
truyền thống của vùng nhiệt đới và vùng ôn đới
(Samant, 2014). Đậu xanh có thể được trồng trên
nhiều loại đất và điều kiện khí hậu khác nhau vì nó
có khả năng chống chịu với điều kiện bất, thuận đặc
biệt là hạn (Malik et al., 2006). Tuy nhiên, đây là cây
trồng được đánh giá là mẫn cảm với úng (Singh and
Singh, 2011). Ngập úng làm suy giảm sinh trưởng,
sinh lý và dẫn đến làm giảm năng suất ở đậu xanh
(Islam et al., 2007). Nhiều công trình nghiên cứu
chỉ ra rằng có sự khác biệt về mức độ ảnh hưởng
với điều kiện ngập úng giữa các giống (Bagga et al.,
1984; Pramod Kumar et al., 2013) cũng như giai
đoạn bị ngập úng (Islam, 2010; Nguyễn Thị Dung và
ctv., 2019). Tuy nhiên, nhiều kết quả chỉ tập trung
đánh giá trên các giống riêng rẽ (Pramod Kumar
et al., 2013); cũng như trên các giai đoạn xử lý ngập
úng (Islam et al., 2010). Trong khi đó không có nhiều
công trình nghiên cứu tương tác giữa các giống và
thời gian ngập úng. Vì vậy, nghiên cứu này được tiến
hành nhằm đánh giá tương tác ảnh hưởng của thời
gian ngập úng trong điều kiện nhà lưới ở giai đoạn
ra hoa trên một số giống đậu xanh đang trồng phổ
biến thông qua một số chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý
và năng suất. Từ đó, làm cơ sở cho hướng nghiên
cứu chọn tạo giống đậu xanh chịu ngập úng.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu gồm 4 giống đậu xanh
ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX11, ĐX14. Giống ĐXVN5 do
Viện Nghiên cứu Ngô chọn tạo từ tổ hợp lai ĐX4 ˟
ĐX113. Giống ĐXVN7 do Trung tâm Nghiên cứu
và Phát triển Đậu đỗ và Viện Nghiên cứu Ngô chọn
tạo từ tổ hợp lai ĐX102 ˟ Vĩnh bảo 4. Giống ĐX11
có nguồn gốc từ Thái Lan do Trung tâm Nghiên cứu
và Phát triển Đậu đỗ chọn lọc từ năm 2004. Giống
ĐX14 do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Đậu
đỗ chọn lọc từ năm 2004.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trên chậu (đường
kính 25 cm, chiều cao 30 cm) đặt trong nhà lưới có
mái che, mỗi chậu chứa 6 kg đất. Đất thí nghiệm là
đất phù sa sông Hồng không được bồi hàng năm,
được làm sạch, phơi khô, trộn với phân bón lót
0,03 g N; 0,64 g P2O5, 0,43 g K2O/chậu. Mỗi chậu
gieo 4 - 5 hạt, phủ đất kín lên trên (hạt cách mặt chậu
3 - 4 cm) và tưới đủ ẩm (75 - 80%). Khi hạt nảy mầm
nhô khỏi mặt đất thì tỉa chỉ để lại 2 cây/chậu.
Xử lý ngập úng áp dụng theo phương pháp của
tác giả Nguyen Van Loc và cộng tác viên (2015). Thí
nghiệm gồm 2 nhân tố được bố trí theo khối ngẫu
đầy đủ (RCBD) 3 lần nhắc lại với 6 chậu cho 1 lần
nhắc lại, nhân tố 1 là thời gian gây úng (bao gồm:
0 - đối chứng; 5 ; 10; 15 ngày gây úng tại thời điểm cây
32
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
ra hoa), nhân tố 2 gồm 4 giống đậu xanh (ĐXVN5,
ĐXVN7, ĐX14, ĐX11). Cách xử lý úng: Công thức
đối chứng không gây úng, được tưới nước đầy đủ
trong suốt quá trình sinh trưởng của cây đậu xanh
(độ ẩm đất luôn duy trì 70 - 80 %). Công thức gây
úng (5; 10; 15 ngày ), tưới nước đầy đủ (độ ẩm đất
luôn duy trì 70 - 80 %), đến khi cây bước vào giai
đoạn ra hoa rộ thì tiến hành bắt đầu gây ngập, duy trì
mực nước 3 cm so với bề mặt đất trồng.
