Bên cạnh đó, do thị trường
VN còn tiềm ẩn tình trạng bất
cân xứng thông tin cao, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến việc dự trữ
tiền mặt của các doanh nghiệp, kỳ
vọng của nhà đầu tư và niềm tin
của ngân hàng, nhà cung cấp. Do
đó, giá trị doanh nghiệp bị đánh giá
không cao, tính cạnh tranh thấp và
gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong
thời kỳ hội nhập với khu vực và
thế giới. Dựa vào các kết quả tìm
được của bài nghiên cứu, nhóm tác
giả cho rằng các doanh nghiệp phải
chú tâm đến việc xây dựng các
chính sách quản trị tiền mặt hiệu
quả cũng như hoạch định chiến
lược tài chính thông qua việc ra và
thực hiện quyết định đầu tư, quyết
định tài trợ và quyết định phân phối
cổ tức cho doanh nghiệp mình sao
cho tối đa hóa giá trị tài sản của cổ
đông.
10 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 497 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của việc nắm giữ tiền mặt vượt trội đến các quyết định tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
36
1. Giới thiệu
Trước bối cảnh nền kinh tế VN
nhiều biến động và bất ổn từ tác
động của cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008, khá nhiều doanh
nghiệp đã có xu hướng tích luỹ
nhiều tiền mặt tại quỹ. Nắm giữ
nhiều tiền sẽ giúp doanh nghiệp
gia tăng được tính thanh khoản, có
tính linh hoạt tài chính cao, dễ dàng
thực hiện các nghĩa vụ tài chính
theo hợp đồng với các chủ nợ,
thanh toán được tiền mua hàng
cho nhà cung cấp, đáp ứng được
các khoản chi phí để duy trì hoạt
động, thực hiện được các dự án
đầu tư sinh lời, đáp ứng được các
nhu cầu cần thiết trong ngắn hạn,
và đề phòng trường hợp doanh
nghiệp gặp phải những tình huống
khẩn cấp không lường trước được
cũng như các dự tính trong tương
lai. Nhưng mặt khác, khi doanh
nghiệp nắm giữ quá nhiều tiền thì
vấn đề đại diện cũng trở nên trầm
trọng hơn. Nắm giữ nhiều tiền
sẽ khiến cho các nhà quản lý của
doanh nghiệp dễ dàng theo đuổi lợi
ích cá nhân bằng cách thực hiện đầu
tư dưới mức vào các dự án không
hiệu quả, hoặc đầu tư quá mức làm
ảnh hưởng đến lợi ích của các cổ
đông cũng như giá trị của công ty.
Trực tiếp nhất đó là cơ hội phí
của tiền, có thể ước tính dựa vào
số tiền lãi mà doanh nghiệp nhận
được khi gửi tiền tại ngân hàng.
Vậy, khi lượng tiền mặt tích luỹ trở
nên quá mức thì các doanh nghiệp
VN sẽ phải thực hiện các quyết
định tài chính như thế nào? Liệu
lượng tiền mặt tích luỹ quá mức tại
quỹ có khả năng làm tăng chi phí
đại diện, gây ra hiện tượng đầu tư
dưới mức khiến cho nhà đầu tư bi
quan hơn đối với chiến lược phát
triển của doanh nghiệp trong tương
lai hay không? Làm cách nào để
xây dựng các chính sách quản trị
tiền mặt hiệu quả cũng như hoạch
định chiến lược tài chính thông qua
việc ra và thực hiện quyết định đầu
tư, quyết định tài trợ và quyết định
Ảnh hưởng của việc nắm giữ tiền mặt
vượt trội đến các quyết định tài chính
của các doanh nghiệp Việt Nam
NGuyễN Thị uyêN uyêN & Từ Thị Kim Thoa
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Nhận bài: 23/08/2015 – Duyệt đăng: 20/10/2015
Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên phân tích dữ liệu thực từ báo cáo tài chính của 158 công ty phi tài chính VN niêm yết trên sàn HSX và HNX, trong giai đoạn 2006 – 2013 nhằm kiểm định ảnh hưởng của việc
tích lũy tiền mặt quá mức đến các quyết định tài chính để từ đó tác động đến giá trị
doanh nghiệp của các doanh nghiệp VN. Kết quả cho thấy quyết định đầu tư có tác
động tích cực lên giá trị doanh nghiệp nhưng không có sự khác biệt giữa nhóm công
ty nắm giữ tiền mặt vượt trội và nhóm công ty nắm giữ ít tiền mặt. Quyết định tài trợ
cũng có cùng tác động như quyết định đầu tư; tuy nhiên, ở quyết định này những
công ty nắm giữ tiền mặt vượt trội có ảnh hưởng mạnh hơn và có ý nghĩa thống kê
so với nhóm còn lại. Cổ đông của những công ty nắm giữ tiền mặt vượt trội không
đánh giá cao chính sách chi trả cổ tức bằng tiền mặt, trong khi đó với nhóm còn lại
kết quả chưa rõ ràng và không có ý nghĩa thống kê.
