Đối với tăng trọng, kích cỡ cá thu thì không
có sự khác biệt giữa các ao thí nghiệm, ở các
ao khi thu thì cá đạt trọng lượng trung bình là
45 con/kg cá. Tuy không khác biệt về kích cỡ cá
khi thu, nhưng với tỉ lệ sống của các ao khác biệt
đã làm cho năng suất đạt được của các ao cũng
có sự chênh lệch khá cao. Việc bổ sung vi khuẩn
P. pantotrophus theo định kỳ đã giúp năng suất cá đạt
cao nhất ở ao 5 là 16.000 kg/ha và kế đến là ao 4 với
năng suất là 12.500 kg/ha. Với việc bổ sung vi khuẩn
P. pantotrophus khi có sự cố về H2S cũng mang lại
năng suất thu được khá cao, từ 10.714 kg/ha đến
11.429 kg/ha ở ao 3 và ao 2 tương ứng. Riêng ở ao
đối chứng thì năng suất thu được chỉ đạt 7.143 kg/ha.
Kết quả này chứng tỏ việc bổ sung vi khuẩn P.
pantotrophus vào trong ao ương cá tra đã giúp cải
thiện môi trường nước, tăng tỉ lệ sống và tăng năng
suất ao nuôi trong khoảng thời gian ương cá bột lên
cá giống, mang lại hiệu quả cho người nuôi. Kết quả
tương tự được báo cáo bởi Panichakornkul (2007)
và Jacobs và cộng tác viên (2015), bổ sung sản phẩm
PondDtox® chứa vi khuẩn P. pantotrophus vào ao
nuôi giúp tăng tỉ lệ sống và năng suất của tôm thẻ
chân trắng và cá vàng.
IV. KẾT LUẬN
Sử dụng sản phẩm PondDtox® chứa vi khuẩn
Paracoccus pantotrophus bổ sung vào trong ao ương
cá tra giống đã góp phần cải thiện môi trường nước,
giảm khí độc H2S trong môi trường ao nuôi đồng
thời làm tăng tỉ lệ sống của cá tra giống gần 50% so
với ao đối chứng và đạt năng suất cao hơn. Ngoài ra,
bổ sung vi khuẩn P. pantotrophus vào ao nuôi định
kỳ cho hiệu quả cao hơn so với bổ sung vi khuẩn khi
ao có sự cố về H2S.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của vi khuẩn paracoccus pantotrophus lên hàm lượng khí độc H₂S trong ao ương cá tra giống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
128
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
ẢNH HƯỞNG CỦA VI KHUẨN Paracoccus pantotrophus
LÊN HÀM LƯỢNG KHÍ ĐỘC H2S TRONG AO ƯƠNG CÁ TRA GIỐNG
Phạm Thị Tuyết Ngân1, Vương Văn Nghĩa2,
Trần Trung Giang1, Vũ Hùng Hải1
TÓM TẮT
Đánh giá hiệu quả xử lý khí độc H2S trong nước của sản phẩm PondDtox® chứa vi khuẩn Paracoccus pantotrophus
được thực hiện trong 5 ao ương cá tra giống tại huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ. Ao đối chứng không bổ sung
sản phẩm; ao thí nghiệm 2 và 3 bổ sung 150 g/1000 m3 khi ao có sự cố H2S; ao thí nghiệm 4 và 5 bổ sung định kỳ
10 ngày/lần vào tháng đầu và bổ sung 7 ngày/lần vào tháng thứ 2 và 3 với liều lượng là 150 g/1000 m3. Ao ương có
diện tích 0,2 - 0,7 ha, cá tra bột sau khi nở 20 giờ được thả vào ao ương với mật độ từ 714 - 800 con/m2. Kết quả cho
thấy các ao ương cá tra được bổ sung sản phẩm chứa vi khuẩn P. pantotrophus có hàm lượng H2S thấp hơn so với ao
đối chứng. Thêm vào đó, tỉ lệ sống của cá tra giống khi thu hoạch cao hơn gần 50% so với ao đối chứng không bổ
sung sản phẩm chứa vi khuẩn; năng suất cá và doanh thu cũng cao hơn. Đặc biệt, bổ sung vi khuẩn P. pantotrophus
định kỳ vào ao ương cho hiệu quả cao hơn so với sử dụng sản phẩm khi ao có sự cố về H2S. Điều này biểu thị sử dụng
sản phẩm chứa vi khuẩn P. pantotrophus đã góp phần cải thiện môi trường nước, giảm khí độc H2S và tăng hiệu quả
trong ương nuôi cá tra giống.