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
- Các chỉ tiêu sinh trưởng: Chiều cao cây (cm); số
lá/thân chính (lá); diện tích lá (dm2/cây); khả năng
tích lũy chất khô (g/cây); số lượng nốt sần (nốt/cây)
và khối lượng nốt sần (g/cây).
- Các chỉ tiêu sinh lý: Chỉ số diệp lục SPAD (đo bằng
máy SPAD -502, Japan); hiệu suất huỳnh quang diệp
lục (đo bằng máy Chlorophyll fluorescence metter).
- Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất:
Tổng số quả/cây (quả), khối lượng 100 hạt (g), năng
suất cá thể (g/cây).
- Chỉ số chịu ngập (HTI) = giá trị năng suất cá thể
trong điều kiện ngập/giá trị năng suất cá thể trong
điều kiện đối chứng. Giá trị năng suất cá thể của các
giống trong điều kiện đối chứng và điều kiện ngập
úng được lấy trung bình của 10 cây mẫu vào giai
đoạn thu hoạch.
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được phân tích và xử lý theo
chương trình Excel và IRRISTAT 5.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành tại nhà lưới Khoa
Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam - Trâu Quỳ,
Gia Lâm, Hà Nội từ tháng 2 đến tháng 7 năm 2018.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến một
số chỉ tiêu sinh trưởng của một số giống đậu xanh
Trong điều kiện gây úng ở các mức thời gian khác
nhau (5, 10, 15 ngày) chiều cao cây, số lá/thân chính
và diện tích lá của 4 giống đậu xanh đều có xu hướng
suy giảm rõ rệt so với công thức không gây úng
(0 ngày). Kết quả nghiên cứu này cũng tương đồng
với các kết quả nghiên cứu của các tác giả Pramod
Kumar và cộng tác viên (2013) và tác giả Amin và
cộng tác viên (2017). Tuy nhiên, so sánh giữa các
thời gian gây úng kết quả cho thấy gây úng 5 ngày
các chỉ tiêu sinh trưởng bị ảnh hưởng ít hơn so với
gây úng 10 ngày và 15 ngày. Bên cạnh đó, trong cùng
một thời gian gây úng, mỗi giống đậu xanh lại phản
ứng khác nhau; điển hình như thời gian gây úng
5 ngày giống ĐXVN7 có chiều cao cây, số lá/thân
chính đạt giá trị cao nhất. Tuy nhiên, sau khi kéo dài
thời gian gây úng lên 15 ngày thì chiều cao cây đạt
giá trị cao nhất (34,36 cm) lại được quan sát ở giống
ĐXVN5 nhưng số lá/thân chính vẫn đạt giá trị cao
nhất (8,23 lá/thân chính) ở giống ĐXVN7. So sánh
giữa các giống trong cùng một thời gian gây úng kết
quả cho thấy giống đậu xanh ĐXVN7 là giống có các
chỉ tiêu sinh trưởng đạt giá trị cao trong điều kiện
úng ở tất cả các thời gian gây úng.
