KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Các vật liệu ủ có ảnh hưởng đến chất
lượng của phân hữu cơ từ chất thải biogas.
Chất lượng phân hữu cơ từ chất cặn và dung
dịch hầm ủ biogas kết hợp với các vật liệu
ủ như vỏ lạc, rơm rạ, than bùn có hàm lượng
dinh dưỡng sau 70 ngày ủ đạt chất lượng tốt,
hàm lượng hợp chất hữu cơ >30%, hàm
lượng đạm tổng số (0,72% - 2,92%), hàm
lượng lân tổng số (0,56% - 1,01%), hàm
lượng kali tổng số (1,04% - 4,64%), hàm
lượng cacbon (30,68% - 33,99%). Phân hữu
cơ từ chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas
không phối hợp với nguyên liệu ủ có pH,
chất hữu cơ, đạm, lân, kali cao. Tuy nhiên,
độ ẩm của phân ở mức khá cao, bên cạnh đó
khối lượng của phân sau ủ rất thấp (30% so
với khối lượng phân ban đầu). Phân hữu cơ
từ chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas kết
hợp với rơm rạ và vỏ lạc (1:1) + chế phẩm
Trichoderma và kết hợp với rơm rạ, vỏ lạc,
than bùn (1:1:2) + chế phẩm Trichoderma
cho kết quả tốt nhất trong các công thức ủ
có phối trộn nguyên liệu ủ với pH ở mức
trung tính, độ ẩm 30%, hàm lượng đạm, lân
và kali cao hơn các công thức còn lại. Về
hiệu quả kinh tế, ủ rơm rạ, vỏ lạc, than bùn
(1:1:2) + dung dịch và chất cặn từ hầm ủ
biogas cho lãi cao nhất + chế phẩm
Trichoderma (2.290 nghìn đồng/m3 phân)
Như vậy bước đầu đánh giá được đây là
công thức ủ phối trộn cho chất lượng dinh
dưỡng và hiệu quả kinh tế cao.
4.2. Kiến nghị
Cần thực hiện việc ủ phân kết hợp với
các vật liệu như rơm rạ, vỏ lạc, than bùn
nhằm cung cấp nguồn phân bón có chất
lượng và giải quyết được tốt việc gây ô
nhiễm môi trường.
Cần có nghiên cứu thêm về sử dụng
phân hữu cơ, để từ đó có thể sử dụng hiệu
quả hơn nguồn phân hữu cơ, góp phần phát
triển nông nghiệp bền vững, tạo ra các sản
phẩm nông nghiệp sạch, tăng năng suất cây
trồng và cải thiện độ phì của đất.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của vật liệu ủ đến chất lượng phân hữu cơ từ chất thải Biogas tại Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2111-2119
2111
ẢNH HƯỞNG CỦA VẬT LIỆU Ủ ĐẾN CHẤT LƯỢNG PHÂN HỮU CƠ TỪ
CHẤT THẢI BIOGAS TẠI THỪA THIÊN HUẾ
Hoàng Thị Thái Hòa*, Trần Thanh Đức, Hồ Công Hưng, Nguyễn Quang Cơ,
Nguyễn Thị Thu Thủy, Đinh Thị Song Thủy, Đỗ Đình Thục
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế.
*Tác giả liên hệ: hoangthithaihoa@huaf.edu.vn
Nhận bài: 08/05/2020 Hoàn thành phản biện: 19/06/2020 Chấp nhận bài: 05/10/2020
TÓM TẮT
Sản xuất phân hữu cơ từ chất thải biogas để tạo ra nguồn phân bón và giải quyết ô nhiễm môi
trường là vấn đề quan trọng hiện nay. Do đó, nghiên cứu được thực hiện với mục đích đánh giá ảnh
hưởng của việc phối trộn một số vật liệu ủ đến chất lượng của phân hữu cơ từ chất thải biogas và từ đó
xác định được vật liệu phối trộn cho chất lượng phân hữu cơ từ chất thải biogas tốt nhất. Thí nghiệm
được tiến hành tại phường Hương Vân, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian từ tháng
11/2019 đến tháng 3/2020 trên 6 công thức với các vật liệu và tỷ lệ ủ khác nhau. Thí nghiệm gồm có 03
lần nhắc lại, bố trí theo kiểu RCBD. Kết quả nghiên cứu cho thấy vật liệu và tỷ lệ ủ khác nhau có ảnh
hưởng đến tính chất lý, hóa học của phân hữu cơ từ chất thải biogas theo thời gian ủ. Trong các vật liệu
ủ thì kết hợp rơm rạ, vỏ lạc với dung dịch và chất cặn hầm ủ biogas (1:1) + chế phẩm Trichoderma và
rơm rạ, vỏ lạc, than bùn với dung dịch và chất cặn hầm ủ biogas (1:1:2) + chế phẩm Trichoderma cho
chất lượng của phân hữu cơ là tốt nhất (N 2,72 - 2,92%; P2O5 0,92%; K2O 2,84 - 4,64%, OM 33,50 -
38,84%). Hiệu quả kinh tế trong sản xuất phân hữu cơ từ chất thải biogas thu được cũng cao nhất ở các
công thức này. Cần mở rộng kết quả nghiên cứu trên quy mô lớn hơn và thử nghiệm hiệu quả của nó
với cây trồng góp phần tăng năng suất, cải tạo đất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ nguồn chất thải
chăn nuôi này.