Từ khóa: Cá tra, Pangasianodon hypophthalmus, Paracoccus pantotrophus, H2S
1 Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ; 2 Công ty Bayer Việt Nam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là đối
tượng nước ngọt được nuôi chủ lực ở vùng Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đồng thời là sản
phẩm xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt
Nam, sau con tôm. Vì thế, việc cung cấp đủ con
giống cá tra có chất lượng tốt được đặt lên hàng đầu
để đáp ứng được nhu cầu nuôi cá tra hàng năm. Tuy
nhiên, việc ương cá tra giống gặp nhiều khó khăn vì
bệnh thường xuyên xảy ra, các yếu tố thủy, lý hóa,
môi trường nước ao nuôi luôn có biến động lớn và
không ổn định... làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cá
nuôi và cá có tỷ lệ sống thấp (Đinh Thị Thủy, 2017).
Về vấn đề môi trường, khí độc trong ao nuôi là
vấn đề cần được quan tâm. Bên cạnh các khí độc
như NH3, NO2 thì H2S là khí độc đặc biệt nguy hiểm
đối với tôm, cá. H2S tồn tại trong nước vượt giới hạn
sẽ gây ngạt, stress, phát sinh dịch bệnh, chậm phát
triển hay dẫn đến chết hàng loạt cho tôm, cá nuôi
(Boyd, 1998). Theo Chanratchakool và cộng tác viên
(2003), H2S là chất khí cực độc đối với thủy sinh vật,
làm mất khả năng vận chuyển oxy của hemoglobin
dẫn đến động vật nuôi chết ngạt.
Mặt khác, ĐBSCL là một trong những vùng đất
có độ phèn cao, pH thấp nên hàm lượng khí độc H2S
rất dễ phát sinh trong quá trình nuôi. Theo Nguyễn
Đình Trung (2004) và Cao Phương Nam (2008) cho
rằng hàm lượng H2S phụ thuộc vào nhiệt độ và pH
của nước, H2S tăng cao khi pH giảm thấp. Hiện nay
đã có nhiều biện pháp nhằm làm giảm lượng khí độc
trong ao nuôi như các biện pháp cơ học (sục khí, trộn
nước tầng đáy, siphon,), các chất hóa học, sinh học
đều đã được sử dụng nhưng mang lại hiệu quả chưa
cao. Một số nghiên cứu nhận thấy sử dụng sản phẩm
PondDtox® chứa vi khuẩn Paracoccus pantotrophus
để kiểm soát hàm lượng H2S trong ao nuôi tôm, cá
rất có hiệu quả, giúp cải thiện môi trường và tăng
năng suất ao nuôi (Panichakornkul, 2007; Jacobs
et al., 2015). Tuy nhiên, liều lượng và thời điểm bổ
sung vi khuẩn P. pantotrophus khác nhau theo loài
nuôi, mật độ nuôi và điều kiện ao nuôi. Do đó, mục
tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả sử
dụng vi khuẩn P. pantotrophus làm giảm hàm lượng
khí độc H2S trong ao ương cá tra giống phục vụ cho
nghề nuôi cá tra bền vững ở ĐBSCL.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Chế phẩm vi sinh PondDtox® (Paracoccus
pantotrophus) được cung cấp từ Công ty Bayer Việt
Nam dùng để làm giảm hàm lượng khí độc H2S trong
ao ương cá tra (Pangasianodon hypophthalmus).
