Từ những kết quả thí nghiệm có thể kết luận
moina kết hợp trùn chỉ là thức ăn phù hợp ương
nuôi lươn đến 20 ngà y tuổ i. Có thể sử dụng chế
độ cho ăn gồm moina trong khoảng 5-7 ngày
đầu, sau đó chuyển dần sang cho ăn trùn chỉ
đến 20 ngày tuổi.
Ở giai đoạn lươn 21- 40 ngày tuổi, chỉ cho
 ăn trùn chỉ lươn đạt tốc độ tăng trưởng chiều
dài và tỷ lệ sống cao nhưng tăng trưởng khối
lượng chậm hơn so với cho ăn kết hợp trùn chỉ
với thức ăn công nghiệp. Thức ăn cho kết quả
tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt ở lươn giai đoạn
này là trùn chỉ kết hợp thức ăn công nghiệp No
(CP Group ). Có thể áp dụng chế độ cho ăn kết
hợp trùn chỉ với thức ăn công nghiệp, sau đó
thay thể dần trùn chỉ cho đến khi lươn sử dụng
thức ăn công nghiệp hoàn toàn. Việc này còn
có tác dụng làm cho lươn quen hoàn toàn với
thức ăn công nghiệp trước khi đưa vào nuôi
thương phẩm.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 918 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của lươn monopterus albus (zuiew, 1793) 40 ngày tuổi ương trong bể không bùn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 85
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA 
LƯƠN Monopterus albus (Zuiew, 1793) 40 NGÀY TUỔI ƯƠNG TRONG 
BỂ KHÔNG BÙN
EFFECT OF FOODS ON GROWTH AND SURVIVAL OF 40 DAY-OLD SWAMP ELL 
Monopterus albus (Zuiew, 1793) NURSED IN TANKS WITHOUT MUD
Lương Công Trung¹, Nguyễn Trung² 
Ngày nhận bài: 24/5/2018; Ngày phản biện thông qua: 25/6/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
TÓM TẮT
Thí nghiệm được thực hiện để xác định loại thức ăn phù hợp cho ương lươn đến 40 ngày tuổi. Lươn 3 
ngày tuổi được ương đến 20 ngày tuổi trong các chậu nhựa (ɸ: 36cm), mật độ 300 con/m². Lươn được cho ăn: 
trùn chỉ (tubifex) (NT1), moina (NT2), cá xay (NT3), moina + trùn chỉ + cá xay (NT4) và moina + trùn chỉ 
(NT5). Kết thúc thí nghiệm, tăng trưởng chiều dài của lươn đạt tương tự nhau giữa các nghiệm thức (P>0,05). 
Tăng trưởng khối lượng và tỷ lệ sống cao nhất ở NT1 và NT5 và thấp nhất ở NT3 (P<0,05). 
Lươn 21 ngày tuổi được ương đến 40 ngày tuổi trong bể xi măng (2x2x1 m), mật độ 20 con/m². Lươn 
được cho ăn: trùn chỉ (tubifex) (NT1), cá xay (NT2), thức ăn viên (NT3), trùn chỉ + thức ăn viên (NT4), và cá 
xay + thức ăn viên (NT5). Kết thúc thí nghiệm, tăng trưởng chiều dài cao nhất ở NT1 và NT2 và thấp nhất ở 
NT5 (P<0,05). Tăng trưởng khối lượng cao nhất ở NT4 và thấp nhất ở NT1 và NT5 (P<0,05). Tỷ lệ sống cao 
nhất ở NT4, tiếp đến NT1 và NT2 và thấp nhất ở NT3 và NT5 (P<0,05).
Từ kết quả cho thấy thức ăn phù hợp ương lươn đến 20 ngày tuổi là kết hợp moina với trùn chỉ và ở giai 
đoạn 21-40 ngày tuổi là trùn chỉ kết hợp với thức ăn viên. 
