Ảnh hưởng của nước tưới mặn đến số trái,
khối lượng 1.000 hạt và khối lượng hạt trên cây
Kết quả trình bày trong hình 6 cho thấy, số trái
trên cây có xu hướng giảm khi tăng nồng độ mặn
trong nước tưới, giảm từ 74,1 trái/cây ở nghiệm
thức đối chứng đến 44,5 trái/cây ở nghiệm thức tưới
mặn 4‰. Số trái/cây giảm bắt đầu từ nghiệm thức
tưới nước mặn 3‰, khác biệt có ý nghĩa thống kê
(P < 0,05) so tưới nước mặn 1- 2‰ và đối chứng.
Khối lượng 1.000 hạt giữa các nghiệm thức thí
nghiệm (Hình 6) khác biệt có ý nghĩa thống kê
(P < 0,05). Trong đó, khối lượng 1.000 hạt cao nhất
là ở nghiệm thức đối chứng (3,35 g) nhưng khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với nghiệm thức tưới
mặn 1‰ (3,16 g) và 2‰ (3,05 g). Nghiệm thức tưới
mặn 4‰ có khối lượng 1.000 hạt thấp nhất (2,63 g),
giảm 21,5% so với đối chứng. Như vậy, khối lượng
1.000 hạt giảm khi nước tưới mặn từ 3‰ trở lên.
Khối lượng hạt trên cây giữa các nghiệm thức
thí nghiệm khác biệt có ý nghĩa thống kê thống kê
(P < 0,05). Trong đó, ba nghiệm thức có khối lượng
hạt cao nhất và tương đương nhau là đối chứng
(7,54 g/cây), tưới mặn 1‰ (7,06 g) và tưới mặn 2‰
(6,60 g) (Hình 6). Hai nghiệm thức có khối lượng hạt
thấp nhất là tưới mặn 3‰ (5,71 g) và 4‰ (5,54 g),
giảm lần lượt 24,3% và 26,5% so với đối chứng. Kết
quả cho thấy, khối lượng lượng hạt giảm khi nồng độ
muối trong nước tưới mặn từ 3‰ trở lên. Suassuna
và cộng tác viên (2017) cho rằng, khối lượng
hạt vừng giảm đáng kể dưới điều kiện tưới mặn
3,6 dS/m (tương đương 2,3‰) ở giai đoạn ra hoa và
hình thành trái. Theo Helale và cộng tác viên (2016),
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng
trái/cây, số lượng hạt/trái, khối lượng 1.000 hạt cũng
như năng suất giữa cây vừng tưới nước mặn và cây
vừng tưới nước ngọt.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của tưới nước mặn đến sinh trưởng và năng suất vừng đen, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯỚI NƯỚC MẶN
ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT VỪNG ĐEN
Nguyễn Hồng Huế1, Trần Ngọc Hữu1, Lê Vĩnh Thúc1,
Nguyễn Quốc Khương1 và Lê Thanh Phong1
TÓM TẮT
Sử dụng nước mặn tưới cho cây trồng trong điều kiện khan hiếm nguồn nước ngọt là vấn đề đang được quan
tâm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, thí nghiệm đã được thực hiện với 5 nghiệm thức, 6 lần lặp lại trong bố trí
khối hoàn toàn ngẫu nhiên nhằm đánh giá ảnh hưởng của tưới nước mặn đến sinh trưởng và năng suất vừng. Các
nghiệm thức bao gồm đối chứng (tưới nước ngọt) và 4 nghiệm thức tưới nước mặn có hàm lượng muối là 1, 2, 3 và
4‰. Kết quả cho thấy, tưới nước mặn 1‰ không làm giảm chiều cao, sinh khối thân, rễ và năng suất vừng. Tưới
nước mặn 2‰ đã làm cho cây vừng giảm sinh khối cây khô (17,5%), sinh khối rễ khô (26,6%) và khối lượng hạt trên
cây (12,5%) so với cây vừng được tưới nước ngọt.