Từ khoá: Dự trữ tiền mặt quá mức, các quyết định tài chính, giá trị công ty,
vấn đề đại diện, VN.
Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
37
phân phối cho doanh nghiệp sao
cho tối đa hóa giá trị tài sản của cổ
đông trong điều kiện kinh tế hiện
nay vẫn là vấn đề nan giải đối với
các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2. Tổng quan nghiên cứu
Đã có nhiều bằng chứng thực
nghiệm trên thế giới cho thấy các
quyết định tài chính của doanh
nghiệp không những ảnh hưởng
đến giá trị doanh nghiệp mà thậm
chí còn đóng vai trò quyết định
(Myers, 1984; Stiglitz, 1994; Fama
và French , 1998,...). Nhiều nghiên
cứu cũng phát hiện rằng, lượng
tiền mặt tích luỹ của doanh nghiệp
là một trong những yếu tố có ảnh
hưởng đáng kể đến việc thực hiện
các quyết định tài chính này. Với sự
xuất hiện của chi phí giao dịch, chi
phí phát hành, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,
các doanh nghiệp nắm giữ nhiều
tiền mặt sẽ hạn chế phát hành cổ
phần mới để tài trợ cho các quyết
định đầu tư. Thay vào đó họ sẽ sử
dụng nguồn tài trợ nội bộ hoặc sẽ
điều chỉnh cấu trúc vốn của doanh
nghiệp thiên về sử dụng nợ vì với
lượng tiền mặt nắm giữ nhiều,
doanh nghiệp có thể thực hiện tốt
các nghĩa vụ tài chính theo hợp
đồng với chủ nợ. Hơn nữa, với sự
tồn tại của tình trạng thông tin bất
cân xứng và chi phí đại diện, các
doanh nghiệp nắm giữ càng nhiều
tiền càng có xu hướng sử dụng tiền
không hiệu quả, đặc biệt là có thể
phát sinh các hiện tượng lệch lạc
trong việc thực hiện quyết định đầu
tư: đầu tư dưới mức và đầu tư quá
mức. Theo đó, các doanh nghiệp sẽ
có khuynh hướng hạn chế đầu tư,
và sẽ thực hiện chính sách cổ tức
với tỷ lệ chi trả cổ tức cao hoặc sử
dụng nợ như là một cơ chế kiểm
soát nguồn tiền quá mức. Như
vậy, với các bất hoàn hảo của thị
trường, lượng tiền mặt tích luỹ quá
mức có thể ảnh hưởng trực tiếp đến
các quyết định tài chính của doanh
nghiệp để từ đó ảnh hưởng đến giá
trị doanh nghiệp.
Liên quan đến ảnh hưởng của
việc tích luỹ tiền mặt quá mức đến
quyết định đầu tư, Myers và Majluf
(1984) cho thấy khi các doanh
nghiệp gặp khó khăn trong việc
vay nợ và huy động vốn cổ phần
thông qua phát hành cổ phần mới,
các doanh nghiệp có thể sẽ phải
bỏ lỡ các cơ hội đầu tư giá trị nếu
doanh nghiệp không có nguồn quỹ
dự trữ nội bộ. Còn Tim Opler và
cộng sự (1999) thì lại trưng ra bằng
chứng về lượng tiền mặt nắm giữ
quá mức có ảnh hưởng mạnh mẽ
trong ngắn hạn đến chi tiêu vốn,
và việc chi trả cổ tức cho cổ đông.