Bảng 1. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến
một số chỉ tiêu sinh trưởng của một số giống đậu xanh
Thời gian
ngập úng
(ngày)
Giống
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá/
thân
chính
(lá)
Diện
tích lá
(dm2/
cây)
0
ĐXVN5 41,72 10,39 5,75
ĐXVN7 43,21 11,09 5,69
ĐX14 41,39 10,46 4,84
ĐX11 42,01 10,34 5,28
5
ĐXVN5 39,16 9,08 4,84
ĐXVN7 40,21 10,33 4,66
ĐX14 39,08 9,36 4,92
ĐX11 39,63 9,50 4,25
10
ĐXVN5 37,41 8,06 3,61
ĐXVN7 36,60 9,07 3,80
ĐX14 35,82 8,34 2,89
ĐX11 36,28 8,44 3,05
15
ĐXVN5 34,36 7,59 3,03
ĐXVN7 32,59 8,23 3,15
ĐX14 32,12 7,05 2,56
ĐX11 33,44 7,84 2,79
CV (%) 3,9 4,8 4,5
LSD0,05 TGU 1,08 0,49 0,27
LSD0,05 G 2,48 0,77 0,71
LSD0,05 G TGU 1,91 0,59 0,25
3.2. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến khả
năng tích lũy chất khô của một số giống đậu xanh
Trong điều kiện ngập úng, khả năng tích lũy
chất tươi, chất khô của tất cả các giống đậu xanh
đều suy giảm rõ rệt so với công thức không gây úng
(đối chứng) ở tất cả các thời gian gây ngập úng. Kết
quả nghiên cứu này cũng tương đồng với các kết quả
nghiên cứu trên cây đậu xanh của tác giả Pramod
Kumar và cộng tác viên (2013). Bên cạnh đó, tác
giả Cannell và cộng tác viên (1979) cũng chỉ ra rằng
ngập úng làm giảm khả năng sinh trưởng của các
cây họ đậu, ngập úng nào cũng đều cản trở sự tích
lũy chất tươi, chất khô. Tuy nhiên, so sánh giữa các
33
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
mức thời gian gây úng khác nhau kết quả cho thấy
gây úng 5 ngày làm suy giảm các khả năng tích lũy
chất tươi, chất khô ít hơn so với gây úng 10 và 15
ngày. Ngoài ra, trong cùng một thời gian gây úng
mỗi giống đậu xanh lại có xu hướng phản ứng khác
nhau, điển hình như gây úng 10 ngày giống ĐXVN7
có khối lượng chất tươi của thân lá (32,19 g/cây) và
khối lượng chất khô của rễ (0,31 g/cây) và thân lá
(6,42 g/cây) luôn đạt giá trị cao nhất. Trong khi đó
giống ĐX14 có khối lượng chất tươi và chất khô của
rễ và thân lá đạt giá trị thấp nhất.
Bảng 2. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến
khả năng tích lũy chất khô của một số giống đậu xanh
Thời gian
ngập úng
(ngày)
Giống Khối lượng tươi (g/cây)
Khối lượng
khô (g/cây)
Rễ Thân lá Rễ
Thân
lá
ĐXVN5 2,13 39,58 0,35 7,53
0
ĐXVN7 2,32 41,31 0,45 8,12
ĐX14 1,90 36,55 0,27 7,40
ĐX11 2,21 38,49 0,35 7,16
5
ĐXVN5 2,04 36,30 0,30 6,94
ĐXVN7 2,15 39,78 0,40 7,84
ĐX14 1,70 33,23 0,23 6,97
ĐX11 1,97 36,24 0,31 6,61
10
ĐXVN5 1,93 30,02 0,24 6,23
ĐXVN7 1,44 32,19 0,31 6,42
ĐX14 1,03 26,43 0,21 5,34
ĐX11 1,07 30,64 0,21 5,50
15
ĐXVN5 1,78 25,61 0,19 5,40
ĐXVN7 1,21 28,15 0,25 5,73
ĐX14 0,91 20,15 0,19 4,35
ĐX11 0,99 24,37 0,15 4,63
CV (%) 4,0 3,7 8,1 4,0
LSD0,05 TGU 0,18 1,87 0,04 0,36
LSD0,05 G 0,29 3,57 0,04 0,67
LSD0,05 G TGU 0,09 1,64 0,03 0,34
3.3. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến khả
năng hình thành nốt sần của một số giống đậu xanh
Quá trình xử lý úng đã có tác động khá rõ đến sự
hình thành nốt sần cũng như khối lượng nốt sần của