Từ khóa: Năng suất vừng, tưới nước mặn, vừng đen
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu toàn
cầu đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp đặc biệt
là hạn hán và sự xâm nhập mặn. Năm 2016, tình
hình xâm nhập mặn diễn ra rất nghiêm trọng ở Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đã có 170.000 ha lúa
và hoa màu bị ảnh hưởng. Chiều sâu xâm nhập mặn
lớn nhất là khoảng 35 - 65 km với nồng độ 4 g/L
(Lê Xuân Định và ctv., 2016). Trên thế giới, nhiều
nghiên cứu sử dụng nước mặn tưới cho cây trồng đã
được công bố (Beltrán, 1999; Kim et al., 2016). Sử
dụng nước mặn tưới cho cây trồng ở nồng độ cao,
thời gian tưới mặn cũng như số lần tưới làm giảm sự
sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng vì gây
mất nước do sự chênh lệch áp suất thẩm thấu giữa
dung dịch đất và tế bào rễ (Flowers, 2004; Dias et al.,
2017). Cây vừng là cây trồng cạn có giá dinh dưỡng
cao vì trong hạt có hàm lượng dầu và protein dễ tiêu
cao, dầu vừng có chứa nhiều acid béo không no rất
có lợi cho sức khỏe (Kadkhodaie et al., 2014). Ngoài
ra, dầu vừng để lâu không có mùi hôi khó chịu do có
chứa chất sesamol chống oxy hóa (Majdalawieh and
Mansour, 2019). Mặn làm giảm sự nảy mầm (Maher
et al., 2016), giảm tăng trưởng thực vật (Bazrafshan
and Ehsanzadeh, 2014; Muhammad et al., 2018),
giảm sinh sản, năng suất và chất lượng của vừng
(Helale et al., 2016). Trong đó, mặn ở giai đoạn sinh
sản làm giảm số hoa, số lượng trái và sự hình thành
hạt dẫn đến việc làm giảm đáng kể năng suất của
cây vừng (Suassuna et al., 2017). Theo Bahrami và
Razmjoo (2012), Dias và cộng tác viên (2017), cây
vừng có khả năng chịu mặn ở mức độ trung bình.
Ở ĐBSCL, cây vừng được luân canh phổ biến và
đang dần thay thế cây lúa vụ Hè Thu tại một số địa
phương như Đồng Tháp, Cần Thơ và An Giang,
nhờ vào đặc tính chịu hạn (Silva et al., 2016). Theo
Pereira và cộng tác viên (2017) và Materu và cộng
tác viên (2018), canh tác vừng giúp giảm lượng nước
tưới (305 mm) so với trồng lúa (2.000 mm). Điều này
thật sự cần thiết để chuyển đổi cây trồng trong điều
kiện biến đổi khí hậu và thiếu nước ngọt sản suất lúa
trong mùa khô. Tuy nhiên, bên cạnh việc khô hạn,
tình trạng xâm nhập mặn ngày càng gia tăng đã gây
nhiều ảnh hưởng bất lợi đối với cây trồng nói chung
và cây vừng nói riêng. Do đó, nghiên cứu được thực
hiện nhằm xác định nồng độ mặn của nước tưới ảnh
hưởng như thế nào đến sự sinh trưởng và phát triển
của giống vừng đen tuyển chọn ở Ô Môn.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Ống nhựa PVC có kích thước 40 ˟ 20 cm được
sử dụng trong thí nghiệm. Đất sử dụng trong thí
nghiệm là đất mặt ruộng đã được trồng vừng vụ
trước, được phơi khô và trộn đều với phân rơm
với tỷ lệ 2 : 8 theo thể tích. Muối sử dụng trong thí
nghiệm là muối NaCl. Giống vừng đen sử dụng
trong thí nghiệm được tuyển chọn từ dòng vừng Ô
Môn, cây có chiều cao trung bình là 1,2 m, trái to,
năng suất hạt cao 1,5 tấn/ha.
2.2. Phương pháp thực hiện
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghịệm bố trí theo thể thức khối hoàn toàn
ngẫu nhiên gồm 5 nghiệm thức là đối chứng (tưới
nước ngọt) và tưới nước mặn nồng độ 1, 2, 3 và 4‰
(ký hiệu: Mặn 1‰, Mặn 2‰, Mặn 3‰ và Mặn 4‰)
với 6 lần lặp lại. Vừng được gieo trong ống nhựa PVC
tại địa điểm đất khô, không bị ngập nước. Tiến hành
đào 30 lỗ, sao cho đặt vừa ống nhựa PVC, khoảng
cách từ mặt đất đến mặt ống nhựa là 5 cm, khoảng
cách giữa các ống nhựa PVC trong cùng 1 hàng và
giữa các hàng là 20 ˟ 80 cm (Hình 1).