Từ khóa: Biogas, Cacbon, Phân hữu cơ, Tính chất lý hóa học, Vật liệu ủ
EFFECT OF COMPOSTING MATERIALS ON QUALITY OF ORGANIC
FERTILIZER FROM BIOGAS WASTE IN THUA THIEN HUE PROVINCE
Hoang Thi Thai Hoa*, Tran Thanh Duc, Ho Cong Hung, Nguyen Quang Co,
Nguyen Thi Thu Thuy, Dinh Thi Song Thuy, Do Dinh Thuc
University of Agriculture and Forestry, Hue University.
ABSTRACT
Producing organic fertilizer from animal wastes after biogas treatment to create fertilizer source
and solve environmental pollution is now an important issue. Therefore, the study was conducted with
the purpose of assessing the effect of mixing some composting materials on the quality of organic
fertilizer from animal waste after biogas production and thereby identifying good mixing materials with
the best organic fertilizer from animal waste after biogas production. The experiment consisted of 6
treatments with different composting materials and rates which was conducted in Huong Van ward,
Huong Tra town, Thua Thien Hue province from November 2019 to March 2020. The experiment
consisted of 3 replicates which was arranged in the Randomize Complete Block Design (RCBD). The
research results showed that different composting materials and rates affected on the physical and
chemical properties of organic fertilizer from animal waste after biogas production. Among the
composting materials, the combinations of liquid and solid wastes from the biogas digesters with rice
straw and peanut husks (1:1) + Trichoderma; rice straw, peanut husks and peat (1:1:2) + Trichoderma
gave the best quality of organic fertilizers (N 2.72 - 2.92%; P2O5 0.61 - 0.92%; K2O 2.84 - 4.64%, OM
33.50 - 38.84%). The highest economic efficiencies also obtained in these treatments. It is necessary to
expand the research results on a larger scale and to test its effectiveness on crops that contribute to
productivity, soil improvement and environmental pollution from the animal wastes.
Keywords: Biogas, Carbon, Composting materials, Organic fertilizer, Physical and Chemical properties
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2111-2119
2112 Hoàng Thị Thái Hòa và cs.
1. MỞ ĐẦU
Tận dụng các nguồn chất thải là biện
pháp hiệu quả và kinh tế trong giải quyết ô
nhiễm chất thải hữu cơ vào đất và nước từ
sản xuất nông nghiệp. Trong các giải pháp
được đặt ra thì sản xuất phân hữu cơ là giải
pháp đơn giản, hiệu quả và mang lại nhiều
thuận lợi nhất. Phân hữu cơ là những vật
liệu có hoạt tính sinh học cao, là kết quả của
quá trình phân hủy chất hữu cơ dưới những
điều kiện được kiểm soát. Phân hữu cơ được
sử dụng nhằm cải thiện tính chất đất và cung
cấp dưỡng chất cho cây trồng. Hiện nay,
việc dùng hầm biogas để hạn chế ô nhiễm
môi trường từ vật nuôi, gia súc, gia cầm và
lấy năng lượng đang phát triển mạnh. Sử
dụng hầm ủ biogas được xem là một trong
những giải pháp hiệu quả để xử lý chất thải
chăn nuôi bởi các lợi ích như tiết kiệm chi
phí sử dụng nhiên liệu đun nấu trong gia
đình, giảm mùi hôi, giảm phát thải khí gây
hiệu ứng nhà kính (Nguyễn Thị Quỳnh
Hương và Nguyễn Hải Yến, 2018). Hiệu
quả của hầm ủ biogas mang lại rất lớn,
ngoài việc xử lý tốt chất thải chăn nuôi, chất
cặn từ hầm ủ còn được dùng làm phân bón
cho cây trồng. Tuy nhiên, trong chất thải
hầm ủ có mật số vi khuẩn gây hại đối với
nguồn nước sinh hoạt của con người còn rất
lớn. Nước thải đầu ra của hầm ủ biogas ở
mức giàu dinh dưỡng với giá trị P-PO43- dao
động từ 37,2 - 51,1 mg/L, N-NO3- từ 0,30 -
1,14 mg/L, N-NH4+ từ 105,6 - 217,9 mg/L
và COD trong khoảng 464,4 - 2.552,1 mg/L
(Nguyễn Thị Hồng và Phạm Khắc Liệu,
2012). Nếu nguồn chất thải này thải trực
tiếp vào các ao, hồ, sông hoặc các nguồn
nuớc thì sẽ gây ra hiện tượng ô nhiễm môi
trường nước. Do đó việc xử lý nguồn chất
thải lỏng và cặn sau khi ủ biogas để làm
phân bón hữu cơ là cần thiết. Chất lượng
hay tính chất lý, hóa học của phân hữu cơ
thay đổi tùy theo một số yếu tố như vật liệu
ủ, tỷ lệ ủ và thời gian ủ. Một số kết quả
nghiên cứu cho thấy khi thêm vật liệu ủ
(chất độn) vào phân hữu cơ thì hàm lượng
dinh dưỡng trong phân hữu cơ tốt hơn (Vũ
Hữu Yêm, 1995). Hầu như các kết quả
nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào
phân chuồng, còn rất ít các nghiên cứu liên
quan đến chế biến và xử lý nguồn chất thải
biogas, đặc biệt tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Vì
vậy đề tài được thực hiện nhằm mục đích (i)
đánh giá ảnh hưởng của việc phối trộn một
số vật liệu ủ đến chất lượng của phân hữu
cơ từ chất thải biogas và (ii) xác định được
vật liệu phối trộn tốt nhất đến chất lượng
của phân hữu cơ từ chất thải biogas.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các vật liệu sử dụng sản xuất phân
hữu cơ từ chất thải biogas: vỏ lạc, rơm rạ,
than bùn, chất cặn và dung dịch từ phân lợn
sau ủ biogas.