4 giống đậu xanh. Thời gian gây úng càng tăng thì
mức độ ảnh hưởng đến sự hình thanh nốt sần càng
nghiêm trọng. Nguyên nhân là ngập nước đất thiếu
oxy dẫn tới rễ cây hô hấp yếm khí, đồng thời trong
đất sản sinh ra các chất gây độc cho bộ rễ (quá trình
lên men butyric) ảnh hưởng đến hoạt động của vi
khuẩn nốt sần. Kết quả làm giảm số lượng nốt sần
trong điều kiện ngập nước. Kết quả nghiên cứu này
cũng tương tự với công trình nghiên cứu của Amin
và cộng tác viên (2015). Trong thí nghiệm này, số
lượng và khối lượng nốt sần của tất cả các giống đậu
xanh trong công thức xử lý úng đều suy giảm rõ rệt
so với công thức không gây úng (đối chứng) ở tất cả
các mức thời gian gây úng. Kết quả này tương đồng
với kết quả nghiên cứu của tác giả Pramod Kumar
và cộng tác viên (2013). Đặc biệt, khi xử lý úng
15 ngày thì tất cả các giống đậu xanh đều suy giảm
số lượng và khối lượng nốt sần là lớn nhất điển hình
như giống ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11 trong
điều kiện không gây úng số lượng nốt sần đạt 41,73;
55,95; 36,78; 32,27 nốt/cây. Khi đó, gây úng 15 ngày
số lượng nốt sần chỉ đạt 29,49; 42,12; 23,27; 20,01
nốt/cây. Trong khi đó, xử lý úng 5 ngày không có sự
sai khác có ý nghĩa về số lượng và khối lượng nốt sần
so với công thức không xử lý (đối chứng). So sánh
giữa 4 giống đậu xanh, kết quả cho thấy có sự sai
khác có ý nghĩa về số lượng và khối lượng nốt sần
giữa các giống và giữa các mức thời gian gây úng.
Bên cạnh đó giống ĐXVN7 luôn có số lượng và khối
lượng nốt sần đạt giá trị cao nhất ở tất cả các mức
thời gian xử lý úng, tiếp đến là giống ĐXVN5.
Bảng 3. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến
khả năng hình thành nốt sần của một số giống đậu xanh
Thời gian
ngập úng
(ngày)
Giống
Số lượng
nốt sần
(nốt/cây)
Khối lượng
nốt sần
(gam/cây)
0
ĐXVN5 41,73 0,35
ĐXVN7 55,95 0,38
ĐX14 36,78 0,22
ĐX11 32,27 0,38
5
ĐXVN5 38,78 0,29
ĐXVN7 52,71 0,31
ĐX14 33,89 0,18
ĐX11 29,74 0,30
10
ĐXVN5 33,53 0,21
ĐXVN7 48,36 0,24
ĐX14 27,00 0,12
ĐX11 24,37 0,24
15
ĐXVN5 29,49 0,15
ĐXVN7 42,12 0,19
ĐX14 23,27 0,10
ĐX11 20,01 0,18
CV (%) 3,9 6,8
LSD0,05 TGU 6,18 0,04
LSD0,05 G 3,07 0,04
LSD0,05 GT GU 1,89 0,02
34
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
3.4. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến một số
chỉ tiêu sinh lý của một số giống đậu xanh
3.4.1. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến chỉ
số SPAD
Trong điều kiện ngập úng chỉ số SPAD có xu
hướng giảm xuống. Đồng thời có sự sai khác giữa
các giống về chỉ số SPAD trong cùng điều kiện úng
hoặc không úng. So sánh các mức thời gian xử lý úng
khác nhau kết quả cho thấy gây úng 10 và 15 ngày
cây không có khả năng phục hồi lại chỉ số SPAD sau
10 ngày kết thúc gây úng. Tuy nhiên, ở công thức gây
úng 5 ngày chỉ số SPAD sau 10 ngày kết thúc xử lý
úng vẫn có khả năng phục hồi nhanh và đạt giá trị
gần tương đương so với công thức đối chứng (không
gây úng). Giữa 4 giống đậu xanh mức độ suy giảm
chỉ số SPAD ở giống ĐXVN7 là thấp hơn so với các
giống khác.
