Mật độ E.coli trong phân lợn thí nghiệm
Số liệu trong Bảng 3 cho thấy khi bổ sung
chế phẩm Tributyrin vào nước uống hoặc thức
ăn đều giảm mật độ nhiễm vi khuẩn E.coli so
với ĐC. Các chủng E.coli gây độc là nguyên
nhân chính gây tiêu chảy sau cai sữa và điều
đó là hiển nhiên, ảnh hưởng lên ruột có thể
được khắc phục bằng các khẩu phần thức ăn
tối ưu. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cho
thấy, lợn được bổ sung chế phẩm Tributyrin
vào nước uống và thức ăn giảm tỷ lệ tiêu chảy
do giảm bị nhiễm vi khuẩn E.coli so với ĐC
hiệu quả hơn. Điều này cho thấy bổ sung axit
hữu cơ đã làm giảm pH đường ruột xuống
thấp đã ức chế sự phát triển vi khuẩn có hại,
duy trì cân bằng vi khuẩn đường ruột, đồng
thời kích thích tiết ra các enzyme giúp quá
trình tiêu hóa hấp thu tốt hơn. Do vi khuẩn
đường ruột thường hoạt động ở môi trường
pH cao như E.coli có pH thích hợp ở 4,3; trong
khi đó, các vi sinh vật có lợi hoạt động ở môi
trường pH thấp pH<3,5 (Thaela và ctv, 1998).
Vì thế, việc bổ sung axít hữu cơ vào khẩu
phần thức ăn hoặc nước uống sẽ hạ thấp pH
xuống dưới 3,5 làm hạn chế sự hoạt động của
những vi khuẩn có hại và tăng cường sự hoạt
động của các vi khuẩn có lợi. Nghiên cứu của
Boas và ctv (2016) cũng cho thấy khi bổ sung
axít hữu cơ vào khẩu phần thì giảm tỷ lệ bệnh
về đường tiêu hóa như tiêu chảy, do đã có tác
dụng làm giảm mật độ vi khuẩn có hại đặc
biệt là vi khuẩn E.coli, do đó dẫn đến tỷ lệ chết
giảm so với ĐC. Ngoài tác dụng của axit béo
lên hệ vi khuẩn đường ruột và sức khỏe đường
ruột, chúng còn là cơ chất cho sự trao đổi chất
trung gian ở lợn con (Zhang và ctv, 2020).
Giảm độ pH bên trong tế bào vi khuẩn làm
phá hủy không đảo ngược các enzym quan
trọng của vi khuẩn, có thể dẫn đến ức chế sự
tăng trưởng hoặc gây chết vi khuẩn (Wang và
ctv, 2019). Bình thường, chúng ta muốn axít
hữu cơ sẽ hoạt động trong ruột non, như vậy
nó cần phải được bảo toàn khi qua dạ dày vì
dạ dày có pH rất thấp khoảng 2, với những
con non thì pH dạ dày có cao hơn là 4, do đó
cần phải hiểu rõ cơ chế để sử dụng axít hữu cơ
từng loại cho đúng mục đích.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của Tributyrin đến sinh trưởng và sức khỏe của lợn con sau cai sữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202042
ẢNH HƯỞNG CỦA TRIBUTYRIN ĐẾN SINH TRƯỞNG
VÀ SỨC KHỎE CỦA LỢN CON SAU CAI SỮA
Nguyễn Thị Thuỷ1*
Ngày nhận bài báo: 12/05/2020 - Ngày nhận bài phản biện: 22/05/20202
Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 24/06/2020
TÓM TẮT
Thí nghiệm đánh giá việc bổ sung chế phẩm Tributyrin (TB) vào thức ăn hoặc nước uống cho
lợn con sau cai sữa, để xác định ảnh hưởng đến sinh trưởng, tỷ lệ tiêu chảy và nhiễm vi khuẩn E.coli
trong đường tiêu hóa của lợn. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên trên
90 lợn con sau cai sữa ở 26-28 ngày tuổi (7,3±1,5 kg/con), với 3 nghiệm thức (NT) và 3 lần lặp lại,
mỗi lần lặp lại là 1 ô chuồng (10 con/ô), thí nghiệm kéo dài 6 tuần. Nghiệm thức đối chứng (ĐC) là
thức ăn hỗn hợp (TAHH) không bổ sung thêm chế phẩm TB vào thức ăn hoặc nước uống; các NT
còn lại được bổ sung chế phẩm TB vào thức ăn hỗn hợp (TBTA) với liều 1,0 g/kg TAHH, hoặc nước
uống (TBN) liều 0,5 g/l. Kết quả về tăng khối lượng (TKL) bình quân của lợn được bổ sung chế
phẩm TB vào nước uống (430,3 g/con/ngày) cao hơn khi bổ sung vào thức ăn (416,3 g/con/ngày),
cả 2 NT có bổ sung đều cao hơn lợn ở ĐC (395,7 g/con/ngày); Tiêu tốn thức ăn (TTTA) của lợn có