- Chế phẩm sinh học Trichoderma
của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm
nghiệp Tây Nguyên (hữu cơ 15%,
Trichoderma spp 106 CFU/g, độ ẩm 30%,
pHH2O:5). Lân supe (16,5% P2O5), vôi bột.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Viện Nghiên
cứu Phát triển, trường Đại học Nông Lâm,
phường Hương Vân, thị xã Hương Trà, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
- Thời gian nghiên cứu: tháng
10/2019 - tháng 3/2020.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2111-2119
2113
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Công thức và bố trí thí nghiệm
Bảng 1. Các công thức thí nghiệm
Công thức Vật liệu và tỷ lệ ủ theo thể tích
I (ĐC) Chất cặn và dung dịch hầm ủ
II Rơm, vỏ lạc + chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas (1:1) + chế phẩm Trichoderma
III Than bùn + chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas (1:1) + chế phẩm Trichoderma
IV
Rơm, vỏ lạc + than bùn + chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas (1:1:1) + chế phẩm
Trichoderma
V
Rơm, vỏ lạc + than bùn + chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas (1:2:1) + chế phẩm
Trichoderma
VI
Rơm, vỏ lạc + than bùn + chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas (1:1:2) + chế phẩm
Trichoderma
Thí nghiệm bố trí theo kiểu khối hoàn
toàn ngẫu nhiên (RCBD), 03 lần nhắc lại.
Thể tích mỗi khối ủ là 0,5 m3 (1 m x 1 m x
0,5 m) cho mỗi công thức. Trong đó mỗi lần
lặp lại được phân cách vách ngăn bằng tấm
bạt. Với cách ủ trên có thể giúp tạo khối ủ
lớn tránh mất nhiệt trong quá trình ủ.
2.3.3. Phương pháp ủ và lấy mẫu phân tích
* Phương pháp ủ
Tại mỗi ô thí nghiệm cho các vật liệu
rơm, vỏ lạc, than bùn vào các ô trước theo
thể tích quy định (0,5 m3/hố) như ở các công
thức thí nghiệm, cho vào mỗi ô (0,5% supe
lân và 0,5% vôi) (Vũ Hữu Yêm, 1995), trộn
đều, sau đó cho phân vào các ô đến thể tích
quy định (chiều cao 50 cm). Độ ẩm của các
công thức khi ủ đều ở mức bão hòa 100%,
do phân lợn sau ủ biogas ở dạng dung dịch.
Tiến hành trộn đều và che bạt lên trên. Sau
một tuần ủ tiến hành cho 0,3 kg chế phẩm
Trichoderma vào mỗi ô, đảo đều và phủ bạt
lên trên. Trong suốt thời gian ủ, khối ủ được
phủ bạt kín để giảm bốc hơi và hạn chế mất
đạm, khối ủ được đảo trộn 2 tuần/lần tương
ứng thời gian lấy mẫu.
* Phương pháp lấy mẫu
- Mẫu phân ban đầu:
Sau khi trộn đều phân và các vật liệu
như ở 06 công thức trước khi ủ thành đống
vào hố, lấy 1 mẫu/ô thí nghiệm và trộn đều
(3 mẫu/3 lần nhắc lại trộn gộp thành 1 mẫu),
mỗi mẫu khoảng 0,2 kg được cho vào bì
nilon. Tổng số có 6 mẫu.
- Lấy mẫu phân thường xuyên:
Các mẫu phân được lấy từ các đống
ủ lặp lại trong suốt quá trình thí nghiệm, từ
03 vị trí xung quanh đống, 03 vị trí phía góc
và 03 vị trí phía dưới của đống. Mẫu phân
được lấy sau 2 tuần, 4 tuần, 6 tuần, 8 tuần
và 10 tuần sau ủ. Mỗi lần lấy tổng số mẫu là
18 (6 công thức, 3 lần nhắc lại).
3.4.4. Các chỉ tiêu và phương pháp nghiên
cứu
Tiến hành phân tích các tính chất lý,
hóa học của mẫu phân theo thủ tục phân tích
trong phòng thí nghiệm bao gồm:
+ Độ ẩm: phương pháp sấy ở nhiệt độ
70oC trong 2 h.