Từ khóa: lươn đồng, sinh trưởng, tỷ lệ sống, thức ăn
ABSTRACT 
The experiment was conducted to determine the suitable feed for eel to 40 days of age. Three-day-old eels 
were nursed to 20 days of age in plastic basins (ɸ: 36cm), density of 300 ind./m². Eels were fed: worm (tubifex) 
(NT1), moina (NT2), ground fi shmeat (NT3), moina + worms + ground fi shmeat (NT4) and moina + worms 
(NT5). At the end of the experiment, growth of eel length was similar between treatments (P > 0.05). The weight 
growth and survival were highest in NT1 and NT5 and lowest in NT3 (P < 0.05). Twenty one days old ells were 
nursed to 40 days old in cement tanks (2x2x1 m), density of 200 ind./m². Eels were fed: worm (tubifex) (NT1), 
ground fi shmeat (NT2), pellets (NT3), worm+pellets (NT4) and ground fi shmeat + pellets (NT5). At the end of 
the experiment, the highest length growth were in NT1 and NT2 and lowest in NT5 (P <0.05). Weight growth 
were highest in NT4 and lowest in NT1 and NT5 (P <0.05). Survival was highest in NT4, followed by NT1 and 
NT2 and lowest in NT3 and NT5 (P <0.05). The results showed that the suitable feed for eel to 20 days was the 
combination of moina with worm and for 21-40 days old eel was worm combined with pellets.
Key words: eel, growth, survival rate, feed
I. GIỚI THIỆU
Lươn đồng Monopterus albus là loài nhiệt 
đới, phân bố tự nhiên rộng khắp ở nhiều nước 
trên Thế giới. Ở các nước Đông Nam Á, lươn 
có rất nhiều ở Thái Lan, Myanmar, Việt Nam 
và Campuchia (Nguyễn Chung, 2007). Lươn 
sinh sống chủ yếu ở các thủy vực nước ngọt 
như ao, kênh, rạch, các dòng sông lớn, trong 
ruộng lúa hay ở đầm lầy, lươn cũng có thể sống 
ở trong các thủy vực nước lợ (Rainboth, 1996). 
Ở Việt Nam, lươn được bắt gặp từ Bắc vào 
Nam, trong các ao, hồ, sông rạch, ruộng lúa 
¹ Viện Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
² Trung tâm Khuyến Nông Hải Phòng
86 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
nơi có nhiều mùn bã hữu cơ và sinh vật nhỏ 
làm thức ăn (Đoàn Đức Hiệp, 1999; Nguyễn 
Văn Hảo, 2005). 
Lươn có giá trị dinh dưỡng cao và được xem 
là món thuốc quý trong y học cổ truyền. Trong 
thực tế, lươn là nguồn thực phẩm rất có giá trị, 
được ưa chuộng ở các thị trường trong và ngoài 
nước, do đó đã thu hút mạnh sự phát triển nuôi 
thương phẩm trong những năm gần đây. Nhiều 
mô hình nuôi lươn thương thẩm trong ruộng lúa, 
trong ao, bể xi măng, bể đất, bể lót bạt hay trong 
can nhựa đã được xây dựng và áp dụng với hiệu 
quả khả quan. Trong đó, mô hình nuôi lươn 
không bùn, dùng vạt tre và sợi nilon làm giá thể 
đạt hiệu quả cao với tỉ suất lợi nhuận 40% - 50% 
(Ngô Trọng Lư, 2004 & 2008; Nguyễn Chung, 
2007). Từ Đồng bằng sông Cửu Long (An 
Giang, Cần Thơ, Long An), TP. Hồ Chí Minh và 
Đồng Nai nghề nuôi lươn đã nhanh chóng phát 
triển rộng ra miền Trung (Khánh Hòa, Phú Yên, 
Bình Định, Đà Nẵng, Quảng Bình) và miền Bắc 
(Hải Phòng, Hải Dương), đã đẩy nhu cầu con 
giống tăng lên rất cao. 
Khởi đầu nghề nuôi lươn dựa trên nguồn 
giống tự nhiên, do không đảm bảo về chất 
lượng và số lượng và không chủ động mùa vụ 
nên hiệu quả nuôi thấp, đồng thời tạo áp lực 
lớn lên việc khai thác giống tự nhiên dẫn đến 
nguồn lợi lươn bị đe dọa nghiêm trọng (Hồ Thị 
Bích Ngân, 2009). Nhiều công trình nghiên cứu 
sản xuất lươn giống trong điều kiện nhân tạo đã 
được thực hiện và thành công (Phan Thị Thanh 
Vân, 2009; Đỗ Thị Thanh Hương và ctv, 2010; 
Nguyễn Thị Hồng Vân và Huỳnh Thanh Tới, 
2017) và từ đó đã áp dụng trong thực tiễn xản 
xuất ở một số vùng có nghề nuôi lươn phát triển 
mạnh (An Giang, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh). 