Quyết định đầu tư của các doanh
nghiệp sẽ được đảm bảo hơn khi
lượng tiền mặt tồn quỹ tại các
doanh nghiệp nhiều. Sean Cleary
(1999) thì lại cho thấy quyết định
đầu tư của các công ty có khả năng
trả nợ cao rất nhạy cảm với nguồn
tài trợ nội bộ. Trong khi đó, Sheu
và Lee (2012) lập luận các doanh
nghiệp hoạt động trong môi trường
mà luật bảo vệ nhà đầu tư còn hạn
chế thì chi tiêu vốn sẽ phụ thuộc
rất nhiều vào lượng tiền mặt được
nắm giữ quá mức, đặc biệt khi các
công ty rơi vào tình trạng hạn chế
tài chính sẽ dễ phát sinh hiện tượng
đầu tư dưới mức. Bổ sung vào xu
hướng nghiên cứu này là nghiên
cứu của Mai E. Iskandar - Datta và
Yonghong Jia (2013). Các tác giả
này đã cho thấy các công ty có cơ
chế quản trị yếu sẽ dự trữ tiền mặt
ít hơn các công ty hoạt động với cơ
chế quản trị mạnh. Bên cạnh đó,
các công ty sẽ sử dụng tiền mặt quá
mức của mình để đầu tư vào các
dự án không sinh lợi và hiện tượng
này xảy ra nhiều hơn ở các quốc
gia có cơ chế quản trị kém. Hai tác
giả này lý giải cho việc lượng tiền
mặt tích luỹ quá mức có tác động
tiêu cực đến hiệu quả hoạt động
công ty, giá trị doanh nghiệp là do
khi nhà đầu tư không được bảo vệ
thì vấn đề đại diện và đầu tư vượt
mức sẽ dễ phát sinh.
Liên quan đến ảnh hưởng của
việc tích luỹ tiền mặt quá mức
đến quyết định tài trợ, năm 1999,
Harford đã trưng ra bằng chứng
cho thấy việc nắm giữ tiền mặt
quá mức hình thành nên nguồn tài
trợ nội bộ dồi dào có thể cung cấp
cho các doanh nghiệp một nguồn
tài trợ giá trị đối với các cơ hội
đầu tư. Tiếp đó, vào năm 2006,
Faulkender và cộng sự đã cho thấy
các doanh nghiệp hoạt động hiệu
quả, có lượng tiền mặt được nắm
giữ nhiều sẽ có xu hướng xây dựng
cấu trúc vốn thiên về vốn cổ phần
và thực hiện chính sách chi trả
cổ tức thấp. Trong khi đó, María
Belén, 2012 lại cho thấy trong điều
kiện bất cân xứng thông tin và cơ
hội đầu tư thấp, các cổ đông có xu
hướng gây cản trở đầu tư và ủng
hộ cho quyết định vay nợ cũng như
chi trả cổ tức. Năm 2013, Cristina
Martínez - Sola và cộng sự đã cung
cấp thêm bằng chứng thực nghiệm
về sự tồn tại của một mức tiền mặt
tối ưu mà tại đó, các doanh nghiệp
có thể tài trợ cho quyết định đầu tư
bằng nguồn tài trợ nội bộ thay vì
gia tăng nguồn tài trợ bên ngoài với
chi phí giao dịch cao. Tuy nhiên,
các công ty nắm giữ nhiều tiền sẽ
phải gánh chịu chi phí đại diện, chi
phí cơ hội dẫn đến một số doanh
nghiệp có xu hướng chuyển sang
sử dụng nợ nhiều hơn và tăng tỷ lệ
chi trả cổ tức. Mới đây, năm 2014,
Ö Arslan - Ayaydin, Florackis và
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
38
Ozkan phát hiện các công ty có
thể đạt được khả năng linh hoạt tài
chính thông qua chính sách đòn
bẩy tài chính ổn định; trước thời
kỳ khủng hoảng các công ty có các
cơ hội đầu tư nhiều hơn và rất hạn
chế dùng nguồn tài trợ nội bộ có
sẵn để đầu tư. Cùng hướng nghiên
cứu trên, Yanhao Chang, Karen
Benson và Robert Faff (2014) cũng
cho thấy thị trường vốn ảnh hưởng
rất lớn đến việc nắm giữ tiền mặt
của các doanh nghiệp trong suốt
thời kỳ khủng hoảng tài chính, các
công ty rơi vào tình trạng hạn chế
tài chính sẽ nắm giữ tiền mặt có
giá trị nhiều hơn so với các công
ty không bị hạn chế tài chính. Bên
cạnh đó, việc nắm giữ tiền mặt quá
mức có tương quan dương đến giá
trị công ty.