+ Cacbon: phương pháp nung ở nhiệt
độ 550oc.
+ pH: phương pháp pH met.
+ Hợp chất hữu cơ: phương pháp
Tiurin.
+ N tổng số: phương pháp Kjeldahl.
+ P2O5 tổng số: phương pháp so màu.
+ K2O tổng số: phương pháp quang
kế ngọn lửa.
3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý thống kê
trên các phần mềm chuyên dụng như
Statisixs 10.0, Microsoft Excel 2016. Phân
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2111-2119
2114 Hoàng Thị Thái Hòa và cs.
tích phương sai 1 nhân tố và so sánh giá trị
tính trung bình tại mức α = 0,05.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của vật liệu ủ đến độ ẩm
của phân hữu cơ từ chất thải biogas
Độ ẩm là một chỉ tiêu quan trọng khi
đánh giá chất lượng của phân. Độ ẩm của
phân thích hợp theo tiêu chuẩn là 30%,
không nên để phân quá khô hoặc quá ướt, vì
điều này có thể khiến các vi sinh vật không
phát triển được. Kết quả thể hiện ở Bảng 2.
Bảng 2. Độ ẩm của phân hữu cơ từ chất thải biogas
Công thức
Ngày lấy mẫu sau ủ (%)
14 ngày 28 ngày 42 ngày 56 ngày 70 ngày
I (ĐC) 76,72a 75,12a 74,73a 70,46a 56,65a
II 73,91a 73,63a 70,74a 67,00a 47,61b
III 54,93b 53,15b 52,62b 50,74b 36,98c
IV 54,47b 52,45b 46,31b 45,46b 40,92bc
V 58,82b 56,60b 55,97b 53,20b 39,37bc
VI 58,85b 60,20b 60,27b 57,08b 42,07bc
LSD0,05 9,36 8,11 10,01 9,36 7,84
a, b, c: Các chữ cái trong cùng một cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa ở mức 0,05
Kết quả ở Bảng 2 cho thấy, độ ẩm có
sự dao động phụ thuộc vào thời gian ủ và
các công thức thí nghiệm. Độ ẩm giảm
xuống theo thời gian ủ, sau khi ủ 14 ngày
các công thức có độ ẩm dao động từ 54,47%
- 76,72%. Độ ẩm có xu hướng giảm xuống
ở tất cả các công thức và dao động khoảng
36,98% - 56,65% tại 70 ngày sau ủ. Các vật
liệu khác nhau có ảnh hưởng đến độ ẩm của
khối ủ. Trong các vật liệu ủ cho thấy sử
dụng than bùn để ủ với chất cặn và dung
dịch hầm ủ cho kết quả có độ ẩm thấp hơn
so với các công thức có ủ với các nguyên
liệu khác. Do than bùn có khả năng thấm tốt
hơn và nhanh khô hơn. Công thức I (ĐC)
chỉ ủ chất cặn và dung dịch hầm ủ cho kết
quả độ ẩm cao nhất, vì công thức này khi
bắt đầu ủ chủ yếu là chất lỏng, nên có độ ẩm
cao >80%. Cùng một vật liệu nhưng tỷ lệ ủ
khác nhau cũng có ảnh hưởng đến độ ẩm
của phân, nhưng không có sai khác về mặt
thống kê, cụ thể được thể hiện ở 03 công
thức IV (40,92%), V (39,37%), VI
(42,07%) tại 70 ngày sau ủ.
3.2. Ảnh hưởng của vật liệu ủ đến hàm
lượng cacbon trong phân hữu cơ từ chất
thải biogas
Bảng 3. Hàm lượng cacbon trong phân hữu cơ từ chất thải biogas
Công thức
Ngày lấy mẫu sau ủ (%)
14 ngày 28 ngày 42 ngày 56 ngày 70 ngày
I (ĐC) 42,29a 40,29ab 40,25ab 33,17a 30,83ab
II 45,05ab 45,05ab 44,00b 43,61c 35,11b
III 43,59a 36,97a 36,84a 35,90ab 30,68a
IV 47,40ab 37,40a 39,71ab 38,94ab 33,99ab
V 54,45b 47,34ab 40,37ab 40,51bc 32,11ab
VI 49,30ab 49,30b 40,07ab 39,70bc 31,88ab
LSD0,05 9,42 10,83 4,95 4,95 3,28
a, b, c: Các chữ cái trong cùng một cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa ở mức 0,05
Hàm lượng cacbon trong phân thể
hiện sự phân hủy của phân theo thời gian.
Kết quả phân tích Bảng 3 cho thấy các công
thức có hàm lượng cacbon ở 14 ngày sau ủ
rất cao, dao động từ 42,3% - 54,5%, do tại
thời gian này các vật liệu ủ hầu như chưa
phân giải. Tại 70 ngày sau ủ, các vật liệu ủ
đã phân giải nên hàm lượng cacbon trong
phân hữu cơ ở các công thức giảm xuống,
thấp nhất ở công thức III (28,7%), vì công
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2111-2119
2115
thức này kết hợp ủ than bùn và phân, nên
hàm lượng cacbon trong than bùn thấp.