bổ sung chế phẩm vào nước uống có khuynh hướng tiêu thụ thức ăn cao hơn lợn ở 2 NT còn lại,
tuy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê; Điều này dẫn đến hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR)
của lợn ở TBN (2,04 kg TA/kg TKL) cao hơn ĐC (2,17 kg TA/kg TKL). Về tỷ lệ và mức độ tiêu chảy
của lợn ở NT có bổ sung TB vào nước (5,34% và 0,10) và thức ăn (5,41% và 0,10) đều thấp hơn lơn
ở ĐC (6,62% và 0,14). Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn E.coli trong phân lợn được bổ sung chế phẩm vào nước
uống (1,50 x106 CFU/g phân) và thức ăn (1,55 x106 CFU/g phân) đều thấp hơn lợn không có bổ sung
(1,79 x106 CFU/g phân). Nhìn chung khi bổ sung chế phẩm tributyrin vào thức ăn hoặc nước uống
có khuynh hướng cải thiện tăng khối lượng, hệ số chuyển hóa thức ăn, đồng thời giảm tỷ lệ tiêu
chảy và tỷ lệ nhiễm E.coli ở lợn con sau cai sữa. Bổ sung vào nước uống bước đầu có hiệu quả tốt
hơn bổ sung vào thức ăn.
Từ khóa: Lợn con sau cai sữa, mức độ tiêu chảy, E.coli, tributyrin, tỷ lệ tiêu chảy.
ABSTRACT
Effects of Tributyrin supplementation in the diet or drinking water on growth
performance, diarrhoea incidence and E.coli infection in weaned piglets
An experiment was conducted to evaluate the effects of Tributyrin supplementation in the diet
or drinking water on the performances, diarrhoea incidence and E.coli in feces of weaned piglets. A
total of 90 crossbred castrated (YxL) piglets (7.3±1.5kg) at weaning (26-28 days old) were allocated
into three treatments in a Randomized complete block design. In each treatment, the piglets
were divided randomly into 3 pens (replicate), with 10 piglets per pen. The control diet (ĐC) was
commercial feed (TAHH), which have no tributyrin supplementation in the diet or drinking water;
and the experimental diets were commercial feed supplemented with tributyrin in feed (TBTA)
at level of 1.0 g/kg feed or in drinking water (TBN) at level 0.5 g/kg feed. Results showed that,
ADG was highest in piglets supplemented in drinking water (430.3 g/head/day), then in the diet
(416.3 g/head/day), and lowest in piglets fed no supplementation (395.7 g/head/day). Feed intake
of piglets in TBN was higher than that in 2 other treatments, eventhough there was no significant
different. As results, FCR was lowest in piglets supplemented in drinking water (2.04kg feed/kg
gain), and highest in control piglets (2.17kg feed/kg gain). Diarrhoea incidence and fecal score
was lowest in TBN (5.34% and 0.10) and highest in ĐC (6.62% and 0.14). Piglets fed commercial
diet without any supplementation was effected by E.coli with highest content (1.79x106 CFU/g
1 Trường Đại học Cần Thơ
* Tác giả để liên hệ: PGS.TS. Nguyễn Thị Thủy, Bộ môn Chăn nuôi, Khoa Nông Nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ; Điện thoại:
0989019578; Email: nthithuycn@ctu.edu.vn
DINH DƯỠNG VÀ T ỨC Ă CHĂN NUÔI
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 43
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi lợn hiện đang dần hồi phục
nhanh chóng tại các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long sau gần 1 năm từ khi xảy ra dịch
bệnh Dịch tả lợn Châu phi vào năm 2019. Tuy
nhiên, trong tình hình thời tiết khí hậu biến
đổi thất thường, tình hình dịch bệnh vẫn đang
rải rác một số nơi, nên người chăn nuôi đang
rất lúng túng trong việc thực hiện việc nuôi