Máy đo đa năng YSI 556 (Mỹ), máy công phá mẫu,
máy so màu quang phổ, chai lọ, dụng cụ thu và phân
tích mẫu.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành với 05 ao ương cá tra
giống tại huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ. Mật độ
nuôi, khẩu phần ăn và điều kiện chăm sóc của 05 ao
ương đều giống nhau. Thí nghiệm được bắt đầu khi
129
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
cá tra bột sau khi nở 20 giờ được thả vào ao ương. Thí
nghiệm được bố trí như sau: (1) Ao đối chứng (theo
dõi bình thường); (2) Ao thí nghiệm (ao 2 và 3) dùng
sản phẩm PondDtox® với liều lượng 150g/1000 m3
khi có sự cố H2S và (3) Ao thí nghiệm (4 và 5) dùng
100 g/1000 m3 với thời gian định kỳ như sau: tháng
1: 10 ngày/lần; tháng 2 và 3: 07 ngày/lần. Trước khi
bắt đầu thí nghiệm các chỉ tiêu pH, nhiệt độ, độ đục,
hàm lượng H2S, NO3-, NO2- được kiểm tra.
Theo dõi với chu kỳ 01 tuần/lần. Sau khi sử dụng
sản phẩm vi khuẩn bổ sung vào ao nuôi, các chỉ tiêu
này được kiểm tra vào ngày 3 và ngày 7 sau ngày bổ
sung đến khi thu hoạch cá giống.
2.2.2. Phương pháp phân tích
Mẫu được phân tích tại phòng thí nghiệm phân
tích chất lượng nước - Bộ môn Thủy sinh học ứng
dụng - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ.
Phương pháp thu và phân tích mẫu được trình bày
trong bảng 1.
Bảng 1. Chỉ tiêu, phương pháp thu mẫu
và phân tích mẫu
Chỉ tiêu Dụng cụ Phương pháp phân tích
Nhiệt độ Máy đo YSI 556, Mỹ
Đo và ghi nhận
kết quả trực tiếp
pH Máy đo YSI 556, Mỹ
Đo và ghi nhận
kết quả trực tiếp
Độ đục
Máy đo
Nephelometric
SQ118
Đo và ghi nhận
kết quả trực tiếp
H2S
Chai nút mài nâu
125 ml
Methylene blue
(APHA et al., 1999)
NO3- Chai nhựa 110 mL
Salycilate
(APHA et al., 1999)
NO2- Chai nhựa 110 mL
Diazonium
(APHA et al., 1999)
Ghi chú: APHA = American Public Health Association.
Tỉ lệ sống và năng suất cá tra giống được thu thập
vào cuối đợt ương nuôi.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thử nghiệm được thực hiện từ tháng 12 năm
2017 đến tháng 6 năm 2018. Nghiên cứu được thực
hiện tại ao ương cá tra giống ở huyện Cờ Đỏ, thành
phố Cần Thơ và mẫu được phân tích tại Phòng Thí
nghiệm phân tích chất lượng nước - Bộ môn Thủy
sinh học ứng dụng - Khoa Thủy sản - Trường Đại
học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Chất lượng môi trường nước
3.1.1. Nhiệt độ và pH của nước
Kết quả ghi nhận nhiệt độ của nước ở các ao nuôi
thí nghiệm ít có sự biến đổi qua thời gian theo dõi.
Nhiệt độ ở các ao thí nghiệm qua thời gian theo dõi
tương tự nhau, trung bình là 29,7 ± 1,0oC, dao động
từ 27,2oC đến 31,7oC. Nhiệt độ của nước trong ao
phù hợp cho sự phát triển tốt của cá tra ương trong
ao. Kết quả cũng ghi nhận giá trị pH của nước ít có sự
biến động mặc dù nước trong ao được thay đổi liên
tục trong thời gian theo dõi thí nghiệm. Giá trị pH
trung bình ở các nghiệm thức đạt được là 7,6 ± 0,6
ở các ao thí nghiệm, giá trị pH cao nhất là 8,9 và
thấp nhất là 6,5 ở ao 3. Điều này cho thấy nguồn
nước cung cấp vào trong ao có giá trị pH ổn định, ít
ảnh hưởng đến sự phát triển của cá. Nghiên cứu của
Nguyễn Hữu Lộc (2009), pH trong các ao nuôi cá tra
đầu vụ dao động trong khoảng 7,08 - 7,23 và giảm
ở cuối vụ từ 6,57 - 6,95. Theo Boyd (1998), khoảng
nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của cá tra nhiệt
đới là 28 - 32oC. Qua đó cho thấy diễn biến nhiệt độ
và pH trong ao ương thí nghiệm khảo sát vẫn nằm
trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của cá tra.