Một trong những trở ngại chính làm cho việc 
sản xuất lươn giống chưa được mở rộng phát 
triển mặc dù nhu cầu rất cao là hiệu quả ương 
giống thấp do thức ăn sử dụng chưa đảm bảo 
cung cấp đầy đủ dinh dưỡng và phù hợp với tập 
tính bắt mồi của lươn. Vì vậy đề tài này đã được 
thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của một số 
loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của 
lươn ương nuôi đến 40 ngày tuổi, từ đó chọn 
loại thức ăn phù hợp đưa vào quy trình kỹ thuật 
sản xuất lươn giống đạt hiệu quả. 
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của thức ăn lên 
tăng trưởng và tỷ lệ sống của lươn 20 ngày tuổi
Nghiên cứu được thực hiện tại trại cá giống 
Cát Tiến, Tiên Lãng, Hải Phòng. Lươn bố mẹ 
được tuyển chọn từ Vĩnh Long và cho sinh sản 
nhân tạo tại trại sau 6 tháng nuôi vỗ. Lươn sau 
khi nở 3 ngày (2,1 cm và 23,8 mg/con) được 
ương trong các chậu nhựa (ɸ: 36cm, cao 13cm). 
Chậu ương được cấp nước ở dạng phun mưa với 
mực nước được duy trì từ 8-10cm. Nguồn nước 
cấp từ giếng khoan, qua hệ thống lọc thô và trữ 
trong các bể có thể tích 50m³, sau đó nước nước 
cấp vào chậu ương qua túi lọc, a = 100µm. Đáy 
chậu được lót các bó nilon xé nhỏ, chiếm 70% 
diện tích và chậu được sục khí liên tục.
Lươn được thả ngẫu nhiên vào các chậu 
ương với mật độ như nhau, 30 con/0,1m² (300 
con/m², Ngô Trọng Lư, 2008). Lươn được 
cho ăn 04 lần/ngày: 7h, 10h, 14h và 17h, với 
5 loại thức ăn khác nhau tương ứng 5 nghiệm 
thức thí nghiệm, gồm nghiệm thức 1 (NT1): 
trùn chỉ (Tubifex: protein thô 1,75%; lipid thô 
7,74%, nước 88,2% (Vũ Thị Ngọc Nhung & 
ctv, 2016); NT2: moina; NT3: moina + trùn chỉ 
+ thịt cá xay nhỏ (thịt cá biển tươi) (tỷ lệ theo 
khối lượng tươi 1/3:1/3:1/3); NT4: thịt cá xay 
nhỏ và NT5: moina + trùn chỉ (tỷ lệ theo khối 
lượng tươi 1/2:1/2). Mỗi nghiệm thức được 
lặp lại 3 lần. Lượng cho ăn như nhau ở các 
chậu ương và được điều chỉnh theo cường độ 
bắt mồi của lươn. Chậu ương được thay nước 
1 lần/ngày, 30-50% thể tích nước trong chậu, 
đồng thời chất thải và thức ăn thừa được xi 
phông ra ngoài. Thời gian thí nghiệm kéo dài 
đến khi lươn được 20 ngày tuổi.
2. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của thức ăn lên tăng 
trưởng và tỷ lệ sống của lươn 21 - 40 ngày tuổi 
Thí nghiệm được thực hiện trong các bể xi 
măng (2x2x1m), mực nước 80cm, đáy bể có 
đặt các bó dây nilon làm giá thể, chiếm 75-80% 
diện tích. Bể được sục khí liên tục và nguồn 
nước sử dụng tương tự thí nghiệm trước.
Nguồn lươn thí nghiệm được sản xuất nhân tạo. 
Lươn bột thu từ sinh sản nhân tạo được ương trong 
bể xi măng, cho ăn moina và trùn chỉ đến 20 ngày 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 87
tuổi, chọn cá thể đồng đều đưa vào thí nghiệm. 
Lươn 21 ngày tuổi (4,6 cm và 0,067 g/con) 
được thả ngẫu nhiên vào các bể ương với mật độ 
giống nhau 200 con/m² (Ngô Trọng Lư, 2008). 