dưỡng như thế nào để có hiệu quả. Có nhiều
khuyến cáo cho rằng bên cạnh việc thực hiện
chăn nuôi lợn theo quy trình an toàn sinh học,
thì vấn đề sử dụng các chất hỗ trợ bổ sung
vào thức ăn và nước uống là rất cần thiết, với
mục đích tăng sức đề kháng và hạn chế xảy ra
bệnh. Một số các chất hỗ trợ có nguồn gốc là
axit hữu cơ được bổ sung chủ yếu để tạo môi
trường đường ruột không thích hợp cho mầm
bệnh phát triển, hạn chế bệnh trên lợn nhất là
lợn con sau cai sữa. Hầu hết người chăn nuôi
lợn thường cho lợn ăn thức ăn hỗn hợp được
sản xuất từ các công ty thức ăn chăn nuôi, mà
từ năm 2020 thì việc sử dụng kháng sinh trộn
vào thức ăn hỗn hợp như chất kích thích hay
ngừa bệnh không còn được phép sử dụng
nữa, nên vấn đề sử dụng chất thay thế đang
được người nuôi cân nhắc, và một số các chế
phẩm có nguồn gốc là axit hữu cơ được cân
nhắc sử dụng để thay thế kháng sinh. Bởi vì,
lợn con sau cai sữa thường rất dễ bị tiêu chảy
và nhiễm một số bệnh khác do sức đề kháng
suy giảm, dẫn đến tỷ lệ chết cao và cũng ảnh
hưởng đến sinh trưởng khá nhiều. Chế phẩm
tributyrin, là tiền dược chất của axit butyric đã
được nghiên cứu bổ sung cho gà, nhưng chưa
sử dụng cho heo. Loại axit này có lợi cho sức
khỏe đường ruột và năng suất sinh trưởng,
đặc biệt được biết là ở động vật non (Wang và
ctv, 2019). Tributyrin là sản phẩm đang được
một số công ty thức ăn gia súc thử nghiệm
trên heo và gà. Do đó, mục đích của nghiên
cứu này là sử dụng chế phẩm Tributyrin bổ
sung vào nước uống hoặc vào thức ăn với mục
đích có thể hạn chế tiêu chảy trên lợn con, cải
thiện sức khỏe của lợn con sau cai sữa để có cơ
sở khuyến cáo đến người chăn nuôi lợn.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Chuồng trại và thức ăn thí nghiệm
Thí nghiệm (TN) được thực hiện tại Trại
Chăn nuôi lợn ở huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang. Chuồng lợn là chuồng hở lợp bằng
tôn, nền xi măng, có hệ thống phủ bạt hai bên
vách có thể kéo lên xuống bằng hệ thống ròng
rọc. Ở đầu dãy chuồng có hệ thống phun nước
làm mát, cuối dãy chuồng có 4 quạt hút nhằm
tạo sự thông thoáng trong chuồng nuôi. Lợn
con sau cai sữa được nuôi trên chuồng sàn
cao 45cm với 9 ô chuồng, mỗi ô 10 con. Mỗi ô
chuồng có một máng ăn cố định và một núm
uống cố định. Chế phẩm Tributyrin được cung
cấp từ công ty TNHH TM SX Menon, là hỗn
hợp dạng bột màu trắng, có thành phần chính
là axit butyric. Chế phẩm được trộn vào TA
với liều lượng 1g/kg TA và pha vào nước uống
với liều 0,5 g/lit nước liên tục suốt 6 tuần nuôi,
không sử dụng kháng sinh để phòng ngừa
bệnh trong suốt thời gian TN. Thức ăn nuôi
heo ở trại bao gồm TAHH dành cho heo con
tập ăn. Thành phần hóa học của khẩu phần TA
có DM 89,7; EE 4,61; CP 20,0; CF 5,0; NFE 62,4;
Ca 1,02 và P 0,42%; ME 3.300 Kcal/kg TA.
2.2. Động vật thí nghiệm
Tổng số 18 lợn nái lai YL ở lứa đẻ 3-4 có
ngày đẻ trong khoảng thời gian gần nhau (1
tuần) được chọn để lựa lợn con làm TN. Tất cả
90 con được chọn đều là lợn đực và được thiến
ở 14 ngày tuổi, được chia làm 3 nhóm với khối
lượng tương đối đồng đều, mỗi nhóm là 1
khối bao gồm 3 NT. Trước khi cai sữa, lợn con
được tập ăn thích nghi với thức ăn TN 5 ngày.
feces), and lowest in TBN (1.50x106 CFU/g feces) and TBTA (1.55x106 CFU/g feces). In conclusion,
supplementaion of tributyrin in the diet or drinking water of weaned piglets trend to improve
growth performance; reduced diarrhoea incidence, fecal score and E.coli in feces of weaned piglets.