1 Bộ môn Khoa học cây trồng, Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
45
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
Hình 1. Cây vừng trồng trong ống nhựa PVC ở thời điểm 20 ngày sau khi gieo
Hạt giống vừng được ngâm trong nước ấm
(2 sôi - 3 lạnh) trong 4 giờ. Sau đó vớt hạt và gieo vào
ống nhựa PVC. Tưới nước giữ ẩm cho hạt nảy mầm,
chăm sóc và tuyển để lại 2 cây/ống (lượng nước tưới
cho các ống PVC là 150 ml nước/ngày). Sau khi gieo
đến 29 ngày (thời điểm cây bắt đầu ra hoa), tiến
hành tưới nước có nồng độ muối khác nhau. Tưới
lần thứ nhất là 150 ml vào buổi sáng và 150 ml vào
buổi chiều. Sau đó ngưng tưới nước trong 7 ngày và
tiến hành tưới lại bình thường cho cây vừng.
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
Chiều cao cây (cm) được đo từ mặt đất đến đỉnh
sinh trưởng của cây. Số lá/cây là toàn bộ lá trên thân
chính. Số nhánh/cây là toàn bộ nhánh của từng cây
vào thời điểm 29 (ngày xử lý mặn), 36, 43, 50, 57 và
64 ngày sau khi gieo (NSKG). Số trái trên cây là toàn
bộ trái trên cây đếm vào thời điểm thu hoạch. Khối
lượng cây khô và rễ khô (g) tính theo toàn bộ cây và
rễ sấy ở nhiệt độ 70oC đến khi khối lượng không đổi.
Khối lượng 1.000 hạt (g) và khối lượng hạt trên cây
được tính ở ẩm độ hạt 11%.
2.2.3. Xử lý số liệu
Số liệu được phân tích phương sai (ANOVA),
so sánh các giá trị trung bình bằng phép kiểm định
Duncan. Xử lý thống kê số liệu bằng phần mềm IBM
SPSS v. 22.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6 đến tháng
9 năm 2017 tại Trại thực nghiệm giống cây trồng
thuộc Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của nước tưới mặn đến sự phát
triển chiều cao, số nhánh và số lá
Sự phát triển chiều cao ở các nghiệm thức tưới
nước mặn khác biệt không có ý nghĩa thống kê vào
thời điểm 64 NSKT (Hình 2a), với chiều cao cây
trung bình 108,2 cm. Tuy nhiên, chiều cao cây có
xu hướng giảm đối với các nghiệm thức tưới mặn ở
nồng độ cao. Theo Suassuna và cộng tác viên (2017)
cho rằng, việc tưới nước mặn ở giai đoạn ra hoa ít
làm ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về sinh trưởng hơn
ở giai đoạn sinh dưỡng. Kết quả trình bày trong
hình 2b cho thấy số nhánh/cây có xu hướng tăng
dần từ thời điểm bắt đầu khảo sát đến 43 NSKT ở
nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức tưới mặn
1‰. Riêng các nghiệm thức tưới mặn từ 2‰ thì
số nhánh không tăng ở 43 NSKT. Số nhánh ở các
nghiệm thức tưới nước mặn từ 2‰ trở lên khác
biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với nghiệm
thức đối chứng.
Hình 2. Ảnh hưởng của nước tưới mặn đến chiều cao (a), số nhánh (b) và số lá (c)
46
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
Kết quả trình bày trong hình 2c cho thấy số lá/
cây của các nghiệm thức thí nghiệm có xu hướng
tăng dần từ thời điểm bắt đầu khảo sát đến 50 NSKT,
sau đó giảm dần cho đến khi kết thúc thí nghiệm,
đồng thời số lá/cây của các nghiệm thức thí nghiệm
khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) ở thời điểm
64 NSKT. Ở thời điểm 64 NSKT, số lá ở nghiệm thức
đối chứng và nghiệm thức tưới mặn từ 1 đến 2‰ lần
lượt là 28,0; 26,9 và 25,6 lá/cây, nhưng không khác
biệt ý nghĩa thống kê. Ở nghiệm thức tưới mặn 3‰
số lá/cây giảm khác biệt ý nghĩa so với các nghiệm
thức tưới mặn có nồng độ thấp là 22,6 lá/cây. Theo
Suassuna và cộng tác viên (2017), trong các chỉ tiêu
về sinh trưởng thì số lá/cây bị ảnh hưởng nhiều nhất
khi tưới mặn ở giai đoạn ra hoa. Theo Gaballah và
cộng tác viên (2007) nghiệm thức tưới mặn ở nồng độ
4,7 dS/m vào giai đoạn 3 tuần sau khi gieo đã làm số
lá/cây của vừng giảm 24,8% so với tưới nước ngọt.