Lươn được cho ăn với 5 loại thức ăn khác nhau 
tương ứng 5 nghiệm thức thí nghiệm, gồm 
nghiệm thức 1 (NT1): trùn chỉ (như thí nghiệm 
trước); NT2: thịt cá xay (thịt cá biển tươi); NT3: 
thức ăn công nghiệp No (CP Group: protein thô 
≥ 53%, lipid thô ≥ 9%, tro ≤ 20%, xơ thô ≤ 3%, 
độ ẩm ≤ 10%, viên chìm 0,3mm); NT4: trùn chỉ 
+ thức ăn công nghiệp No (tỷ lệ theo khối lượng 
khô 1/2:1/2) và NT5: thịt cá xay + thức ăn công 
nghiệp No (tỷ lệ theo khối lượng khô 1/2:1/2). 
Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Lươn được 
cho ăn 2 lần/ngày vào 7h và 16h, tỷ lệ cho ăn 
10% khối lượng lươn (tính theo khối lượng khô 
của thức ăn) và lượng cho ăn hàng ngày được 
điều chỉnh theo thực tế bắt mồi của lươn. Bể 
ương được thay nước 1 lần/ngày, 30-50% thể 
tích nước, đồng thời chất thải và thức ăn thừa 
được xi phông ra ngoài. Thời gian thí nghiệm 
kéo dài đến khi lươn đạt 40 ngày tuổi. 
3. Xác định các thông số môi trường và sinh 
trưởng của lươn
Nhiệt độ, pH và hàm lượng ôxy hoà tan 
(DO) trong các chậu/bể ương lươn được đo 2 
lần/ngày vào 6h và 14h. Nhiệt độ đo bằng nhiệt 
kế thuỷ ngân, chính xác 0,1ºC; DO xác định 
bằng máy đo oxy Model: Profi line Oxy 197-S 
và pH xác định bằng pH kế.
Trước khi thí nghiệm, 30 cá thể lươn được 
thu ngẫu nhiên để xác định chiều dài và khối 
lượng ban đầu. Trong thời gian thí nghiệm, 
định kỳ 7 ngày/lần và khi kết thúc thí nghiệm 
30 cá thể từ mỗi lần lặp trong từng nghiệm thức 
được thu ngẫu nhiên. Chiều dài lươn mẫu được 
đo từ chót mõm đến cuối đuôi bằng thước đo 
kỹ thuật, chính xác đến 1mm; khối lượng từng 
cá thể được xác định bằng cân điện tử, chính 
xác 0,001g. Các thông số sinh trưởng của lươn 
được xác định qua các công thức sau.
- Tốc độ tăng trưởng chiều dài tuyệt đối 
DLG (mm/ngày) = (Lđ – Lc)/T
- Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối
DWG (g/ngày) = (Wđ –Wc)/T
- Tốc độ tăng trưởng chiều dài đặc trưng
SRGL(%/ngày) = (LnLđ-LnLc)/Tx100
- Tốc độ tăng trưởng khối lượng đặc trưng
SRGW(%/ngày) = (LnWđ-LnWc)/Tx100
Trong đó: Lđ, Lc: chiều dài lươn (cm) trung 
bình lúc thả giống và thu hoạch; Wđ, Wc: khối 
lượng lươn (g) trung bình lúc thả giống và thu 
hoạch, T: thời gian chu kỳ ương 
- Hệ số phân đàn (Coeffi cient Variation) 
CV = δ/Ẋ x100(%) (δ: độ lệch chuẩn; Ẋ: giá 
trị trung bình)
- Tỷ lệ sống (survival rate - SR) 
SR = (Số lươn thu hoạch/số lươn thả ban 
đầu) x 100 (%)
4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel 
(MS offi ce 10). Sự sai khác thống kế giữa các 
nghiệm thức thí nghiệm được xác định theo 
phương pháp phân tích phương sai một yếu 
tố one-way ANOVA với độ tin cậy 95%, trên 
phần mềm SPSS 16.0 và phép thử Duncan. 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Ảnh hưởng của thức ăn lên sinh trưởng 
và tỷ lệ sống của lươn 20 ngày tuổi
1.1. Một số thông số môi trường trong bể ương 
nuôi lươn 20 ngày tuổi
Trong suốt thời gian thí nghiệm, các yếu 
tố nhiệt độ, pH và DO ổn định và không có 
sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức và 
giữa các lần đo sáng và chiều, được tổng hợp 
và trình bày trong Bảng 1. 