Tributyrin supplementation into drinking water have trend be better than into the feed.
Key words: Diarrhoea incidence, E.coli, fecal score, tributyrin, weaned piglets.
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202044
Lợn được cai sữa và bắt đầu TN ở 26-28 ngày
tuổi, có khối lượng (KL) là 7,3±1,5 kg/con.
Trước khi vào TN, lợn được tiêm phòng đầy
đủ các bệnh dịch tả, tai xanh (PRRS), LMLM.
Số liệu được thu thập trong thời gian 6 tuần
sau khi cai sữa. Tất cả lợn được chăm sóc và
nuôi dưỡng theo quy trình chăm sóc và nuôi
dưỡng của trại. Tuần đầu, lợn được cho ăn với
lượng TA hạn chế và cho ăn 6 lần/ngày, các
tuần tiếp theo tăng dần lượng thức ăn lên và
cho ăn tự do 4 lần/ngày. Nước uống luôn được
cung cấp đầy đủ trong suốt quá trình TN, 3 ô
chuồng lợn trong nghiệm thức (NT) pha chế
phẩm vào nước uống được chuẩn bị bồn nước
riêng để pha chế phẩm. Lợn được cân lúc đầu
TN, mỗi tuần nuôi và cuối TN lúc 10 tuần tuổi
vào lúc sáng sớm trước khi cho ăn.
2.3. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối
hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 NT là sự khác
nhau giữa đường bổ sung chế phẩm Tributyr-
in cho lợn con sau cai sữa. Mỗi NT được lặp lại
3 lần, mỗi lần lặp lại là 1 ô chuồng (10 con/ô).
Các NT như sau:
NT1 (ĐC): TAHH không bổ sung Tributyrin
NT2 (TBTA): TAHH + chế phẩm Tributyrin
(1,0g/kg TA) trộn vào thức ăn
NT3 (TBN): TAHH nước uống có pha
Tributyrin (0,5g/lit nước)
2.4. Các chỉ tiêu theo dõi
Các chỉ tiêu về sinh trưởng: Lợn được cân
hàng tuần, cân thức ăn ăn vào và thừa hàng
ngày để tính tăng khối lượng (TKL), tiêu tốn
thức ăn (TTTA), hệ số chuyển hóa thức ăn
(FCR).
Tỷ lệ tiêu chảy: Chỉ tiêu về tỷ lệ tiêu chảy và
mức độ tiêu chảy được ghi nhận theo phương
pháp của (Cupere và ctv, 1992). Lợn bị tiêu
chảy được ghi nhận theo 2 giai đoạn: Giai
đoạn 1 là 3 tuần đầu thí nghiệm (1-3 tuần), giai
đoạn 2 là 3 tuần cuối thí nghiệm (4-6 tuần) sau
khi cai sữa. Mỗi ngày ghi nhận số con lợn tiêu
chảy, đánh dấu lợn đó (hôm sau không đếm
lại), xem thời gian hết tiêu chảy của lợn đó, kết
thúc thí nghiệm tổng hợp các lượt bị tiêu chảy
để tính tỷ lệ tiêu chảy. Tỷ lệ tiêu chảy/ngày (%)
= Số con lợn bị tiêu chảy/Số ngày nuôi x tổng
số lợn) x100.
Mức độ tiêu chảy: Những lợn tiêu chảy
được xếp cấp độ theo thang mức độ 0-3, trong
đó 0 tương ứng với tình trạng phân khô (bình
thường); 1: nhão; 2: lỏng và 3: chảy nước. Ghi
nhận mức độ tiêu chảy được thực hiện hai lần
mỗi ngày từ 2 người, mức độ tiêu chảy được
tính bằng tổng điểm số mức độ tiêu chảy
trong giai đoạn chia cho số ngày trong giai
đoạn (Cupere và ctv, 1992).