Công thức II có hàm lượng cacbon sau ủ cao
nhất là 33,1%, do trong công thức này có
rơm rạ và vỏ lạc ủ với phân tỷ lệ 1:1, bản
thân rơm rạ và vỏ lạc có hàm lượng cacbon
cao, nên khó phân hủy hơn so với các vật
liệu khác (Hoàng Thị Thái Hòa và Đỗ Đình
Thục, 2010).
3.3. Ảnh hưởng của vật liệu ủ đến pH của
phân hữu cơ từ chất thải biogas
pH là một chỉ tiêu quan trọng trong
đánh giá chất lượng của phân, nó phản ánh
tính chua, kiềm hay trung tính của một loại
phân nghiên cứu. Kết quả thể hiện ở Bảng 4.
Bảng 4. pH của phân hữu cơ từ chất thải biogas
Công thức
Ngày lấy mẫu sau ủ
14 ngày 28 ngày 42 ngày 56 ngày 70 ngày
I (ĐC) 6,17a 6,12ab 6,13a 6,65a 6,86a
II 6,24a 5,97b 6,01a 6,39ab 6,52ab
III 5,89a 6,00b 6,02a 6,22b 6,34b
IV 5,97a 6,03b 6,16a 6,42ab 6,51ab
V 6,05a 6,05ab 6,12a 6,44ab 6,49ab
VI 5,96a 6,27a 6,16a 6,42ab 6,42b
LSD0,05 0,35 0,24 0,31 0,42 0,38
a, b: Các chữ cái trong cùng một cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa ở mức 0,05
Kết quả ở Bảng 4 cho thấy, pH có sự
dao động phụ thuộc vào thời gian ủ và các
công thức thí nghiệm. pH tại 14 ngày sau ủ
dao động từ 5,89 - 6,24. Sau khi ủ 70 ngày,
pH có xu hướng tăng lên ở tất cả các công
thức ủ. Điều này là do khi ủ có bổ sung lân
và vôi, quá trình phân giải giải phóng các
cation kiềm nên làm cho giá trị pH của phân
ủ tăng lên tại các công thức (Lê Thị Thanh
Chi và cs., 2010). Các vật liệu khác nhau có
ảnh hưởng đến pH của khối ủ. Sử dụng than
bùn để ủ với chất cặn và dung dịch hầm ủ
cho kết quả có pH thấp hơn so với các công
thức có ủ với các nguyên liệu khác (do than
bùn thường có pH thấp hơn 5,5). Công thức
I (ĐC) chỉ ủ chất cặn và dung dịch hầm ủ
cho kết quả pH cao nhất. Cùng một vật liệu
ủ, nhưng tỷ lệ ủ khác nhau cũng có ảnh
hưởng pH của phân, cụ thể được thể hiện ở
3 công thức IV, V và VI, khi thay đổi tỷ lệ
các vật liệu ủ thì pH cũng thay đổi. Sau 70
ngày, pH của 3 công thức này theo thứ tự
IV > V > VI, tuy nhiên không có sự sai khác
có ý nghĩa về thống kê, điều này cho thấy
nếu tăng tỷ lệ than bùn thì pH của phân càng
thấp (Lê Thị Thanh Chi và cs., 2010).
3.4. Ảnh hưởng của vật liệu ủ đến hàm
lượng hợp chất hữu cơ của phân hữu cơ
từ chất thải biogas
Bảng 5. Hàm lượng hợp chất hữu cơ của phân hữu cơ từ chất thải biogas
Công thức
Ngày lấy mẫu sau ủ (%)
14 ngày 28 ngày 42 ngày 56 ngày 70 ngày
I (ĐC) 31,32b 31,56b 32,12b 33,24b 33,72b
II 35,08a 35,80a 35,36a 36,60a 38,84a
III 27,04c 27,08c 27,72c 27,68c 27,80c
IV 26,84c 26,88c 28,64c 28,78c 28,84c
V 25,56c 26,72c 26,84c 28,60c 28,68c
VI 26,88c 26,90c 28,32c 28,48c 33,50b
LSD0,05 3,43 2,04 2,83 3,32 2,53
a, b, c: Các chữ cái trong cùng một cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa ở mức 0,05
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2111-2119
2116 Hoàng Thị Thái Hòa và cs.
Hợp chất hữu cơ là một chỉ tiêu đặc
biệt quan trọng trong đánh giá chất lượng
của phân hữu cơ, hàm lượng này càng cao
thì phân hữu cơ càng có chất lượng tốt. Kết
quả ở Bảng 5 cho thấy, hàm lượng hợp chất
hữu cơ tăng theo thời gian ủ, do sự khoáng
hóa và mùn hóa hợp chất hữu cơ với sự
tham gia của vi sinh vật trong quá trình ủ
(Hoàng Thị Thái Hòa và cs., 2015), sau 70
ngày ủ hàm lượng chất hữu cơ ở các công
thức dao động từ 27,80% - 38,84%. Công
thức II (kết hợp ủ chất cặn và dung dịch hầm
ủ với vỏ lạc và rơm rạ tỷ lệ 1:1) có hàm
lượng chất hữu cơ cao nhất, cao khác biệt so
với các công thức còn lại. Các công thức thí
nghiệm III đến VI không có sự sai khác có
ý nghĩa về mặt thống kê về hàm lượng hợp
chất hữu cơ.