Các chậu thí nghiệm được đặt trong trại sản 
xuất giống có mái che, đồng thời được xi phông 
thay nước hàng ngày từ nguồn nước được xử lý 
Bảng 1: Nhiệt độ, pH và DO trong các bể ương lươn 20 ngày tuổi; Mean ± STD.
88 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
tốt và dự trữ trong bể lớn (50 m³) nên đảm bảo 
tính ổn định của các yếu tố môi trường. Lươn là 
loài thủy sản nhiệt đới thích nghi với biến động 
nhiệt độ môi trường cao (15-32ºC), thích hợp 
nhất là 24-28ºC (Ngô Trọng Lư, 2004), đồng 
thời lươn cũng có thể sống trong điều kiện oxy 
thấp, < 2 mg/L. Những biến động của các yếu 
tố nhiệt độ, pH và DO trong suốt quá trình 
ương cho thấy các yếu tố này nằm trong phạm 
vi phù hợp với sự thích nghi và phát triển của 
lươn, đặc biệt ở giai đoạn con non. 
1.2. Sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của lươn 20 
ngày tuổi sử dụng thức ăn khác nhau
Sau thời gian ương nuôi với các loại thức 
ăn khác nhau, lươn ở tất cả các nghiệm thức 
đạt được sự sinh trưởng tốt và tỷ lệ sống cao 
và không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các 
nghiệm thức (Bảng 2).
Bảng 2: Sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của lươn 20 ngày tuổi cho ăn thức ăn khác nhau; Mean ± STD.
Số liệ u cù ng hà ng có các chỉ số trên khác nhau thì có sự sai khác thống kê (P < 0,05).
Chiều dài trung bình của lươn khi thu hoạch 
đạt 4,3-4,7 cm/con, trong đó chiều dài lớn nhất 
đạt được ở NT5 (moina + trùn chỉ) và thấp nhất 
ở NT3 (thịt cá xay), tuy nhiên không có sự sai 
khác ý nghĩa giữa các nghiệm thức (Bảng 2). 
Tương tự, không có sự sai khác ý nghĩa về tốc 
độ tăng trưởng chiều dài tuyệt đối và đặc trưng 
của lươn ở các nghiệm thức, giá trị tương ứng 
là 0,11- 0,13 cm/ngày và 3,51-3,95%/ngày 
(Bảng 2). 
Khối lượng trung bình của lươn thu hoạch 
lớn nhất ở NT1 (trùn chỉ) và NT5 (moina + trùn 
chỉ), cao hơn ý nghĩa so với khối lượng lươn ở 
NT3 (thịt cá xay). Tương tự, tốc độ tăng trưởng 
khối lượng tuyệt đối và đặc trưng lớn hơn có ý 
nghĩa ở NT1 và NT5 so với NT3. Khối lượng 
trung bình và tốc độ tăng trưởng của lươn ở 
NT2 (moina) và NT4 (trùn chỉ + cá xay + 
moina) không có khác biệt ý nghĩa so với các 
nghiệm thức còn lại (Bảng 2). 
Tỷ lệ sống của lươn đạt cao ở tất cả các 
nghiệm thức, 84,7 – 95,8%, trong đó cao nhất 
ở NT5, tiếp đến ở NT1 và thấp nhất ở NT3, 
sự sai khác giữa NT1 và NT5 với NT3 là có 
ý nghĩa. Tỷ lệ sống của lươn ở NT2 và NT4 
không có sai khác ý nghĩa với các nghiệm thức 
khác (Bảng 2). 
Ngoài thành phần dinh dưỡng, loại thức ăn 
phù hợp với tập tính bắt mồi là yếu tố quan 
trọng thúc đẩy sự bắt mồi và tiêu hóa, hấp 
thu dinh dưỡng của lươn. Trong tự nhiên ở 
giai đoạn nhỏ lươn ăn động vật phù du sau đó 
chuyển sang côn trùng, trùn chỉ, bọ gậy, mãnh 
vụn hữu cơ, lươn lớn ăn giun, ốc, tôm tép, cá 
con và cả động vật trên cạn gần mép nước (Ngô 
Trọng Lư, 2004). Từ kết quả cho thấy thức ăn 
moina và trùn chỉ phù hợp với tập tính bắt mồi 
của lươn hơn so với cá tạp xay. Nghiên cứu 
khác cho thấy ngoài moina và trùn chỉ, artemia 
cũng có thể là thức ăn phù hợp ương lươn từ 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 89
3-20 ngày tuổi (Phan Thị Thanh Vân, 2009). 