Liên quan đến ảnh hưởng của
việc tích lũy tiền mặt quá mức đến
quyết định phân phối, Michael S.
Rozeff (1982) từ kết quả nghiên
cứu của mình đã chỉ ra bằng chứng
về các công ty có nhiều tiền mặt do
dự trữ quá mức sẽ thực hiện chính
sách cổ tức thiên về chi trả cổ tức
cao để kiểm soát vấn đề chi phí
đại diện. Ở góc nhìn khác, Miller
và Rock (1985) khi công bố công
trình nghiên cứu về chính sách
cổ tức trong môi trường thông tin
bất cân xứng cho thấy chính sách
cổ tức của các doanh nghiệp phụ
thuộc hoàn toàn vào dòng tiền
hoạt động của doanh nghiệp khi
cố định các chính sách đầu tư và
tài trợ bên ngoài. Theo đó, khi có
một sự bất thường trong dòng tiền
thì sự bất thường này sẽ ảnh hưởng
ngay đến kỳ vọng của nhà đầu tư
và ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị
công ty nên các doanh nghiệp sẽ
có khuynh hướng giữ lại lợi nhuận
nhiều hơn. Năm 1986, Michael C.
Jensen khi đi sâu vào nghiên cứu
vấn đề đại diện giữa cổ đông và
ban quản trị doanh nghiệp cho thấy
các doanh nghiệp có dòng tiền tự
do lớn thường đầu tư không hiệu
quả nên các doanh nghiệp sẽ thực
hiện chính sách chi trả cổ tức nhiều
hơn. Trong khi đó, vào năm 2008,
Blaua và Fuller đã đưa ra bằng
chứng các doanh nghiệp giảm chi
trả cổ tức và tích trữ nhiều tiền mặt
nhằm gia tăng khả năng linh hoạt
tài chính, từ đó gây ra sự sụt giảm
trong giá trị của công ty. Còn đối
với các doanh nghiệp có tính thanh
khoản cao hoặc cấu trúc vốn thiên
về vốn cổ phần thì sẽ có khuynh
hướng hạn chế chi trả cổ tức, kết
quả này cũng phù hợp với nghiên
cứu của DeAngelo và cộng sự
(2006). Năm 2009, khi nghiên cứu
về nguyên nhân của sự tăng vọt
trong lượng tiền mặt nắm giữ của
các công ty công nghiệp Mỹ giai
đoạn 1980 – 2006, Bates và cộng
sự đã phát hiện do dòng tiền của
các doanh nghiệp ngày càng biến
động nên các doanh nghiệp Mỹ đã
phải tăng cường giữ lại lợi nhuận,
nắm giữ ít hàng tồn kho, khoản phải
thu và tăng chi phí R&D. Gần đây
nhất, năm 2014, Mirza và Afza khi
nghiên cứu ảnh hưởng của dòng
tiền tự do đến chính sách cổ tức
cho thấy tính thanh khoản đóng vai
trò quan trọng trong việc phân phối
cổ tức tiền mặt và các công ty có
dòng tiền tự do cao, độ nhạy cảm
của dòng tiền cao sẽ có khuynh
hướng gia tăng tỷ lệ chi trả cổ tức.
Như vậy, trên thế giới đã có
nhiều bằng chứng thực nghiệm về
sự tồn tại ảnh hưởng trực tiếp của
việc nắm giữ tiền mặt quá mức đến
các quyết định tài chính của các
doanh nghiệp và từ đó tác động đến
giá trị công ty. Bài nghiên cứu này
được thực hiện nhằm mong muốn
tìm và cung cấp những bằng chứng
về ảnh hưởng của việc nắm giữ tiền
mặt quá mức đến các quyết định tài
chính của các doanh nghiệp trong
bối cảnh VN.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Dữ liệu và mẫu nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng mẫu
dữ liệu dạng bảng bất cân xứng
gồm 1.182 quan sát được thu thập
từ báo cáo tài chính hằng năm của
158 công ty niêm yết trên các sàn
giao dịch chứng khoán HSX, HNX
trong giai đoạn 2006 - 2013. Toàn
bộ dữ liệu được lấy từ báo cáo tài
chính được thu thập trên trang dữ
liệu chứng khoán tài chính www.
vietstock.vn và www.cafef.vn; giá
trị chứng khoán được lấy theo giá
đóng cửa vào ngày cuối năm tài
chính từ kho dữ liệu thống kê giá
chứng khoán của trang web www.