3.1.2. Độ đục
Độ đục của nước trong các ao thí nghiệm đều
có sự thay đổi và biến động cao trong thời gian thí
nghiệm. Điều này là do lượng nước bổ sung vào
trong ao được diễn ra mỗi ngày và với thể tích rất
lớn (có khi đến 50%/ngày). Chính vì điều này nên
làm cho độ đục của nước trong ao ở các nghiệm
thức đều có sự biến đổi (các ao đều được cung cấp
nước theo thủy triều). Kết quả ghi nhận độ đục
của nước vào ngày 10 (sau bố trí 10 ngày) của thời
gian thu mẫu có độ đục ổn định nhất, trung bình là
60,0 ± 13,9 NTU ở các ao của thí nghiệm. Độ đục
cao nhất có giá trị là 190 NTU ở ao 5 và thấp nhất
là 33 NTU ở ao 1 vào ngày thứ 52 của thời gian thu
mẫu. Sự chênh lệch này xảy ra cao hơn so với những
ngày khác là do thủy triều của sông (nguồn nước
cấp) vào ngày thu mẫu diễn ra mạnh mẽ hơn những
ngày khác làm cho độ đục ở các ao có sự biến động
lớn. Các thời điểm thu mẫu còn lại tuy có biến động
nhưng còn mức thấp (Hình 1). Theo Boyd (1998),
độ đục thích hợp trong ao cá tra 25 - 80 NTU. Kết
quả cho thấy phần lớn các giá trị độ đục thu được
khi khảo sát luôn nằm trong khoảng thích hợp cho
việc ương nuôi cá tra.
130
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Hình 1. Độ đục của nước qua thời gian thí nghiệm
3.1.3. Hàm lượng nitrite trong nước
Kết quả ghi nhận hàm lượng nitrite trong ao nuôi
ở các nghiệm thức có hàm lượng rất thấp qua thời
gian thu mẫu. Vào ngày nuôi thứ 10, hàm lượng nitrite
trung bình ở các ao thí nghiệm là 0,036 ± 0,02 mg/L,
sau đó biến động thấp đến ngày 59 của thời gian thu
mẫu. Vào ngày 59, hàm lượng nitrite đạt cao nhất
ở ao 2 là 1,299 mg/L, kế đến là ao 1 với hàm lượng
là 0,801 mg/L, ba ao còn lại có hàm lượng rất thấp.
Tuy có sự biến động lớn và thời điểm này giữa các
nghiệm thức nhưng hàm lượng nitrite trong các ao
thí nghiệm vẫn còn ở mức thấp và ít ảnh hưởng đến
sự sinh trưởng của cá tra ương trong ao.
Về thời gian sau, hàm lượng nitrite giảm thấp và
ít biến động đến khi kết thúc thí nghiệm (Hình 2).
Theo Boyd (1998) thì hàm lượng nitrite thích hợp
cho nuôi cá tra phải nhỏ hơn 0,3 mg/l. Kết quả ghi
nhận hàm lượng nitrite trung bình ở các ao nuôi
thấp, không ảnh hưởng đến sức khỏe cá tra ương.
Tuy có một vài thời điểm hàm lượng nitrite tăng cao
nhưng nước ao được bổ sung mới nên hàm lượng
nitrite đã giảm thấp. Qua đó cho thấy diễn biến
nitrite trong ao khảo sát qua các đợt thu mẫu vẫn
nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của
cá tra ương trong ao.
Hình 2. Hàm lượng nitrite trong nước qua thời gian thí nghiệm
3.1.4. Hàm lượng nitrate trong nước
Hàm lượng nitrate trong nước ở các ao thí
nghiệm có giá trị rất thấp qua thời gian thực hiện
thí nghiệm. Điều này là do nước trong ao được thay
đổi thường xuyên (mỗi ngày) nên hàm lượng nitrate
trong ao bị giảm thấp (một phần bị pha loãng nồng
độ do nguồn nước mới, một phần do xã thải ra ngoài
ao). Bên cạnh đó, hàm lượng nitrite trong nước ở các
ao có hàm lượng khá thấp nên việc chuyển hóa từ
nitrite sang nitrate diễn ra ít hơn. Kết quả ghi nhận
được hàm lượng nitrate ở các ao thí nghiệm chưa
đạt được 1 mg/L qua thời gian thí nghiệm (Hình 3).