Tác giả trên cho rằng không có sự khác biệt ý 
nghĩa về tăng trưởng và tỷ lệ sống của lươn 20 
ngày tuổi giữa cho ăn moina và artemia. Tuy 
nhiên, trong thực tế sản xuất sử dụng moina sẽ 
có hiệu quả kinh tế hơn so với artemia vì khác 
biệt giữa nguồn cung cấp và giá trên thị trường. 
Từ sự tăng trưởng khối lượng của lươn 
(Hình 1) trong quá trình ương, sơ bộ ghi nhận 
moina là thức ăn thích hợp nhất cho lươn trong 
những ngày đầu, đạt tốc độ tăng trưởng cao 
nhất ở NT2 (ngày thứ 7). Sau đó thức ăn trùn 
chỉ (NT1) hay trùn chỉ + moina (NT5) cho tốc 
độ tăng trưởng cao từ sau ngày thứ 7 đến khi 
kết thúc thí nghiệm. Trong khi đó, ở các nghiệm 
thức có cho ăn cá xay (NT3 và NT4) tốc độ 
tăng trưởng của lươn thấp hơn các nghiệm thức 
khác trong suốt thời gian ương. 
Hình 1: Sự tăng trưởng khối lượng của lươn ở các nghiệm thức trong giai đoạn 20 ngày tuổi
2. Ảnh hưởng của thức ăn lên tăng trưởng 
và tỷ lệ sống của lươn từ 21 đến 40 ngày tuổi 
2.1. Một số yếu tố môi trường trong bể ương 
lươn 21-40 ngày tuổi
Tương tự thí nghiệm trước, trong thời gian 
ương, các yếu tố nhiệt độ, pH và DO ổn định và 
không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm 
thức và giữa các lần đo sáng và chiều, được 
tổng hợp và trình bày trong Bảng 3.
DO trung bình 5,3-5,7 mg/l, nhiệt độ dao 
động 28-31ºC, và pH dao động 8,1-8,5. Tương 
tự thí nghiệm trước các yếu tố này ổn định do 
hệ thống bể ương được xiphông và thay nước 
hàng ngày từ nguồn nước chất lượng tốt và ổn 
định. Môi trường ương thuận lợi cho lươn phát 
triển. 
Bảng 3: Nhiệt độ, pH và DO trong bể ương nuôi lươn 21-40 ngày tuổi; Mean ± STD.
90 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
2.2. Sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của lươn giai 
đoạn 21 đến 40 ngày tuổi
Sau thời gian ương nuôi, chiều dài trung 
bình của lươn đạt cao nhất ở NT1 (trùn chỉ) và 
NT2 (cá xay), cao hơn có ý nghĩa thống kê so 
với 3 nghiệm thức còn lại (Bảng 4). Chiều dài 
trung bình của lươn ở các nghiệm thức có sử 
dụng thức ăn công nghiệp (NT3, NT4 và NT5) 
là tương đương nhau. Tương tự, tốc độ tăng 
trưởng chiều dài tuyệt đối và đặc trưng tương 
đương giữa hai NT1 và NT2 và cao hơn có ý 
nghĩa so với 3 nghiệm thức còn lại (Bảng 4). 
Khối lượng trung bình của lươn đạt cao 
nhất khi cho ăn kết hợp trùn chỉ và thức ăn 
công nghiệp (NT4), cao hơn có ý nghĩa thống 
kê so với các nghiệm thức còn lại. Khối lượng 
của lươn ở NT2 (cá xay) và NT3 (thức ăn công 
nghiệp) tương đương nhau và cao hơn so với 
NT1 (trùn chỉ) và NT5 (cá xay kết hợp thức ăn 
công ngiệp) (Bảng 4). Tương tự, tốc độ tăng 
trưởng khối lượng tuyệt đối và đặc trưng của 
lươn đạt cao nhất ở NT4, thấp nhất ở NT1 và 
NT5. Trong khi đó ở NT2 và NT3 tốc độ tăng 
trưởng khối lượng của lươn đạt trung gian. Sự 
sai khác giữa các nhóm nghiệm thức này có ý 
nghĩa thống kê.