3.5. Ảnh hưởng của vật liệu ủ đến hàm
lượng đạm tổng số của phân hữu cơ từ
chất thải biogas
Đạm là nguyên tố dinh dưỡng cần
thiết đầu tiên và quyết định năng suất của
cây trồng. Xác định hàm lượng đạm tổng số
trong phân hữu cơ để xem xét khả năng cung
cấp đạm từ trong phân, làm cơ sở bổ sung
lượng phân đạm hóa học cho cây.
Bảng 5. Hàm lượng đạm tổng số của phân hữu cơ từ chất thải biogas
Công thức
Ngày lấy mẫu sau ủ (%)
14 ngày 28 ngày 42 ngày 56 ngày 70 ngày
I (ĐC) 3,03a 2,68a 2,70a 2,74a 2,16b
II 2,18b 2,21b 2,28b 2,40ab 2,72a
III 0,58c 0,68c 0,66c 0,70b 0,72c
IV 0,74c 0,77c 0,81c 0,85b 0,88c
V 0,65c 0,66c 0,69c 0,71b 0,83c
VI 1,85bc 1,96bc 2,35ab 2,72a 2,92a
LSD0,05 0,63 0,47 0,37 0,35 0,41
a, b, c: Các chữ cái trong cùng một cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa ở mức 0,05
Kết quả Bảng 5 cho thấy: Hàm lượng
đạm tổng số có sự tăng dần theo thời gian ủ
từ 14 đến 70 ngày, hàm lượng đạm tổng số
sau khi ủ 14 ngày dao động từ 0,58 - 3,03%.
Hàm lượng đạm tổng số trong các công thức
thí nghiệm là cao nhất tại 70 ngày sau ủ, tuy
nhiên ở công thức I có hàm lượng đạm tổng
số giảm (2,16%) so với các công thức khác,
điều này là do ở công thức này không có bổ
sung vật liệu ủ, nên đạm dễ bị mất đi theo
con đường bay hơi hơn so với các công thức
khác (Vũ Hữu Yêm, 1995), trong khi công
thức VI có hàm lượng đạm tổng số cao nhất
sau 70 ngày ủ (2,92%). Như vậy, khi ủ phân
có bổ sung thêm vật liệu ủ giúp giữ đạm
trong phân tốt hơn, kết quả nghiên cứu này
tương đồng với các nghiên cứu của các tác
giả khác (Phạm Tiến Hoàng, 2003; Hoàng
Thị Thái Hòa và cs., 2015). Trong các vật
liệu ủ khác nhau thì sử dụng vỏ lạc và rơm
rạ, than bùn để ủ với chất cặn và dung dịch
hầm ủ cho hàm lượng đạm tổng số trong
phân cao hơn so với các công thức ủ với các
nguyên liệu khác. Cùng một vật liệu ủ,
nhưng tỷ lệ ủ khác nhau cũng có ảnh hưởng
đến hàm lượng đạm tổng số, cụ thể hàm
lượng đạm theo thứ tự công thức VI> IV>
V, điều này cho thấy nếu tỷ lệ than bùn càng
cao thì hàm lượng đạm càng thấp, nếu tăng
vỏ lạc và rơm rạ hoặc chất cặn và dung dịch
hầm ủ lên thì hàm lượng đạm cũng tăng
theo. Do than bùn nghèo dinh dưỡng, còn
các vật liệu như rơm rạ, vỏ lạc và dung dịch
và chất cặn từ hầm ủ biogas có hàm lượng
đạm tổng số cao (Đường Hồng Dật, 2002).
3.6. Ảnh hưởng của vật liệu ủ đến hàm
lượng lân tổng số của phân hữu cơ từ
chất thải biogas
Sau đạm, lân là nguyên tố rất cần
thiết đối với cây trồng, nó có ý nghĩa về mặt
dinh dưỡng cũng như khắc phục một số yếu
tố độc hại của đất. Kết quả phân tích được
trình bày ở Bảng 6.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2111-2119
2117
Bảng 6. Hàm lượng lân tổng số của phân hữu cơ từ chất thải biogas
Công thức
Ngày lấy mẫu sau ủ (%)
14 ngày 28 ngày 42 ngày 56 ngày 70 ngày
I (ĐC) 0,48a 0,78a 0,80a 1,04a 1,01a
II 0,38b 0,73b 0,76ab 0,94b 0,92b
III 0,29c 0,43d 0,49b 0,56c 0,59cd
IV 0,21c 0,46c 0,47b 0,55c 0,56d
V 0,24c 0,49c 0,49b 0,54c 0,59cd
VI 0,26c 0,43d 0,52b 0,57c 0,61c
LSD0,05 0,08 0,04 0,05 0,05 0,04
a, b, c, d: Các chữ cái trong cùng một cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa ở mức 0,05
Kết quả Bảng 6 cho thấy: Tương tự
như đạm tổng số, hàm lượng lân tổng số
trong phân hữu cơ phụ thuộc vào thời gian
ủ, vật liệu ủ và tỷ lệ ủ khác nhau. Hàm lượng
lân tổng số cũng có xu hướng tăng lên theo
thời gian ủ. Sau ủ 70 ngày, hàm lượng lân
tổng số trong các công thức thí nghiệm là
cao hơn so với các ngày ủ trước. So sánh
giữa các vật liệu ủ khác nhau cho thấy sử
dụng rơm rạ để ủ với chất cặn và dung dịch
hầm ủ cho hàm lượng lân tổng số trong phân
cao hơn ở tất cả các lần phân tích, điều này
là do rơm rạ có hàm lượng lân cao hơn.