Giá trị hàm lượng nitrate đạt cao nhất ở ao 2 vào
ngày 66 của thời gian thí nghiệm là 0,632 mg/L,
giá trị trung bình ở các ao nuôi là 0,085 mg/L qua
thời gian thí nghiệm. Theo Boyd (1998) hàm lượng
nitrate từ 0,2 - 10 mg/l không gây hại cho thủy sinh
vật. Như vậy, giá trị nitrate đo được trong ao vẫn ở
mức thấp, không gây hại đến sự phát triển của cá tra
ương trong ao.
131
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Hình 3. Hàm lượng nitrate trong nước qua thời gian thí nghiệm
3.1.5. Hàm lượng khí H2S trong nước
Khí H2S là một trong những nguyên nhân trực
tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của cá tra
ao trong ương. Qua quá trình phân hủy vật chất hữu
cơ tích lũy sẽ tạo nhiều hàm lượng khí H2S gây độc
cho ao nuôi.
Hình 4. Hàm lượng H2S trong nước qua thời gian thí nghiệm
Kết quả ghi nhận hàm lượng khí H2S có giá trị
tăng cao trong tháng đầu tiên của thời gian thu mẫu.
Điều này là do việc tích lũy thức ăn dư thừa, bài tiết
của cá nuôi và mùn bã hữu cơ tích tụ trong ao đã
được phân hủy yếm khí nên tạo ra nhiều hàm lượng
khí H2S trong nước. Tuy nhiên, hàm lượng khí H2S
đã giảm dần ở tất cả ao nuôi từ sau ngày 31 của thí
nghiệm cho đến khi kết thúc thời gian theo dõi.
Riêng ở ao 1 (đối chứng), hàm lượng khí H2S tuy có
giảm nhưng ở mức thấp và duy trì đến khi kết thúc
thí nghiệm. Điều này cho thấy rằng việc bổ sung sản
phẩm chứa vi khuẩn P. pantotrophus vào trong nước
đã có tác động đến hàm lượng khí H2S làm cho hàm
lượng khí H2S trong nước ở các ao bổ sung giảm
thấp hơn rất nhiều so với ao đối chứng (không bổ
sung). Cụ thể, vào ngày thứ 73 của thời gian theo
dõi hàm lượng của khí H2S ở ao 1 là 0,008 mg/L,
trong khi đó ở các ao có bổ sung thì dưới mức
0,001 mg/L. Như vậy có thể thấy rằng việc bổ sung
sản phẩm chứa vi khuẩn P. pantotrophus từ sau
31 ngày đã ảnh hưởng rất tốt đến chất lượng nước,
cũng như làm giảm hàm lượng khí H2S trong ao ương
cá tra (Hình 4). Kết quả này phù hợp với các nghiên
cứu trước, bổ sung định kỳ sản phẩm PondDtox®
chứa vi khuẩn Paracoccus pantotrophus đã làm
giảm đáng kể hàm lượng H2S trong ao nuôi tôm thẻ
chân trắng Litopenaeus vannamei (Panichakornkul,
2007) và cá vàng Notemigonus crysoleucas (Jacobs
et al., 2015) so với với ao đối chứng không bổ sung
sản phẩm PondDtox®.
Theo QCVN 02-20:2014/BNNPTNT quy định
hàm lượng H2S trong ao cá phải nhỏ hơn 0,05 mg/L.
Mặc dù hàm lượng khí H2S trong ao đối chứng cao
hơn các ao thí nghiệm nhưng vẫn nằm trong khoảng
thích hợp cho sự phát triển của cá tra giống.