Mật độ E.coli (CFU/g) trong phân: Phân
lợn được lấy mẫu trực tiếp ngay sau khi lợn
đi phân ở tuần 3 và 6 của TN để đếm khuẩn
lạc theo phương pháp của Trần Linh Thước
(2006). Mẫu được đồng nhất hoá cấy một
lượng nhất định lên môi trường thạch chọn
lọc thích hợp chứa lactose, ủ ở 440C trong 24
giờ, đếm các khuẩn lạc có hình dạng đặc trưng
của Coliforms. Khẳng định các khuẩn lạc đã
đếm là E.coli bằng thử nghiệm IMViC. Cách
tính kết quả theo công thức của Trần Linh
Thước (2006) như sau: CFU/g=N/(n1vf1++
nivfi)*R. Trong đó, n: tổng số khuẩn lạc đếm được
trên đĩa; f1: độ pha loãng của bậc n1; n1: số đĩa nuôi
cấy ở độ pha loãng đầu; n2, n 3: số đĩa nuôi cấy ở các
độ pha loãng tiếp theo; v: thể tích dung dịch pha
loãng đem nuôi cấy; và R: tỷ lệ khẳng định.
2.5. Phân tích hóa học
Hàm lượng dưỡng chất của thức ăn như:
Vật chất khô (DM), đạm thô (CP), béo thô
(EE), tro (Ash), Ca và P được phân tích theo
qui trình chuẩn của AOAC (1990).
2.6. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xứ lý sơ bộ trên phần
mềm Excel 2003, sau đó tiến hành phân tích
phương sai sử dụng mô hình hồi qui tuyến
tính tổng quát (Minitab 16) theo mô hình phân
tích thống kê: Yijk = µ + αi + βj + €ijk. Trong đó: Yijk
là giá trị cá thể quan sát, µ là trung bình tổng thể,
αi là ảnh hưởng của nghiệm thức, βj là ảnh hưởng
của khối, €ijk là sai số ngẫu nhiên.
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 45
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tăng khối lượng của lợn thí nghiệm
Kết quả trong bảng 1 cho thấy KL của heo
ở NT có bổ sung tributyrin vào nước uống
cao hơn lợn được bổ sung vào thức ăn và đối
chứng. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu
của Stefania và ctv (2020) đã cho rằng lợn con
28-40 ngày tuổi được bổ sung Tributyrin vào
khẩu phần cải thiện được tăng khối lượng
(TKL). Nhiều nghiên cứu cho rằng việc sử
dụng Tributyrin có tác động tích cực đến năng
suất của lợn bằng cách tác động đến chức
năng đường ruột và sức khỏe đường ruột của
lợn (Li và ctv, 2016). Điều này càng cho thấy
rằng trong khẩu phần tối ưu thì phụ gia thức
ăn như các axit hữu cơ ngày càng được coi là
sản phẩm thay thế cho các kháng sinh, mặc dù
tác dụng kháng khuẩn của chúng có lẽ không
phải là cơ chế hoạt động duy nhất trong khẩu
phần ăn bình thường mà chúng có thể hoạt
động như chất điều chỉnh cân bằng hệ vi sinh
vật (Suiryanrayna và Ramana, 2015). Hơn
nữa, axit butyric có tác dụng làm tăng sinh
tế bào biểu mô, tăng độ dài của các nhung
mao đường ruột của lợn và làm thay đổi hình
thái của ruột (Stefania và ctv, 2020), điều này
giúp cho quá trình hấp thu dinh dưỡng tốt
hơn. Axít butyric cũng làm tăng sự tiết ra của
enzyme tuyến tụy, đồng thời là nguồn năng
lượng chính cho các tế bào biểu mô của ruột
già (Suiryanrayna và Ramana, 2015), có thể
dẫn đến cải thiện được TKL và FCR.