cophieu68.vn. Trong các công ty
niêm yết trên hai sàn HSX và HNX,
tác giả loại ra các công ty thuộc
ngành tài chính như ngân hàng,
bảo hiểm, chứng khoán, các quỹ do
các hạng mục của báo cáo tài chính
và quy định kế toán của các ngành
này có tính đặc thù, không phù hợp
cho mục tiêu nghiên cứu. Tác giả
cũng loại trừ các công ty không
có thông tin, thiếu và mất dữ liệu
cho suốt kỳ nghiên cứu. Tác giả
cũng loại bỏ các quan sát có số liệu
lớn đột biến nhằm đảm bảo độ tin
cậy và khách quan đối với kết quả
nghiên cứu các công ty có giá trị
bất thường. Đặc biệt, nhóm tác giả
không đòi hỏi các doanh nghiệp
phải có đủ 8 năm quan sát liên tục,
vì một số khó khăn trong thu thập
và tìm kiếm dữ liệu nên các doanh
nghiệp trong mẫu có thể có ít hơn
hoặc bằng 8 năm quan sát.
3.2. Mô tả các biến
Việc lựa chọn biến cơ bản
dựa trên các nghiên cứu thực
nghiệm đã thực hiện, chủ yếu là
Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
39
từ công trình nghiên cứu của María Belén Lozano
(2012):
Giá trị công ty (MV
it
):
MV
it =
(Giá trị sổ sách tổng tài sản – Giá trị sổ
sách vốn cổ phần + Giá trị thị trường vốn cổ phần)
: Giá trị sổ sách tổng tài sản
Mức tiền mặt nắm giữ (CASH
i,t
):
CASH
i,t
= ln[Tiền
t
: (Tổng tài sản
t
– Tiền
t
)]
Dòng tiền hoạt động (OCF
i,t
) và biến đại diện
độ bất ổn của dòng tiền (VOCF
i,t
):
OCF
i,t
= EBITDA: Tổng tài sản ròng
VOCF
i,t
là độ lệch chuẩn của dóng tiền hoạt
động
Vốn luân chuyển ròng (NWC
i,t
)
NWC
i,t
= [(Tài sản ngắn hạn – Tiền mặt) – Nợ
ngắn hạn] : Tổng tài sản ròng
Đòn bẩy (LEV
i,t
)
LEV
i,t
= Tổng nợ : Tổng tài sản ròng
Quy mô công ty (Size
i,t
)
Size
i,t
= ln(Tổng tài sản)
Cổ tức (Div
i,t
)
Div
i,t
= Tổng cổ tức chi trả trong năm : Tổng
thu nhập cổ phần thưởng
Biến giả cổ tức (DumDIV
i,t
):
DumDIV
i,t
= 1 khi doanh nghiệp chi trả cổ tức
và bằng 0 nếu doanh nghiệp không chi trả cổ tức.
Đầu tư vốn (INV
it
):
INV
it
= (Tài sản cố định
t
- Tài sản cố định
t-1
+
Khấu hao
t
) : Tổng tài sản
Khả năng sinh lợi (ROA
it
)
ROA
it
= Lãi sau thuế
it
: Tổng tài sản
Tốc độ tăng trưởng doanh thu (GROWTH
it
)
GROWTH
it
= [Doanh thu thuần kỳ t : Doanh
thu thuần kỳ (t-1)] - 1
Biến giả thể hiện cơ hội đầu tư (IO
i,t
):
IO = 0, MB ≤ Trung vị
IO = 1, MB > Trung vị
Biến giả thể hiện mức độ nắm giữ tiền vượt trội
(XCASH
i,t
): Nhóm tác giả đưa ra biến giả xác định
lượng tiền mặt nắm giữ cao và thấp dựa vào phần
dư của phương trình ước lượng tiền mặt mục tiêu.