3.2. Một số chỉ tiêu đánh giá ương cá tra giống
Với kết quả ghi nhận được thì việc bổ sung sản
phẩm chứa vi khuẩn P. pantotrophus đã ảnh hưởng
đến chất lượng nước và chất lượng, năng suất của
132
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
cá tra trong ao ương. Cụ thể, với mật độ thả tương
đồng nhau nhưng khi thu cá giống, tỉ lệ sống của cá
ở các ao bổ sung vi khuẩn P. pantotrophus có giá trị
cao hơn so với ao đối chứng. Với việc sử dụng sản
phẩm khi có sự cố thì ao 2 và ao 3 có tỉ lệ sống đạt
là 7,2% và 6,8% tương ứng. Đối với việc sử sụng sản
phẩm định kỳ thì tỉ lệ sống ở Ao 4 và Ao 5 có giá
trị cao hơn là 7,5% và 9,0% tương ứng, trong khi ao
đối chứng đạt tỉ lệ sống 4,5% ở cuối đợt ương. Qua
đó cho thấy bổ sung sản phẩm PondDtox® chứa vi
khuẩn P. pantotrophus vào trong ao ương cá tra đã
giúp nâng cao tỉ lệ sống của cá cho đến giai đoạn cá
giống và việc sử dụng sản phẩm định kỳ như việc
phòng ngừa đã cho kết quả tốt hơn việc sử dụng khi
có sự cố về H2S.
Bảng 2. Kết quả thu hoạch cá tra giống sau khi kết thúc đợt ương
Ao ương Ao 1 Ao 2 Ao 3 Ao 4 Ao 5
Diện tích (ha) 0,7 0,7 0,56 0,2 0,5
Số cá thả (con) 5.000.000 5.000.000 4.000.000 1.500.000 4.000.000
Mật độ (con/m2) 714 714 714 750 800
Tỉ lệ sống (%) 4,5 7,2 6,8 7,5 9,0
Khối lượng thu (kg) 5.000 8.000 6.000 2.500 8.000
Kích cỡ thu (con/kg) 45 45 45 45 45
Số lượng thu (con) 225.000 360.000 270.000 112.500 360.000
Năng suất (kg/ha) 7.143 11.429 10.714 12.500 16.000
Tổng doanh thu (đồng) 225.000.000 360.000.000 270.000.000 112.500.000 360.000.000
Đối với tăng trọng, kích cỡ cá thu thì không
có sự khác biệt giữa các ao thí nghiệm, ở các
ao khi thu thì cá đạt trọng lượng trung bình là
45 con/kg cá. Tuy không khác biệt về kích cỡ cá
khi thu, nhưng với tỉ lệ sống của các ao khác biệt
đã làm cho năng suất đạt được của các ao cũng
có sự chênh lệch khá cao. Việc bổ sung vi khuẩn
P. pantotrophus theo định kỳ đã giúp năng suất cá đạt
cao nhất ở ao 5 là 16.000 kg/ha và kế đến là ao 4 với
năng suất là 12.500 kg/ha. Với việc bổ sung vi khuẩn
P. pantotrophus khi có sự cố về H2S cũng mang lại
năng suất thu được khá cao, từ 10.714 kg/ha đến
11.429 kg/ha ở ao 3 và ao 2 tương ứng. Riêng ở ao
đối chứng thì năng suất thu được chỉ đạt 7.143 kg/ha.
Kết quả này chứng tỏ việc bổ sung vi khuẩn P.
pantotrophus vào trong ao ương cá tra đã giúp cải
thiện môi trường nước, tăng tỉ lệ sống và tăng năng
suất ao nuôi trong khoảng thời gian ương cá bột lên
cá giống, mang lại hiệu quả cho người nuôi. Kết quả
tương tự được báo cáo bởi Panichakornkul (2007)
và Jacobs và cộng tác viên (2015), bổ sung sản phẩm
PondDtox® chứa vi khuẩn P. pantotrophus vào ao
nuôi giúp tăng tỉ lệ sống và năng suất của tôm thẻ
chân trắng và cá vàng.
IV. KẾT LUẬN
Sử dụng sản phẩm PondDtox® chứa vi khuẩn
Paracoccus pantotrophus bổ sung vào trong ao ương
cá tra giống đã góp phần cải thiện môi trường nước,
giảm khí độc H2S trong môi trường ao nuôi đồng
thời làm tăng tỉ lệ sống của cá tra giống gần 50% so
với ao đối chứng và đạt năng suất cao hơn. Ngoài ra,
bổ sung vi khuẩn P. pantotrophus vào ao nuôi định
kỳ cho hiệu quả cao hơn so với bổ sung vi khuẩn khi
ao có sự cố về H2S.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2014.
QCVN 02-20:2014/ BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus Sauvage, 1878) trong ao - Điều kiện
bảo đảm vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn
thực phẩm.