Hình 1. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến chỉ số SPAD của một số giống đậu xanh
sau 5 ngày xử lý úng (A), 10 ngày xử lý úng (B), 15 ngày xử lý úng (C)
3.4.2. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến hiệu
suất huỳnh quang diệp lục
Không có sự thay đổi lớn về chỉ số hiệu suất
huỳnh quang diệp lục qua các thời gian theo dõi ở
công thức đối chứng (không xử lý úng). Trong khi
đó, ở công thức gây úng chỉ số hiệu suất huỳnh
quang diệp lục của cả 4 giống đều có xu hướng giảm
mạnh. Ngày cuối cùng sau khi xử lý úng tương ứng
với ngày thứ 5 (Hình 2 A), thứ 10 (Hình 2 B) và thứ
15 (Hình 2 C) cho từng công thức xử lý, hiệu suất
huỳnh quang diệp lục của các giống đều đạt giá trị
thấp nhất. Tuy nhiên xử lý úng 15 ngày chỉ số hiệu
suất huỳnh quang diệp lục của các giống đều đạt giá
trị thấp nhất và khả năng phục hồi chỉ số hiệu suất
huỳnh quang diệp lục của các giống sau khi ngừng
gây úng cũng chậm nhất. So sánh giữa 4 giống kết
quả cho thấy giống ĐXVN7 là giống có hiệu suất
hùynh quang diệp lục ở cả 2 điều kiện bình thường
và gây úng luôn đạt giá trị cao. Giống ĐXVN5 là
giống có hiệu suất hình quang diệp lục đạt giá trị
thấp nhất trong điều kiện úng ở tất cả các thời gian
xử lý úng.
35
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Hình 2. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến hiệu suất huỳnh quang diệp lục
của một số giống đậu xanh sau 5 ngày xử lý úng (A), 10 ngày xử lý úng (B), 15 ngày xử lý úng (C)
3.5. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến năng
suất và các yếu tố cấu thành năng suất của một số
giống đậu xanh
3.5.1. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến một số
yếu tố cấu thành năng suất
Xử lý úng đã làm giảm các yếu tố cấu thành năng
suất gồm: tổng số hoa, tổng số quả, tỷ lệ đậu quả và
khối lượng 100 hạt của 4 giống đậu xanh. Có sự sai
khác có ý nghĩa giữa các giống cũng như giữa các
mức thời gian gây úng đến tổng số hoa, tổng số quả,
tỷ lệ đậu quả và khối lượng 100 hạt của 4 giống đậu
xanh. Gây úng 15 ngày ảnh hưởng lớn nhất tới các
yếu tố cấu thành năng suất, biểu hiện mức độ suy
giảm các chỉ tiêu cấu thành năng suất ở các công thức
gây úng có xu hướng cao hơn rất nhiều so với các
mức thời gian xử lý còn lại. So sánh giữa các giống
kết quả cho thấy cũng cho thấy giống ĐXVN7 có
mức độ suy giảm về các chỉ tiêu này trong điều kiện
ngập úng thấp hơn so với các giống khác trong cùng
một giai đoạn xử lý điển hình như giống ĐXVN5,
ĐXVN7, ĐX14, ĐX11 trong điều kiện không gây
úng tổng số quả/cây đạt 14,40; 13,46; 13,43; 14,04
quả/cây. Khi đó gây úng 15 ngày tổng số quả trên
cây của các giống đạt 5,34; 6,14; 5,95; 7,82 quả/cây.