Thông qua các yếu tố ảnh hưởng đến việc nắm giữ
tiền mặt như: Cơ hội tăng trưởng đại điện bởi chỉ
số M/B, khả năng linh hoạt tài chính gồm dòng tiền
hoạt động (OCF), vốn luân chuyển thuần (NWC),
biến động dòng tiền (VOCF), khả năng sử dụng đòn
bẩy (LEV), quy mô công ty (SIZE), chính sách chi
trả cổ tức (DIV). Phương trình được ước lượng theo
phương pháp hồi quy OLS trên dữ liệu chéo từng
năm. Hồi quy theo từng năm có lợi thế cho phép các
hệ số hồi quy của mô hình thay đổi theo năm, vì thế
các nhân tố ảnh hưởng đến tiền mặt nắm giữ cũng
thay đổi theo thời gian (Faleye, 2004). Mô hình
nắm giữ tiền mặt mục tiêu có dạng:
CASH
i,t
= α
i
+ β
1
MB
i,t
+ β
2
OCF
i,t
+ β
3
NWC
i,t
+
β4VOCFi + β5Levit + β6Sizei,t + β7Divi,t + vi,t (1)
Dựa trên phương trình (1) nhóm tác giả thu được
phần dư được đặt tên là XCASH, nhóm tác giả thiết lập
một biến giả (được đặt tên là CH1
i,t
) để phân tích các
công ty nắm giữ tiền nhiều và ít, khi đó:
CH
it
= 1, nếu XCASH ≤ giá trị trung bình của
mẫu
CH
it
= 0, nếu XCASH > giá trị trung bình của mẫu
3.3. Các giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Với mục tiêu kiểm định xem liệu việc tích lũy
tiền mặt quá mức có ảnh hưởng đến các quyết định
tài chính – quyết định đầu tư, quyết định tài trợ, quyết
định phân phối, để từ đó tác động đến giá trị doanh
nghiệp của các doanh nghiệp VN hay không, tác giả
dựa trên phương pháp nghiên cứu của María Belén
Lozano, 2012 để xây dựng các giả thuyết và mô hình
nghiên cứu của mình trong bối cảnh VN. Đề tài có các
giả thuyết và mô hình nghiên cứu như sau:
Giả thuyết H1: Các quyết định đầu tư của doanh
nghiệp có mức độ thông tin bất cân xứng cao và
khan hiếm cơ hội đầu tư sẽ có khuynh hướng tác
động xấu đến giá trị công ty.
Giả thuyết H2: Cấu trúc vốn thiên về nợ có
khuynh hướng tác động gia tăng giá trị công ty và
gia tăng nhiều hơn khi công ty ít có cơ hội đầu tư và
mức độ bất cân xứng thông tin cao.
Giả thuyết H3: Đối với các công ty ít cơ hội đầu
tư và tồn tại thông tin bất cân xứng thì quyết định
phân phối cổ tức có xu hướng gia tăng giá trị công
ty.
Giả thuyết H4: Quyết định đầu tư được tài trợ
bằng lượng tiền quá mức ít có giá trị, thậm chí tác
động tiêu cực đến giá trị công ty.
Giả thuyết H5: Khi nắm giữ lượng tiền mặt vượt
mức, các công ty thường có xu hướng vay nhiều nợ
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
40
hơn hay cấu trúc vốn thiên về nợ.
Giả thuyết H6: Khi nắm giữ lượng tiền mặt
vượt mức, cổ đông đánh giá cao hơn chính
sách phân phối cổ tức tiền mặt.
Với các giả thuyết và các biến trên, nhóm
tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu với hai
giai đoạn. Giai đoạn đầu, nhóm tác giả sẽ xem
xét các quyết định tài chính ảnh hưởng đến giá
trị công ty như thế nào khi chịu tác động của
cơ hội đầu tư. Với mô hình cơ bản này nhóm
tác giả chú trọng vào sự đóng góp của từng
quyết định tài chính lên giá trị doanh nghiệp
của các công ty có cơ hội đầu tư thấp.
Mô hình cơ bản - Mô hình 1:
MV
it
= α
i
+ INV
it
(β
1
+ γ
1
IO
it
) + LEV
it
(β
2
+ γ
2
IO
it
) + DIV
it
(β
3
+ γ
3
IO
it
) + β4ROAit+
β
5
SIZE
i,t
+v
i,t
(2)
Với biến phụ thuộc là giá trị thị trường của
công ty, do vậy khả năng sinh lợi (ROA) và quy
mô công ty (SIZE) cũng ảnh hưởng đến kỳ vọng
và đánh giá của nhà đầu tư đối với giá trị công ty.