Công thức II (Rơm, vỏ lạc + chất cặn và
dung dịch hầm ủ biogas (1:1) + chế phẩm
Trichoderma) có hàm lượng lân tổng số cao
nhất trong 5 công thức có bổ sung các vật
liệu để ủ. Các công thức có sử dụng than
bùn cho kết quả hàm lượng lân thấp hơn.
Cùng một vật liệu, nhưng tỷ lệ ủ khác nhau
cũng có ảnh hưởng đến hàm lượng lân tổng
số, cụ thể sau 70 ngày ủ, công thức IV và
công thức V có hàm lượng lân thấp hơn theo
thứ tự lần lượt là 0,56% và 0,59%. Công
thức VI có hàm lượng lân tổng số cao hơn
là 0,61%. Kết quả này tương đồng với kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thành và
cs. (2006).
3.7. Ảnh hưởng của vật liệu ủ đến hàm
lượng kali tổng số trong phân hữu cơ từ
chất thải biogas
Kali tổng số cũng là một chỉ tiêu quan
trọng trong đánh giá chất lượng của phân hữu
cơ. Kết quả nghiên cứu thể hiện ở Bảng 7.
Bảng 7. Hàm lượng kali tổng số của phân hữu cơ từ chất thải biogas
Công thức
Ngày lấy mẫu sau ủ (%)
14 ngày 28 ngày 42 ngày 56 ngày 70 ngày
I (ĐC) 1,52b 1,58ab 1,68ab 1,60b 1,84b
II 3,92a 4,00a 4,56a 4,40a 4,64a
III 0,64c 0,68b 0,72b 0,96b 1,04b
IV 0,88c 0,88ab 1,28b 1,28b 1,36b
V 0,96c 0,98ab 1,36b 1,38b 1,44b
VI 2,26b 2,32ab 2,46ab 2,56ab 2,84ab
LSD0,05 1,26 3,22 2,98 2,68 2,54
a, b, c: Các chữ cái trong cùng một cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa ở mức 0,05
Hàm lượng kali tổng số tăng lên theo
thời gian ủ từ 14 ngày đến 70 ngày tại tất cả
các công thức, đạt cao nhất ở 70 ngày sau ủ,
dao động từ 1,04% - 4,64%. Công thức II,
có hàm lượng kali tổng số cao nhất (4,64%),
vì công thức này có ủ với chất độn là rơm rạ
và vỏ lạc, hai vật liệu này được xem là có
hàm lượng kali cao (3,0% trong rơm rạ)
(Dobermann và Fairhurst, 2002) và 3,8%
trong vỏ lạc (Karri, 2018). Công thức III có
hàm lượng kali thấp nhất. Công thức II cao
khác biệt so với các công thức còn lại. Các
công thức còn lại không có sự sai khác có ý
nghĩa về mặt thống kê.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2111-2119
2118 Hoàng Thị Thái Hòa và cs.
3.8. Hiệu quả kinh tế từ việc ủ phân hữu
cơ từ chất thải biogas
Bảng 8. Hiệu quả kinh tế trong sản xuất phân hữu cơ từ chất thải biogas
Công thức
Khối lượng
phân trước khi ủ
(m3)
Khối lượng
phân sau khi ủ
(m3)
Tổng thu
(1.000 đ/m3)
Tổng chi
(1.000 đ/m3)
Lãi
(1.000 đ/m3)
I 1,5 0,45 1.125 455 670
II 1,5 0,98 2.450 955 1.495
III 1,5 1,20 3.000 718 2.282
IV 1,5 1,15 2.875 710 2.165
V 1,5 1,25 3.125 867 2.258
VI 1,5 1,20 3.000 710 2.290
Giá phân bón hữu cơ (2,5 triệu đồng/m3); Tổng chi bao gồm chi nguyên liệu ủ và công lao động
Kết quả Bảng 8 cho thấy:
Về tổng thu: có sự khác nhau phụ
thuộc vào khối lượng phân thu được sau ủ.
Công thức V có tổng thu cao nhất là 3.125.
nghìn đồng/m3, tiếp theo là công thứ III và
VI.
Về lãi: công thức III và VI có lãi gần
bằng nhau (2.282.000 đ/m3 - 2.290.000
đ/m3), tuy nhiên xét về chất lượng thì công
thức VI có chất lượng phân tốt hơn. Do vậy
đề xuất lựa chọn công thức VI cho nghiên
cứu tiếp theo trên cây trồng.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Các vật liệu ủ có ảnh hưởng đến chất
lượng của phân hữu cơ từ chất thải biogas.