Bảng 4. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến các
yếu tố cấu thành năng suất của một số giống đậu xanh
Thời gian
ngập úng
(ngày)
Giống
Tổng số
hoa/cây
(hoa)
Tổng số
quả/ cây
(quả)
Tỉ lệ
đậu quả
(%)
P 1000
hạt
(gam)
0
ĐXVN5 23,41 14,40 50,20 55,51
ĐXVN7 27,59 13,46 52,30 60,26
ĐX14 25,68 13,43 46,08 56,51
ĐX11 29,32 14,04 52,88 60,32
5
ĐXVN5 21,65 13,34 37,33 53,31
ĐXVN7 25,01 10,53 42,74 58,10
ĐX14 20,95 10,99 41,38 51,90
ĐX11 26,46 13,30 46,25 57,01
10
ĐXVN5 16,66 8,17 23,37 51,05
ĐXVN7 18,00 8,36 28,99 56,89
ĐX14 13,66 6,89 20,37 47,78
ĐX11 22,67 10,33 26,75 53,49
15
ĐXVN5 12,58 5,34 19,30 48,67
ĐXVN7 15,74 6,14 23,07 52,20
ĐX14 10,38 5,95 17,51 43,98
ĐX11 18,18 7,82 22,71 49,78
CV (%) 4,9 4,6 5,7 3,0
LSD0,05 TGU 2,00 0,74 2,32 2,20
LSD0,05 G 3,06 1,95 8,58 2,38
LSD0,05 G TGU 1,44 0,67 2,88 2,11
36
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
3.5.2. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng đến năng
suất cá thể và mức suy giảm năng suất cá thể của
một số giống đậu xanh
Trong điều kiện ngập úng năng suất cá thể của
4 giống đậu xanh đều có xu hướng suy giảm rõ rệt.
Kết quả nghiên cứu này cũng tương đồng với các kết
quả nghiên cứu trước đây của các tác giả Amin và
cộng tác viên (2017). Kết quả nghiên cứu trong thí
nghiệm này cho thấy, gây úng 15 ngày có mức độ suy
giảm năng suất cá thể ở các công thức gây úng luôn
cao hơn rất nhiều so với các thời gian xử lý úng khác.
Trong khi đó gây úng 5 ngày ít ảnh hưởng đến năng
suất cá thể hơn so với các giai đoạn khác.
Bảng 5. Ảnh hưởng của thời gian ngập úng
đến năng suất cá thể và mức suy giảm năng suất cá thể
của một số giống đậu xanh
Thời
gian
gây úng
(ngày)
Giống
Năng
suất cá
thể (g/
cây)
Mức suy
giảm
năng
suất (%)
Chỉ số
chịu
úng
(HTI)
0
ĐXVN5 5,62 - -
ĐXVN7 7,54 - -
ĐX14 5,40 - -
ĐX11 6,95 - -
5
ĐXVN5 4,88 13,22 0,87
ĐXVN7 6,67 11,58 0,88
ĐX14 4,43 17,90 0,82
ĐX11 5,26 24,36 0,76
10
ĐXVN5 3,96 29,52 0,70
ĐXVN7 5,73 23,96 0,76
ĐX14 3,18 41,17 0,59
ĐX11 4,85 30,21 0,70
15
ĐXVN5 3,17 43,69 0,56
ĐXVN7 4,63 38,55 0,61
ĐX14 2,50 53,65 0,46
ĐX11 4,12 40,76 0,59
CV(%) 3,8
LSD0,05 TGU 0,57
LSD0,05 G 0,71
LSD0,05 G TGU 0,26
Tuy nhiên, đánh giá mức độ suy giảm năng
suất tăng theo các mức thời gian gây úng kết quả
cho thấy: Gây úng 5 ngày, giống ĐXVN5, ĐXVN7,
ĐX14, ĐX11 suy giảm năng suất so với công thức
đối chứng tương ứng 13,22%, 11,58%, 17,90%,
24,36%. Tăng thời gian gây úng lên 10 ngày, giống
ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11 suy giảm năng suất
so với công thức gây úng 5 ngày tương ứng 16,30%,
12,38%; 23,27%; 5,85%. Tiếp tục tăng thời gian gây
úng lên 15 ngày, giống ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14,
ĐX11 suy giảm năng suất so với công thức gây úng
10 ngày tương ứng 14,17%; 14,59%; 12,48%; 10,55%.