Tuy nhiên, với mục tiêu nghiên cứu ảnh hưởng
của lượng tiền mặt tích luỹ quá mức đến các
quyết định tài chính của các công ty nên nhóm
tác giả chuyển sang giai đoạn 2 đưa yếu tố tiền
mặt vượt mức vào mô hình nghiên cứu. Biến giả
CH
i,t
có được từ kết quả ước lượng của mô hình
nắm giữ tiền mặt mục tiêu ở trên được dùng để
chia tách mẫu nghiên cứu thành hai nhóm: nhóm
những công ty nắm giữ tiền mặt vượt trội và và
ngược lại nhằm xem xét lượng tiền mặt nắm giữ
quá mức sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các quyết
định tài chính và giá trị công ty. Trong mô hình
này, nhóm tác giả đưa thêm biến Growth
it
như
một biến kiểm soát về cơ hội đầu tư:
Mô hình 2:
MV
it
= α
i
+ β
1
INV
it
+ β
2
(INV
i,t
. CH1
i,t
) +
β
3
LEV
i,t
+ β
4
(LEV
I,T
.CH1
i,t
) +
β
5
DIV
it
+ β
6
(DIV
i,t
.CH1
i,t
) + β
7
GROWTH
it
+ β
8
ROA
it
+
β9SIZEit + ηi + vit + Fixed Effect
(3)
Mô hình 1 và mô hình 2 được xem như những
mô hình “tĩnh”, nhóm tác giả thực hiện ước lượng
thông qua phương pháp Hiệu ứng cố định (Fixed
Effects) và dùng Kiểm định Hausman để đánh
giá hiệu quả của mô hình này. Tuy nhiên, các biến giải thích
trong mô hình có thể được xem xét đồng thời cùng biến phụ
thuộc, do vậy vấn đề nội sinh có thể phát sinh làm kết quả
ước lượng bị sai lệch nên nhóm tác giả xây dựng phương
trình (3) như một mô hình động và kiểm định bằng phương
pháp GMM và ở đây tác giả sử dụng phương pháp GMM
2 bước. Tất cả các biến độc lập được xem như biến nội
sinh và nhóm tác giả đưa thêm độ trễ vào mô hình như các
biến công cụ, với độ trễ bằng 2 hoặc lớn hơn. Bên cạnh đó,
nhóm tác giả còn lấy sai phân bậc 1 cho các biến để loại bỏ
tác động riêng biệt.
Mô hình 3:
MV
it
= α
i
+ β
1
INV
it
+ β
2
(INV
i,t
. CH1
i,t
) + β
3
LEV
i,t
+ β
4
(LEV
i,t
.CH1
i,t
) +
β
5
DIV
it
+ β
6
(DIV
i,t
.CH1
i,t
) + β
7
GROWTH
it
+ β
8
ROA
it
+ β
9
SIZE
it
+ ηi + v
it
(4)
4. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
Như đã trình bày ở trên, Mô hình 1 và Mô hình 2 là mô
hình tĩnh, được ước lượng bằng phương pháp Hiệu ứng cố
định (Fixed Effects) 1 trên dữ liệu bảng có xử lý phương
sai thay đổi; ước lượng Mô hình 3 là mô hình “động”
bằng phương pháp GMM 2 bước để giải quyết vấn đề
nội sinh xảy ra trong mô hình nghiên cứu với biến công
cụ là các biến ngoại sinh trong mô hình.
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
XCASH 1182 0.0001 1.2072 -5.0212 3.7442
MV 1182 1.2505 0.8992 0.0150 12.3189
INV 1182 0.0230 0.8432 -19.1556 3.9917
LEV 1182 0.4994 0.3079 0.0008 8.1973
DIV 1182 0.1266 0.1469 0.0000 1.4848
SIZE 1182 12.8497 1.3664 9.6539 16.9456
ROA 1182 0.0760 0.0875 -0.6482 0.7846
GROWTH 1182 0,2999 1,2939 -0,9888 28,4878
Bảng 1: Thống kê mô tả
1 Các kiểm định liên quan cho thấy ở cả hai mô hình, phương pháp hồi
quy Hiệu ứng cố định (Fixed Effects) là phù hợp. Kết quả kiểm định được
trình bày trong Bảng 2.