Chất lượng phân hữu cơ từ chất cặn và dung
dịch hầm ủ biogas kết hợp với các vật liệu
ủ như vỏ lạc, rơm rạ, than bùn có hàm lượng
dinh dưỡng sau 70 ngày ủ đạt chất lượng tốt,
hàm lượng hợp chất hữu cơ >30%, hàm
lượng đạm tổng số (0,72% - 2,92%), hàm
lượng lân tổng số (0,56% - 1,01%), hàm
lượng kali tổng số (1,04% - 4,64%), hàm
lượng cacbon (30,68% - 33,99%). Phân hữu
cơ từ chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas
không phối hợp với nguyên liệu ủ có pH,
chất hữu cơ, đạm, lân, kali cao. Tuy nhiên,
độ ẩm của phân ở mức khá cao, bên cạnh đó
khối lượng của phân sau ủ rất thấp (30% so
với khối lượng phân ban đầu). Phân hữu cơ
từ chất cặn và dung dịch hầm ủ biogas kết
hợp với rơm rạ và vỏ lạc (1:1) + chế phẩm
Trichoderma và kết hợp với rơm rạ, vỏ lạc,
than bùn (1:1:2) + chế phẩm Trichoderma
cho kết quả tốt nhất trong các công thức ủ
có phối trộn nguyên liệu ủ với pH ở mức
trung tính, độ ẩm 30%, hàm lượng đạm, lân
và kali cao hơn các công thức còn lại. Về
hiệu quả kinh tế, ủ rơm rạ, vỏ lạc, than bùn
(1:1:2) + dung dịch và chất cặn từ hầm ủ
biogas cho lãi cao nhất + chế phẩm
Trichoderma (2.290 nghìn đồng/m3 phân)
Như vậy bước đầu đánh giá được đây là
công thức ủ phối trộn cho chất lượng dinh
dưỡng và hiệu quả kinh tế cao.
4.2. Kiến nghị
Cần thực hiện việc ủ phân kết hợp với
các vật liệu như rơm rạ, vỏ lạc, than bùn
nhằm cung cấp nguồn phân bón có chất
lượng và giải quyết được tốt việc gây ô
nhiễm môi trường.
Cần có nghiên cứu thêm về sử dụng
phân hữu cơ, để từ đó có thể sử dụng hiệu
quả hơn nguồn phân hữu cơ, góp phần phát
triển nông nghiệp bền vững, tạo ra các sản
phẩm nông nghiệp sạch, tăng năng suất cây
trồng và cải thiện độ phì của đất.
LỜI CÁM ƠN
Nghiên cứu được thực hiện từ sự hỗ
trợ kinh phí trong đề tài cấp trường trọng
điểm năm 2019 - 2021 của Trường Đại học
Nông Lâm, Đại học Huế.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2111-2119
2119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Lê Thị Thanh Chi, Võ Thị Gương và Joachim
Clemens. (2010). Tác dụng của phân hữu cơ
từ hầm ủ biogas trong cải thiện độ phì nhiều
của đất và năng suất cây trồng. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, 13, 160 - 169.
Đường Hồng Dật. (2002). Cẩm nang phân bón.
Hà Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Hoàng Thị Thái Hòa và Đỗ Đình Thục. (2010).
Đặc tính hóa học của một số loại phân hữu
cơ và phụ phẩm cây trồng sử dụng trong
nông nghiệp trên vùng đất cát biển tỉnh Thừa
Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Đại học Huế,
57, 59 - 68.
Phạm Tiến Hoàng. (2003). Phân hữu cơ trong hệ
thống quản lý dinh dưỡng tổng hợp cho cây
trồng. Tạp chí Khoa học Đất, 18, 49 - 50.
Nguyễn Thị Hồng và Phạm Khắc Liệu. (2012).
Đánh giá hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi
lợn bằng hầm biogas quy mô hộ gia đình ở
Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Đại học
Huế, 73(4), 83 - 91.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương và Nguyễn Hải Yến.
(2018). Đa lợi ích của hệ thống biogas trong
xử lý nước thải chăn nuôi. Tạp chí Môi
trường, 5, 30 - 31.
Nguyễn Xuân Thành, Vũ Thị Hoàn và Nguyễn
Hạ Văn. (2006). Nghiên cứu quy trình xử lý
tàn dư thực vật trên đồng ruộng và tái chế
thành phân hữu cơ trả lại cho đất. Tạp chí
Khoa học Đất, 25, 30 - 32.
Vũ Hữu Yêm. (1995). Giáo trình phân bón. Hà
Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
Dobermann, A., & Fairhurst, T. H. (2002). Rice
straw management. Better Crops
International Journal, 16, 5 - 7.
Hoang, T. T. H., Do, D. T., Nguyen, V. V.,
Richard, B., & Surender, M. (2015).
Improving the value and effectiveness of
manure. ACIAR Proceedings, 143, 91 - 100.
Karri, V. R (2018). Use of groundnut shell
compost as a natural fertilizer for the
cultivation of vegetable plants. International
Journal of Advance Research in Science and
Engineering, 7(1), 97 - 104.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_vat_lieu_u_den_chat_luong_phan_huu_co_tu_chat.pdf