Bảng 1. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn
(n=30/NT)
Chỉ tiêu ĐC TBTA TBN SEM P
KL đầu TN, kg 7,62 6,96 7,45 0,51 0,45
KL cuối TN, kg 24,21 24,45 25,51 0,61 0,06
Thời gian TN,tuần 6 6 6 6
TTTA, g/con 858,9 862,8 880,1 10,36 0,45
TKL, g/con/ngày 395,7b 416,5ab 430,3a 7,26 0,01
FCR, kg/kg 2,17a 2,07ab 2,04b 0,04 0,03
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau cùng hàng biểu thị giá
trị khác biệt có ý nghĩa (P<0,05)
Hơn nữa, trong số các axít béo chuỗi
ngắn, axit butyric có những tính chất đặc biệt
như cải thiện sức khỏe đường ruột mạnh mẽ,
là nhiên liệu ưa thích cho các tế bào ruột ở
kết tràng, kích thích tiết enzyme và ổn định
hệ vi khuẩn ruột, dẫn đến khả năng tiêu hóa
chất dinh dưỡng hiệu quả hơn và khả năng đề
kháng sự xâm nhiễm tốt hơn. Tác dụng được
biết đến nhiều nhất của axit butyric là kích
thích sự tăng sinh và biệt hóa tế bào biểu mô,
nó cũng có ảnh hưởng có lợi đối với chức năng
rào cản của kết tràng (Li và ctv, 2016). Bởi vì
lợn con sau cai sữa thường bị stress và giảm
lượng ăn vào, ít hoặc không tăng cân, đây là
giai đoạn khủng hoảng sau cai sữa, là do tiêu
hóa và khả năng hấp thụ hạn chế do không
sản xuất đủ axit hydrochloric, men tụy và cả
những thay đổi đột ngột về thức ăn và lượng
ăn. Do đó việc bổ sung tributyrin để làm giảm
pH đường ruột của lợn đã được phát hiện có
thể khắc phục những vấn đề này. Bởi vì hoạt
động chính của các axit hữu cơ là làm giảm
pH dạ dày chuyển đổi pepsinogen chưa hoạt
hóa thành pepsin hoạt hóa cho quá trình thủy
phân protein có hiệu quả, và bởi vì axit hữu cơ
vừa có tính kìm khuẩn vừa có tính diệt khuẩn.
Bảng 2. Tăng khối lượng/ngày (g/con, n=30/NT)
Chỉ tiêu ĐC TBTA TBN SEM P
TKL tuần 1 211,4b 205,7b 250,0a 9,51 0,04
TKL tuần 2 271,4c 328,6b 371,4a 8,31 0,02
TKL tuần 3 357,1b 385,7a 357,1b 8,45 0,02
TKL tuần 4 442,9 428,6 442,9 7,36 0,45
TKL tuần 5 471,4b 528,6a 542,9a 9,26 0,04
TKL tuần 6 615,7 621,4 615,7 9,04 0,13
Hình 1. Khối lượng lợn qua các tuần thí nghiệm
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202046
3.2. Tiêu thụ thức ăn và hệ số chuyển hóa
thức ăn
Khi bổ sung chế phẩm vào nước uống,
lợn có khuynh hướng tiêu thụ thức ăn cao
hơn so với bổ sung vào thức ăn và không bổ
sung, mặc dù không chênh lệch nhiều nhưng
cũng cho thấy chế phẩm tributyrin khi được
lợn tiêu thụ cũng có tác dụng kích thích lợn ăn
nhiều hơn và thèm ăn hơn, điều này cho thấy
axít hữu cơ cũng cải thiện tổng tiêu hoá rõ
rệt và cải thiện hiệu suất tăng trưởng (Lan và
Kim, 2018). Kết quả ở bảng cho thấy rằng khi
bổ sung vào nước uống có thể lợn tiếp nhận
hiệu quả hơn, do khí hậu nóng lợn sẽ uống
nước nhiều cũng như chế phẩm tributyrin
được hòa tan tốt và được tiếp nhận tốt hơn
trong đường ruột lợn con. Lượng thức ăn tiêu
thụ cao hơn dẫn đến lợn tăng khối lượng tốt
hơn ở NT bổ sung chế phẩm vào nước uống
so với đối chứng, dẫn đến cải thiện được hệ số
chuyển hóa thức ăn. Điều này cũng phù hợp
với nghiên cứu của Wang và ctv (2019), việc
sử dụng axit butyric trong nước uống hoặc
thức ăn có tác dụng duy trì sự cân bằng hệ vi
sinh vật đường ruột, ngăn ngừa rối loạn tiêu
hoá, tăng cường năng lực miễn dịch ruột, kích
thích sinh trưởng, tăng hiệu quả chuyển hoá
thức ăn.