Bảng 4. Sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của lươn giai đoạn 21 đến 40 ngày tuổ i; Mean ± STD.
Số liệ u cù ng hà ng có chỉ số trên khác nhau thì có sự sai khác thống kê (P < 0,05).
Sau 7 ngày ương đầu, lươn sử dụng thức 
ăn công nghiệp có tỷ lệ sống thấp nhất 76,3% 
và lươn sử dụng thức ăn trùn chỉ đạt tỷ lệ 
sống cao nhất 96,3%. Trong thời gian này, do 
chuyển từ các loại thức ăn sử dụng khi ương 
nuôi trước thí nghiệm sang thức ăn công 
nghiệp nên lươn chưa quen bắt mồi thức ăn 
mới, đã ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và tỷ 
lệ sống của lươn ở NT3.
Kết thúc thí nghiệm, lươn ở NT4 đạt tỷ 
lệ sống cao nhất (91,25%), tiếp đến ở NT1 
(87,5%) và NT2 (85,0%), tuy nhiên giữa các 
nghiệm thức này không có sai khác ý nghĩa. 
Tỷ lệ sống thấp nhất ở NT3, (55,0%) và NT5 
(65,0%) và thấp hơn có ý nghĩa so với 3 nghiệm 
thức trên. 
Trong giai đoạn này tập tính bắt mồi và 
sự lựa chọn thức ăn của lươn có sự thay đổi 
so với giai đoạn trước. Từ kết quả thí nghiệm 
cho thấy sử dụng thức ăn có trùn chỉ (NT1 và 
NT4) ương nuôi lươn đến 40 ngày tuổi đạt sinh 
trưởng và tỷ lệ sống cao. Đối với thức ăn công 
nghiệp có thể do sự tập luyện chưa đủ thời gian 
trước thí nghiệm để làm cho lươn quen hoàn 
toàn với thức ăn này, dẫn đến sự tăng trưởng 
và tỷ lệ sống của lươn thấp trong thời gian đầu 
thí nghiệm. Thời gian sau, khi đã quen bắt mồi 
thức ăn công nghiệp lươn có sự tăng trưởng 
khối lượng nhanh hơn so với trước (Hình 3), 
bởi thức ăn sử dụng có chất lượng dinh dưỡng 
cao. Từ kết quả thí nghiệm cho thấy trùn chỉ 
và thức ăn công nghiệp có thể bổ sung nhau 
khi dùng làm thức ăn ương lươn từ 21-40 
ngày tuổi. Trong đó trùn chỉ phù hợp với tính 
ăn của lươn và thức ăn công nghiệp bổ sung 
chất dinh dưỡng cần thiết cho sự tăng trưởng 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 91
nhanh. Sử dụng thức ăn trùn chỉ lươn tăng 
trưởng chiều dài cao trong suốt thời gian ương 
(Hình 2), song tăng trưởng khối lượng giảm 
dần về cuối thí nghiệm (Hình 3). Nghiệm thức 
cho ăn cá xay kết hợp thức ăn công nghiệp 
đạt kết quả thấp cả về tăng trưởng khối lượng 
(Hình 2 và 3) và tỷ lệ sống (Bảng 4). 
Theo kết quả nghiên cứu của Phan Thị 
Thanh Vân (2009), lươn ở 20-40 ngày tuổi 
cho ăn trùn chỉ đạt sinh trưởng và tỷ lệ sống 
cao hơn ý nghĩa so với cho ăn kết hợp trùn chỉ 
và thức ăn chế biến. Đối với thức ăn khác sử 
dụng ương lươn giai đoạn này, theo nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Hồng Vân và Bùi Thanh Tới 
Hình 2: Sự tăng trưởng chiều dài của lươn ở các nghiệm thức giai đoạn 21 đến 40 ngày tuổi
Hình 3: Sự tăng trưởng khối lượng của lươn ở các nghiệm thức giai đoạn 21 đến 40 ngày tuổi
92 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
(2017) artemia cho kết quả tăng trưởng chiều 
dài và khối lượng lươn cao hơn cho ăn thức ăn 
chế biến, cá tạp và thức ăn công nghiệp. Tuy 
nhiên, thức ăn artemia có giá thành sản xuất 
cao hơn so với các loại thức ăn khác.