Nguyễn Hữu Lộc, 2009. Sự biến đổi chất lượng trong
hệ thống nuôi cá tra (Pangasianodon hypopthalmus)
thâm canh ở các quy mô khác nhau. Luận văn tốt
nghiệp cao học. Trường Đại học Cần Thơ.
Cao Phương Nam, 2008. Khảo sát diễn biến H2S ở lớp
nước đáy, nước trong bùn đáy trên các mô hình nuôi
tôm sú vùng đất phèn hoạt động ở Cà Mau. Tạp chí
Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường 22, 3-11.
Đinh Thị Thủy, 2017. Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật
nâng cao tỷ lệ sống và chất lượng cá tra từ bột lên
giống ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đề tài nghiên cứu
khoa học, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2,
mã số 13740/2017.
Nguyễn Đình Trung, 2004. Quản lý chất lượng nước
trong nuôi trồng thủy sản. Nhà xuất bản Nông Nghiệp
Tp. Hồ Chí Minh.
133
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
APHA, AWWA, WEF, 1999. Standard moethods for the
examination of water and wastewater, 19th edition.
American Public Health Association 1015 Fifteenth
Street, NW Washington, DC 20005.
Boyd, C.E, 1998. Water quality for pond aquaculture.
Research and development series. No.43. International
center for aquaculture and aquatic environtments
Alabama quaculture experient station Auburn
University.
Chanratchakool, P., Turnbull, J.F., Funge-Smith, S.J.,
Macrae, I.H. and Limsuwan, C., 2003. Quản lý sức
khỏe tôm trong ao nuôi. Tái bản lần thứ 4. Người
dịch: Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh Phương,
Đặng Thị Hoàng Oanh, Trần Ngọc Hải. DANIDA -
Bộ Thủy sản, 153 trang.
Jacobs, J., Kelly, A.M. and Roy, L.A., 2015. The use
of Paracoccus pantotrophus to reduce hydrogen
sulfide concentrations in commercial golden shiner
Notemigonus crysoleucas ponds in Arkansas. World
Aquaculture Society Meetings, Aquaculture America
2015 - Meeting Abstract.
Panichakornkul, L., 2007. Effects of Paracoccus
pantotrophus on water quality and production of
Pacific white shrimp (Litopenaeus vannamei) cultured
in low salinity water. Thesis of Master of Science
(Fisheries Science). Department of Fisheries Biology,
Kasetsart University, Bangkok. 104 p.
Effect of Paracoccus pantotrophus on H2S concentration
in nursing pond of striped catfish
Pham Thi Tuyet Ngan, Vuong Van Nghia,
Tran Trung Giang, Vu Hung Hai
Abstract
Efficiency of PondDtox® product containing bacteria Paracoccus pantotrophus for treating the toxic hydrogen sulfide
gas (H2S) was conducted in 5 catfish (Pangasianodon hypopthalmus) nursery ponds in Co Do district, Can Tho
city. The control pond without supplemented bacteria; the experimental ponds (pond 2 and 3) which were applied
PondDtox® at amount of 150 g/1000 m3 when the pond had problem with H2S; the experimental ponds (pond 4 and
5) which were added with PondDtox® at a dose of 150 g/1000 m3 every 10 days at the first month and every 7 days
at the second and the third month. The area of nursery ponds were from 0.2 - 0.7 ha and fish larvae of 20 days post
hatching was stocked in the nursery pond at densities of 714 - 800 fish/m2. Results showed that the experimental
nursery ponds supplemented with bacteria P. pantotrophus had lower H2S concentration than that of the control
pond in most sampling time. Additionally, survival of fish at harvest was almost 50% higher compared to those in the
control pond without supplementing bacteria. Particularly, periodic supplement of bacteria P. pantotrophus applied
in the nursery ponds that gave more effectiveness than addition of bacteria when the pond had problem with H2S.
These results indicated that use of product containing bacteria P. pantotrophus contributed the improvement of water
environment, reduction of toxic H2S and enhanced efficiency in nursing catfish fingerlings.
Keywords: Catfish (Pangasianodon hypophthalmus), Paracoccus pantotrophus, H2S
Ngày nhận bài: 3/4/2019
Ngày phản biện: 11/4/2019
Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Anh
Ngày duyệt đăng: 15/5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_vi_khuan_paracoccus_pantotrophus_len_ham_luong.pdf