3.3. Tỷ lệ tiêu chảy và mức độ tiêu chảy
Hơn nữa, lợn con ở giai đoạn sau cai sữa
thường bị tiêu chảy, thông thường do chủng
E.coli gây bệnh đường ruột. Trong thí nghiệm
này, tỷ lệ và mức độ tiêu chảy của lợn ở nghiệm
thức đối chứng là chỉ cho ăn TAHH không bổ
sung thêm chế phẩm tributyrin thì cho tỷ lệ
tiêu chảy cao hơn lợn được ăn khẩu phần có
bổ sung thêm chế phẩm vào nước uống hoặc
thức ăn. Đứng trên góc độ dinh dưỡng thì chế
phẩm này chủ yếu là axit butyric không có
chức năng dinh dưỡng trong bộ máy tiêu hóa
gia súc mà nó có chức năng như một thức ăn
không cung cấp năng lượng, giảm pH đường
ruột, tạo môi trường pH bất lợi cho các chủng
vi khuẩn gây bệnh phát triển. Nhờ đó mà bệnh
tiêu chảy lợn con cũng như các bệnh nhiễm
trùng đường ruột khác được phòng chống một
cách hiệu quả (Zhang và ctv, 2020). Bởi vì, tiêu
chảy sau cai sữa vẫn là vấn đề quan trọng đối
với các nhà sản xuất lợn con, nó gây ra những
tổn thương cho động vật và có thể có những tác
động tiêu cực đến lợi nhuận do năng suất thấp
và hệ số chuyển đổi thức ăn cao hơn.
Bảng 3. Tỷ lệ tiêu chảy và mật độ E.coli trong phân lợn
Thời gian Chỉ tiêu ĐC TBTA TBN SEM P
1-3 tuần đầu
Tỷ lệ tiêu chảy, % 8,81a 7,90a 6,17b 0,420 0,03
Mức độ tiêu chảy 0,15a 0,10b 0,10b 0,006 0,04
E.coli (x106CFU/g phân) 2,05a 1,84b 1,75b 0,062 0,04
4-6 tuần sau
Tỷ lệ tiêu chảy, % 4,54a 3,91a 2,51b 0,272 0,02
Mức độ tiêu chảy 0,14a 0,11b 0,10b 0,005 0,03
E.coli (x106CFU/g phân) 1,54a 1,26b 1,25b 0,084 0,01
Trung bình
(1-6 tuần)
Tỷ lệ tiêu chảy, % 6,62a 5,41b 5,34b 0,210 0,03
Mức độ tiêu chảy 0,14a 0,10b 0,10b 0,006 0,03
E.coli (x106CFU/g phân) 1,79a 1,55b 1,50b 0,069 0,02
3.4. Mật độ E.coli trong phân lợn thí nghiệm
Số liệu trong Bảng 3 cho thấy khi bổ sung
chế phẩm Tributyrin vào nước uống hoặc thức
ăn đều giảm mật độ nhiễm vi khuẩn E.coli so
với ĐC. Các chủng E.coli gây độc là nguyên
nhân chính gây tiêu chảy sau cai sữa và điều
đó là hiển nhiên, ảnh hưởng lên ruột có thể
được khắc phục bằng các khẩu phần thức ăn
tối ưu. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cho
thấy, lợn được bổ sung chế phẩm Tributyrin
vào nước uống và thức ăn giảm tỷ lệ tiêu chảy
do giảm bị nhiễm vi khuẩn E.coli so với ĐC
hiệu quả hơn. Điều này cho thấy bổ sung axit
hữu cơ đã làm giảm pH đường ruột xuống
thấp đã ức chế sự phát triển vi khuẩn có hại,
duy trì cân bằng vi khuẩn đường ruột, đồng
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 47
thời kích thích tiết ra các enzyme giúp quá
trình tiêu hóa hấp thu tốt hơn. Do vi khuẩn
đường ruột thường hoạt động ở môi trường
pH cao như E.coli có pH thích hợp ở 4,3; trong
khi đó, các vi sinh vật có lợi hoạt động ở môi
trường pH thấp pH<3,5 (Thaela và ctv, 1998).
Vì thế, việc bổ sung axít hữu cơ vào khẩu
phần thức ăn hoặc nước uống sẽ hạ thấp pH
xuống dưới 3,5 làm hạn chế sự hoạt động của
những vi khuẩn có hại và tăng cường sự hoạt
động của các vi khuẩn có lợi. Nghiên cứu của
Boas và ctv (2016) cũng cho thấy khi bổ sung
axít hữu cơ vào khẩu phần thì giảm tỷ lệ bệnh
về đường tiêu hóa như tiêu chảy, do đã có tác
dụng làm giảm mật độ vi khuẩn có hại đặc
biệt là vi khuẩn E.coli, do đó dẫn đến tỷ lệ chết
giảm so với ĐC. Ngoài tác dụng của axit béo
lên hệ vi khuẩn đường ruột và sức khỏe đường
ruột, chúng còn là cơ chất cho sự trao đổi chất
trung gian ở lợn con (Zhang và ctv, 2020).