3.2. Ảnh hưởng của nước tưới mặn đến sự phát
triển rễ
Kết quả trình bày trong hình 3 cho thấy, khối
lượng khô của rễ vừng giữa các nghiệm thức thí
nghiệm ở thời điểm thu hoạch khác biệt có ý nghĩa
thống kê (P < 0,05), trong đó, nghiệm thức đối chứng
(4,63 g/cây) và tưới nước mặn 1‰ (3,71 g/cây) có
khối lượng rễ khô cao nhất và tương đương nhau.
Nghiệm thức tưới nước mặn 4‰ có khối lượng rễ
khô thấp nhất (2,06 g/cây), giảm 55,5% so với đối
chứng. Như vậy, khối lượng rễ khô của vừng bị ảnh
hưởng khi nồng độ mặn từ 2‰. Kết quả này tương
tự như nghiên cứu trên vừng của Gaballah và cộng
tác viên (2007). Koca và cộng tác viên (2007) cho
rằng, sự phát triển của rễ cây vừng giảm khi độ mặn
càng tăng. Theo HuKam và cộng tác viên (2005), tưới
nước mặn ở nồng độ 30 và 50 mM NaCl đã làm chiều
dài rễ vừng giảm từ 34 - 46% so với tưới nước ngọt.
Hình 3. Ảnh hưởng của nước tưới mặn đến khối lượng khô của rễ
Hình 4. Hệ thống rễ vừng khi tưới nước mặn ở các nồng độ khác nhau
Mặn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của rễ
(Hình 4). Rễ cây mè ở nghiệm thức tưới mặn ở nồng
độ cao số lượng rễ giảm so với ở nghiệm thức tưới
mặn nồng độ thấp. Theo Robin và cộng tác viên
(2016) cho rằng, mặn hạn chế rễ mới phát triển.
3.3. Ảnh hưởng của nước tưới mặn đến sinh
khối khô
Kết quả hình 5 cho thấy khối lượng cây khô
giữa các nghiệm thức thí nghiệm ở thời điểm thu
hoạch khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Tuy
nhiên, khối lượng cây khô ở nghiệm thức đối chứng
(27,1 g/cây) và nghiệm thức tưới mặn 1‰ (25,0
g/cây) khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Các
nghiệm thức có khối lượng cây khô thấp hơn
(P < 0,05) đối chứng là tưới nước mặn 2‰ (22,4 g/cây),
3‰ (20,5 g/cây) và 4‰ (18,6 g/cây), trong đó
nghiệm thức tưới nước mặn 4‰ giảm 31,4% so với
đối chứng. Như vậy, khối lượng cây khô giảm khi
tưới nước có nồng độ mặn từ 2‰ trở lên. Tương tự
kết quả nghiên cứu của Muhammad và cộng tác viên
(2018), khối lượng khô của cây vừng giảm khi nồng
47
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
độ mặn gia tăng. Theo Gaballah và cộng tác viên
(2007) tưới nước mặn ở nồng độ 3,12 dS/m (2‰)
cho vừng thì khối lượng thân khô và rễ khô giảm
lần lượt 11,2% và 30,8% so với vừng được tưới nước
ngọt. Bazrafshan và Ehsanzadeh (2014) cho rằng,
tưới nước mặn vào giai đoạn 42 NSKT đã làm khối
lượng cây tươi và khối lượng cây khô giảm ở nồng
độ muối 30 và 60 mM NaCl.