Như vậy, kết quả cho thấy giống ĐX14 là giống khá
mẫm cảm với điều kiện úng biểu hiện mức độ suy
giảm tăng lên rất cao so với các giống khác khi tăng
thời gian gây úng từ 0 lên 5 và 10 ngày. Tuy nhiên
tiếp tục tăng thời gian gây úng từ 10 ngày lên 15 ngày
giống ĐX14 lại có tỷ lệ suy giảm thấp hơn so với
giống ĐXVN5, ĐXVN7.
Đánh giá về chỉ số chịu úng kết quả cũng cho
thấy chỉ số chịu úng khi gây úng 5 ngày luôn đạt giá
trị cao nhất và thấp nhất được quan sát ở các công
thức gây úng 15 ngày. So sánh giữa các giống kết quả
cũng cho thấy giống ĐXVN7 là giống có chỉ số chịu
úng đạt giá trị cao nhất ở tất cả các giai đoạn xử lý.
IV. KẾT LUẬN
Ngập úng làm suy giảm các chỉ tiêu sinh trưởng,
sinh lý dẫn đến làm suy giảm năng suất ở tất cả các
giống đậu xanh tham gia thí nghiệm. Thời gian gây
úng 15 ngày ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chỉ
tiêu sinh trưởng, sinh lý và năng suất của các giống.
Trong khi đó, thời gian gây úng 5 ngày ít ảnh hưởng
đến các chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý và năng suất của
các giống đậu xanh tham gia thí nghiệm. Đánh giá
về mức độ suy giảm năng suất cá thể so với công thức
đối chứng kết quả cho thấy thời gian gây úng 5 ngày
mức độ suy giảm năng suất cá thể ảnh hưởng ít nhất
đến của các giống ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11
tương ứng 13,22%; 11,58%; 17,90%; 24,36%. Trong
khi đó, gây úng 15 ngày ảnh hưởng nghiêm trọng
đến mức độ suy giảm năng suất cá thể của các giống
ĐXVN5, ĐXVN7, ĐX14, ĐX11 tương ứng 43,69%;
38,55%; 53,65%; 40,76%. So sánh 4 giống đậu xanh
tham gia thí nghiệm kết quả cho thấy giống ĐXVN7
có biểu hiện tốt hơn về sinh trưởng, sinh lý và năng
suất so với các giống khác trong điều kiện úng ở các
mức thời gian gây úng khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thị Dung, Vũ Ngọc Thắng, Lê Thị Tuyết
Châm, Trần Anh Tuấn, Vũ Ngọc Lan, Phạm Thị
Xuân, Nguyễn Ngọc Quất, 2019. Sự phản hồi sinh
trưởng, sinh lý và năng suất của đậu xanh trong điều
kiện ngập úng. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông
nghiệp Việt Nam, số 2(99): 80-87.
Amin M.R., Karim M.A., Khaliq Q.A., Islam M.R.
and Aktar S., 2017. The influence of waterlogging
period on yield and yield components of mungbean
(Vigna radiata L. Wilczek). The Agriculturists, 15 (2):
88-100.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_thoi_gian_gay_ung_den_sinh_truong_sinh_ly_va_n.pdf