IV. KẾT LUẬN
Từ những kết quả thí nghiệm có thể kết luận 
moina kết hợp trùn chỉ là thức ăn phù hợp ương 
nuôi lươn đến 20 ngà y tuổ i. Có thể sử dụng chế 
độ cho ăn gồm moina trong khoảng 5-7 ngày 
đầu, sau đó chuyển dần sang cho ăn trùn chỉ 
đến 20 ngày tuổi.
Ở giai đoạn lươn 21- 40 ngày tuổi, chỉ cho 
ăn trùn chỉ lươn đạt tốc độ tăng trưởng chiều 
dài và tỷ lệ sống cao nhưng tăng trưởng khối 
lượng chậm hơn so với cho ăn kết hợp trùn chỉ 
với thức ăn công nghiệp. Thức ăn cho kết quả 
tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt ở lươn giai đoạn 
này là trùn chỉ kết hợp thức ăn công nghiệp No 
(CP Group ). Có thể áp dụng chế độ cho ăn kết 
hợp trùn chỉ với thức ăn công nghiệp, sau đó 
thay thể dần trùn chỉ cho đến khi lươn sử dụng 
thức ăn công nghiệp hoàn toàn. Việc này còn 
có tác dụng làm cho lươn quen hoàn toàn với 
thức ăn công nghiệp trước khi đưa vào nuôi 
thương phẩm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Chung, 2007. Kỹ thuật sinh sản, nuôi và đánh bắt lươn đồng (Monopterus albus). Nhà xuất bản 
Nông nghiệp, TP. Hồ Chí Minh, 83 trang.
2. Nguyễn Văn Hảo, 2005. Cá nước ngọt Việt Nam, tập III. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội 2005, trang 
114-118.
3. Đoàn Đức Hiệp, 1999. Kỹ thuật nuôi lươn vàng, cá chạch, ba sa. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 149 trang.
4. Đỗ Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Hồng Thắm và Nguyễn Anh Tuấn, 2008. Kết quả bước đầu về sản xuất 
giống nhân tạo lươn đồng (Monopterus albus). Tạp chí khoa học, 2008 (Tập 2). Trường Đại học Cần Thơ, 
trang: 50 – 58.
5. Đỗ Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Lệ Hoa và Nguyễn Anh Tuấn, 2010. nuôi vỗ thành thục và kích thích lươn 
đồng (Monopterus albus) sinh sản bằng HCG (Human Chorionic Gonadotropine). Tạp chí Khoa Học 2010: 14 
258-268, Trường Đại học Cần Thơ.
6. Ngô Trọng Lư, 2004. Kỹ thuật nuôi cá quả, cá chình, chạch, cá bống bớp, lươn. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 
119 trang.
7. Ngô Trọng Lư, 2008. Kỹ thuật nuôi lươn, ếch, ba ba, cá lóc. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 103 trang.
8. Hồ Thị Bích Ngân, 2009. Đặc điểm nguồn lươn giống và thử nghiệm nuôi hồi phục lươn giống tại Ba Tri, 
Bến Tre. Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản số 02-03/2009, trường Đại học Nha Trang
9. Vũ Thị Ngọc Nhung, Nguyễn Thị Kim Liên, Trương Thị Thúy Hằng, Tăng Minh Trí, 2016. Nghiên cứu quy 
trình nuôi và thu hoạch trùn chỉ Tubifi cidae. Tạp chí Khoa học ĐHSP, TP. HCM, số 12 (90) năm 2016.
10. Nguyễn Thị Hồng Vân và Huỳnh Thanh Tới, 2017. Khả năng sử dụng sinh khối artemia để ương lươn đồng 
(Monopterus albus) giai đoạn giống trong bể lót bạt. Tạp chí khoa học Nông nghiệp Việt Nam, số 4 (77) 2017. 
11. Phan Thị Thanh Vân, 2009. Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và thử nghiệm ương lươn đồng 
(Monopterus albus) bằng các loại thức ăn khác nhau. Trường Đại học An Giang, đề tài khoa học cấp Trường.
Tiếng Anh
12. Rainboth, W.J., 1996. Fishes of the Cambodian Mekong. FAO, Rome. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 anh_huong_cua_thuc_an_den_sinh_truong_va_ty_le_song_cua_luon.pdf anh_huong_cua_thuc_an_den_sinh_truong_va_ty_le_song_cua_luon.pdf