Hình 5. Ảnh hưởng của nước tưới mặn đến sinh khối khô
3.4. Ảnh hưởng của nước tưới mặn đến số trái,
khối lượng 1.000 hạt và khối lượng hạt trên cây
Kết quả trình bày trong hình 6 cho thấy, số trái
trên cây có xu hướng giảm khi tăng nồng độ mặn
trong nước tưới, giảm từ 74,1 trái/cây ở nghiệm
thức đối chứng đến 44,5 trái/cây ở nghiệm thức tưới
mặn 4‰. Số trái/cây giảm bắt đầu từ nghiệm thức
tưới nước mặn 3‰, khác biệt có ý nghĩa thống kê
(P < 0,05) so tưới nước mặn 1- 2‰ và đối chứng.
Hình 6. Ảnh hưởng nồng độ mặn của nước tưới lên số trái/cây,
khối lượng 1.000 hạt và khối lượng hạt/cây
Khối lượng 1.000 hạt giữa các nghiệm thức thí
nghiệm (Hình 6) khác biệt có ý nghĩa thống kê
(P < 0,05). Trong đó, khối lượng 1.000 hạt cao nhất
là ở nghiệm thức đối chứng (3,35 g) nhưng khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với nghiệm thức tưới
mặn 1‰ (3,16 g) và 2‰ (3,05 g). Nghiệm thức tưới
mặn 4‰ có khối lượng 1.000 hạt thấp nhất (2,63 g),
giảm 21,5% so với đối chứng. Như vậy, khối lượng
1.000 hạt giảm khi nước tưới mặn từ 3‰ trở lên.
Khối lượng hạt trên cây giữa các nghiệm thức
thí nghiệm khác biệt có ý nghĩa thống kê thống kê
(P < 0,05). Trong đó, ba nghiệm thức có khối lượng
hạt cao nhất và tương đương nhau là đối chứng
(7,54 g/cây), tưới mặn 1‰ (7,06 g) và tưới mặn 2‰
(6,60 g) (Hình 6). Hai nghiệm thức có khối lượng hạt
thấp nhất là tưới mặn 3‰ (5,71 g) và 4‰ (5,54 g),
giảm lần lượt 24,3% và 26,5% so với đối chứng. Kết
quả cho thấy, khối lượng lượng hạt giảm khi nồng độ
muối trong nước tưới mặn từ 3‰ trở lên. Suassuna
và cộng tác viên (2017) cho rằng, khối lượng
hạt vừng giảm đáng kể dưới điều kiện tưới mặn
3,6 dS/m (tương đương 2,3‰) ở giai đoạn ra hoa và
hình thành trái. Theo Helale và cộng tác viên (2016),
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng
trái/cây, số lượng hạt/trái, khối lượng 1.000 hạt cũng
như năng suất giữa cây vừng tưới nước mặn và cây
vừng tưới nước ngọt.
48
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
IV. KẾT LUẬN
Tưới nước mặn cho cây vừng ở thời điểm ra hoa
với nồng độ muối 1‰ không làm ảnh hưởng đến
một số chỉ tiêu sự sinh trưởng và phát triển của
vừng. Tưới nước mặn 2‰ làm giảm số nhánh, rễ
và số lá vừng. Khối lượng 1.000 hạt, khối lượng hạt
trên cây và số trái không bị ảnh hưởng khi tưới nước
mặn 2‰. Tưới mặn từ 3‰ trở lên làm giảm sự sinh
trưởng và phát triển của vừng.
LỜI CẢM ƠN
Chân thành cảm ơn Dự án Nâng cấp Trường Đại
học Cần Thơ VN14-P6 bằng nguồn vốn vay ODA từ
chính phủ Nhật Bản đã tài trợ kinh phí để thực hiện
đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Xuân Định, Nguyễn Mạnh Quân, Phùng Anh Tiến,
2016. Xâm nhập mặn tại ĐBSCL: Nguyên nhân, tác
động và các giải pháp ứng phó. Bộ Khoa học và Công
nghệ. Tr 29-32.
Bahrami H. and Razmjoo J., 2012. Effect of salinity
stress (NaCl) on germination and early seedling
growth of ten sesame cultivars (Sesamum indicum L.).
International Journal of AgriScience, 2 (6): 529-537.
Bazrafshan A.H. and P. Ehsanzadeh, 2014. Growth,
photosynthesis and ion balance of sesame
(Sesamum indicum L.) genotypes in response
to NaCl concentration in hydroponic solutions.
Photosynthetica, 52 (1): 134-147.
Beltrán J.M., 1999. Irrigation with saline water: benefits
and environmental impact. Agricultural Water
Management, 40 (2-3): 183-194.