Giảm độ pH bên trong tế bào vi khuẩn làm
phá hủy không đảo ngược các enzym quan
trọng của vi khuẩn, có thể dẫn đến ức chế sự
tăng trưởng hoặc gây chết vi khuẩn (Wang và
ctv, 2019). Bình thường, chúng ta muốn axít
hữu cơ sẽ hoạt động trong ruột non, như vậy
nó cần phải được bảo toàn khi qua dạ dày vì
dạ dày có pH rất thấp khoảng 2, với những
con non thì pH dạ dày có cao hơn là 4, do đó
cần phải hiểu rõ cơ chế để sử dụng axít hữu cơ
từng loại cho đúng mục đích.
4. KẾT LUẬN
Bổ sung chế phẩm Tributyrin vào nước
uống và thức ăn của lợn con sau cai sữa đều
cải thiện TKL và FCR, giảm được tỷ lệ cũng
như mức độ tiêu chảy trên lợn và giảm mật độ
E.coli trong phân. Bổ sung vào nước uống cho
kết quả tốt hơn bổ sung vào thức ăn.
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cám ơn Ban lãnh đạo
Trại chăn nuôi đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để
TN được tiến hành hoàn hảo, cám ơn nhóm các
em sinh viên Trường Đại học Cần Thơ hỗ trợ thực
hiện TN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AOAC (1990). Offical methods of analysis (15th edition).
Association of OfficalArgicultural Chemists. Washington
DC. 1: 69-90.
2. Boas A.D.C.V., Budiño F.E.L., Neto M.A.T., Schmid A.,
Sitanaka N.Y., Moraes J.E. and Pizzolante C.C. ( 2016).
Organic acids in diets of weaned piglets: Performance,
digestibility and economical viability. Arq. Bras. Med.
Vet. Zoo., 68(4): 1015-22.
3. Cupere D.F., Deprez P., Demeulenaere D. and Muylle
E. (1992). Evaluation of the effects of 3 probiotics on
experimental Escherichia Coli enterotoxaemia in weaned
piglets, J. Vet. Med., 39: 277-84.
4. Chunchun Wang, Zhuojun Shen, Shuting Cao, Qianhui
Zhang, Yan Peng and Caihong Hu (2019). Effects of
tributyrin on growth performance, intestinal microflora
and barrier function of weaned pigs. Ani. feed Sci. and
Feed Tec., 258: 114311
5. Li Dong, Xiang Zhong, Jintian He, Lili Zhang, Kaiwen
Bai, Wen Xu, Tian Wang and Xuexin Huang (2016).
Supplementation of tributyrin improves the growth and
intestinal digestive and barrier functions in intrauterine
growth-restricted piglets. Clinical Nut., 35(2): 399-07.
6. Lan R. and Kim I. (2018). Effects of organic axit and
medium chain fatty axit blends on the performance of
sows and their piglets. Ani. Sci. J., 89(12): 1673-79.
7. Stefania Sotira, Matteo Dell’Anno, Valentina
Caprarulo, Monika Hejna, Federica Pirrone, Maria
Luisa Callegari, Telma Vieira Tucci and Luciana
Rossi (2020). Effects of Tributyrin Supplementation on
Growth Performance, Insulin, Blood Metabolites and Gut
Microbiota in Weaned Piglets. Animals (Basel), 10(4): 726.
8. Suiryanrayna M.V. and Ramana J.V. (2015). A review of
the effects of dietary organic axits fed to swine. J. Ani.
Sci. Bio., 6: 45.
9. Thaela M.J., Jensen M.S., Pierzynowski S.G., Jakob S. and
Jensen B.B. (1998). Effect of lactic acid supplementation
in pigs after weaning, J. Ani. Feed Sci., 7: 181-83.
10. Trần Linh Thước (2006). Phương pháp phân tích vi sinh
vật trong nước, thực phẩm, mỹ phẩm. NXB Giáo Dục,
Trang 302.
11. Zhang W.X., Zhang Y., Zhang X.W., Deng Z.X., Liu
J.X., He M.L. and Wang H.F. (2020). Effects of dietary
supplementation with combination of Tributyrin and
Essential oil on gut health and microbiota of Weaned
piglets. Animals (Basel). 10(2): 180.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_tributyrin_den_sinh_truong_va_suc_khoe_cua_lon.pdf