Dias A.D., G.S.D. Lima, H.R. Gheyi, R.G. Nobre, J.B.D.
Santos, 2017. Emergence, growth and production of
sesame under salt stress and proportions of nitrate
and ammonium. Rev. Caatinga, Mossoró, 30 (2):
458-467.
Flowers T. J., 2004. Improving crop salt tolerance.
Journal of Experimental Botany, Oxford, 55 (396):
307-319.
Gaballah M.S., B.A. Leila, H.A.E. Zeiny and S. Khalil,
2007. Estimating the performance of salt-stressed
sesame plant treated with antitranspirant. Journal of
Applied Sciences Research, 9: 811-817.
Helale B., A.O. Jafari, J. Razmjoo, 2016. Effect of
salinity levels (nacl) on yield, yield components and
quality content of sesame (Sesamum indicum L.)
Cultivars. Environmental Management and Sustainable
Development, 5: 2164-7682.
HuKam S.G., A. Purohit and N.S. Shekhawat, 2005.
Metabolic changes and protein patterns associated
with adaptation to salinity in Sesamum indicum
cultivars. Journal of Cell and Molecular Biology, 4:
31-39.
Kadkhodaie A., J. Razmjoo, M. Zahedi and M.
Pessarakli, 2014. Selecting sesame genotypes for
drought tolerance based on some physiochemical
traits. Agronomy Journal, 106 (1): 111-118.
Kim H., H. Jeong, J. Jeon and S. Bae, 2016. Effects of
irrigation with saline water on crop growth and yield
in greenhouse cultivation. Water, 8: 127; doi:10.3390/
w8040127.
Koca H., M. Bor, F. Ozdemir and I. Turkan, 2007.
The effect of salt stress on lipid peroxidation,
antioxidative enzymes and proline content of sesame
cultivars. Environmental and Experimental Botany,
60: 344-351.
Maher S., H. Fraj, C. Hannachi, 2016. Enzymatic
and Biochemical Responses of Sesame to Sodium
Chloride at Germination and Early Seedling Growth.
International Journal of Vegetable science, 2: 87-101.
Majdalawieh A.F. and Z.R. Mansour, 2019. Sesamol,
a major lignan in sesame seeds (Sesamum indicum):
Anti-cancer properties and mechanisms of action.
European Journal of Pharmacology, 855: 75-89.
Materu S.T., Shukla, S., Sishodia, R.P., Tarimo,
A., & Tumbo, S.D., 2018. Water use and rice
productivity for irrigation management alternatives
in Tanzania. Water, 10 (8): 1018.
Muhammad A., I.M. Auyo, A. Abubakar, Y. Shehu
and Abubakar A., 2018. Effect of different levels
of sodium chloride (nacl) salt on germination and
seedling growth of sesame (Sesamum indicum L.).
International Journal of Advanced Academic Research
Sciences, Technology & Engineering, 4 (11): 33-41.
Pereira J. R., Guerra, H. O. C., Bezerra, J. R. C., Zonta,
J., Araújo, W., & de Almeida, E. S. A. B., 2017.
Behavior and water needs of sesame under different
irrigation regimes: Analysis of growth. Embrapa
Algodão-Artigo em periódico indexado (ALICE).
Robin A.H.K., C. Matthew, M.J. Uddin and
K.N. Bayazid, 2016. Salinity-induced reduction
in root surface area and changes in major root and
shoot traits at the phytomer level in wheat. Journal of
Experimental Botany, 67 (12): 3719-3729.
Silva R.T., A.B. Oliveira, M.F.Q. Lopes, M.A.
Guimarães and A.S. Dutra, 2016. Physiological
quality of sesame seeds produced from plants
subjected to water stress. Revista Ciência Agronômica,
47 (4): 643-648.
Suassuna J.F., P.D. Fernandes, M.E.B. Brito, N.H.C.
Arriel, A.S.D. Melo and J.D. Fernandes, 2017.
Tolerance to salinity of sesame genotypes in different
phenological stages. American Journal of Plant
Sciences, 8: 1904-1920.
49
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ CƠ CHẤT ĐẾN SINH TRƯỞNG HỆ SỢI
VÀ HÌNH THÀNH QUẢ THỂ NẤM HƯƠNG
Nguyễn Thị Luyện1, Nguyễn Thị Bích Thùy1,
Trần Đông Anh1, Khổng Thị Kim Tiến1, Trần Thị Thùy Trang1,
Nguyễn Thị Mơ1, Lê Văn Vẻ2, Nguyễn Thị Huyền Trang1
TÓM TẮT
Do có giá trị dinh dưỡng và dược liệu cao nên nấm hương là một trong những đối tượng được yêu thích nhất
và nuôi trồng phổ biến trên thế giới. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tối ưu môi trường nhân giống cấp 2 và
cơ chất nuôi trồng nấm hương phù hợp với điều kiện Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy môi trường phù hợp
để nhân giống cấp 2 là 9% thóc luộc, 90% mùn cưa, và 1%CaCO3. Công thức 1 (89% lõi ngô, 10% cám mạch và
1% CaCO3) cho hiệu suất sinh học cao nhất đạt 74%. Kết quả nghiên cứu thu được có thể được ứng dụng trong thực
tiễn để nâng cao năng suất nuôi trồng nấm hương.
Từ khóa: Nấm hương, nuôi trồng, lõi ngô, giá thể.
1 Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2 Department of Bioactive Material Sciences, Chonbuk National University, Jeonju 54896, Korea
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nấm hương (Lentinula edodes) có nguồn gốc
từ châu Á, được nuôi trồng phổ biến thứ 2 trên thế
giới sau nấm mỡ (Bach et al., 2018). Nấm hương
có nhiều giá trị dinh dưỡng với hàm lượng protein,
chất xơ cao, chứa nhiều nguyên tố khoáng quan
trọng (Moonmoon et al., 2011). Quả thể tươi chứa
88 - 92% nước, protein, lipid, carbohydrate, vitamin
và chất khoáng (Wasser, 2004). Lentian phân lập từ
quả thể nấm hương có khả năng chống ung thư, và
kháng virus (Gong et al., 2014). Các chất có hoạt
tính sinh học được tìm thấy trong nấm hương gồm:
polysaccharides, terpenoids, sterols và lipids với các
hiệu quả trong điều trị viêm nhiễm, hạn chế sự phát
triển của các khối u (Finimundy et al., 2014). Do đó,
nấm hương được sử dụng phổ biến trong y học để
điều trị ung thư, tăng cường hệ miễn dịch.
Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới được thực
hiện để tăng năng suất nuôi trồng nấm hương. Theo
Levanon và cộng tác viên (1993), một trong những
điều kiện quan trọng để nuôi trồng thành công nấm
hương là tìm ra được nguồn cơ chất thích hợp cho
quá trình sinh trưởng hệ sợi, hình thành và phát
triển quả thể. Công nghệ nuôi trồng nấm hương
truyền thống sử dụng gỗ khúc sồi, xoài, bơ... làm vật
liệu nuôi trồng (Bach et al., 2018). Nhược điểm của
phương pháp này là chu kì nuôi trồng dài. Vì vậy,
để rút ngắn thời gian nuôi trồng, nuôi trồng nấm
hương trên bịch sử dụng cơ chất phối trộn được coi
là một phương pháp hữu hiệu (Gaitan-Hernandez
and Matta, 2004).
Effects of salt watering on growth and yield of black sesame
Nguyen Hong Hue, Tran Ngoc Huu, Le Vinh Thuc,
Nguyen Quoc Khuong, Le Thanh Phong
Abstract
The use of saline water to irrigate crops in scarcity of fresh water is a great concern issue in the Mekong Delta.
Therefore, the experiment was carried out with 5 treatments, 6 replicates in a completely randomized block design
to assess the effect of salt watering on growth and sesame yield. Five treatments included control (fresh watering)
and 4 treatments of salt watering at salt concentrations of 1, 2, 3, and 4‰. Results showed that salt watering at salt
concentration of 1‰ for sesame did not reduce height, dry biomass of stem and roots, and yield compared to control.
Salt watering at salt concentration of 2‰ for sesame reduced dry leaf biomass (17.5%), dry root biomass (26.6%) and
yield (12.5%) compared to control.
Keywords: Black sesame, sesame yield, salt watering
Ngày nhận bài: 29/3/2020
Ngày phản biện: 25/4/2020
Người phản biện: PGS. TS. Lê Văn Bé
Ngày duyệt đăng: 29/4/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_tuoi_nuoc_man_den_sinh_truong_va_nang_suat_vun.pdf