Ghi chú: XCASH là tiền mặt vượt trội mà doanh nghiệp nắm giữ, là phần dư
của mô hình ước lượng tiền mặt mục tiêu (1); MV
i,t
là giá trị doanh nghiệp được
đo lường bằng giá trị sổ sách của tổng tài sản trừ đi giá trị sổ sách của vốn cổ
phần cộng với giá trị thị trường của vốn cổ phần, chia cho tổng tài sản; INV là
đầu tư vốn của công ty chia cho tổng tài sản; LEV là tổng nợ trên tổng tài sản
ròng; Div là tỷ lệ chi trả cổ tức, được định nghĩa là phần trăm thu nhập năm
hiện hành phân phối dưới dạng cổ tức; ROA là thu nhập ròng trước khấu hao và
chi phí dự phòng trên tổng tài sản ròng và SIZE là logarit tự nhiên của tổng tài
sản. GROWTH là tốc độ tăng trưởng doanh thu trong kỳ.
Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
41
Trong mẫu quan sát của tác giả,
tỷ lệ nắm giữ tiền mặt vượt trội
trung bình của các doanh nghiệp
gần như bằng 0, nhưng với độ lệch
rất lớn, lên đến gần 121%. Giá
trị thị trường trung bình của các
doanh nghiệp gấp 1,25 lần so với
giá trị sổ sách, có công ty tỷ số này
thấp nhất chỉ ở mức 0,01 trong khi
có công ty được cổ đông đánh giá
cao nhất ở mức 12,31 lần giá trị sổ
sách. Các doanh nghiệp nắm giữ
tiền mặt vượt trội có tỷ lệ đầu tư
vốn trên tổng tài sản trung bình là
2,3 phần trăm, tỷ lệ nợ trung bình
50%, và tỷ lệ chi trả cổ tức tiền
mặt là 12,7 phần trăm. Các doanh
nghiệp có tốc độ tăng trưởng trung
bình là 29,29 phần trăm và có tỷ
suất sinh lợi trên tài sản trung bình
là 7,6 phần trăm.
Bảng 2 trình bày kết quả hồi
quy của cả 3 mô hình nói trên.
Đối với mô hình cơ bản - Mô
hình 1 – nhóm tác giả phân tích
tác động của các quyết định tài
chính đến giá trị công ty thông
qua việc xem xét cơ hội đầu tư IO
– kết quả cho thấy hệ số hồi quy
dương ở nhóm có ít cơ hội đầu tư
(0,0323) ở mức ý nghĩa thống kê
5%. Điều này khẳng định quyết
định đầu tư được thực hiện bởi
các doanh nghiệp có cơ hội đầu tư
thấp (LIO) đã có tác động tích cực
lên giá trị doanh nghiệp. Kết quả
dương tương tự cho nhóm còn lại
(0,0909) có vẻ có tác động mạnh
hơn so với nhóm ít có cơ hội đầu tư
nhưng không có ý nghĩa thống kê
ở mức thông thường. Có thể là do
các công ty này rơi vào tình trạng
bị khan hiếm cơ hội đầu tư nên có
rất ít cơ hội đầu tư; vì vậy các công
ty phải tận dụng tối đa các cơ hội
đầu tư sẵn có. Kết quả này đã bác
bỏ giả thuyết H1 mà nhóm tác giả
đã đề ra. Đối với quyết định tài trợ,
Mô Hình 1 Mô hình (2) Mô hình (3)
MV Hệ số z-statistic Hệ số z-statistic Hệ số z-statistic
INV 0.0323** (-2.63) 0.0536** (-2.68) 0.0372 (-1.31)
INVIO 0.0909 (-1.25)
LEV 0.463* (-2.19) 0.926*** (-4.15) 0.462* (-1.93)
LEVIO 0.659*** (-6.77)
DIV -0.703*** (-3.72) -0.437* (-2.24) -0.637** (-2.82)
DIVIO 0.448** (-3.12)
ROA 2.166*** (-3.89) 2.794*** (-4.64) 4.164*** (-6.18)
SIZE -0.297*** (-4.13) -0.400*** (-5.62) -0.149*** (-4.17)
INVCH1 0.0127* (-2.00) 0.0134* (-1.69)
LEVCH1 -0.0566 (-0.73) 0.0422 (-0.46)
DIVCH1 0.0866 (-0.56) -0.339* (-2.36)
GROWTH 0.00786 (-0.49) 0.0267 (-1.45)
_CONS 4.556*** -5.00 5.777*** (-6.41) 2.697*** (-5.69)
Kiểm định giới hạn tuyến tính với các giả thuyết H0 X
2 p-value
Quyết định đầu tư: H0 = β1 + β2 =0 2,73 (1) 0,0987
Quyết định tài trợ H0: β3 + β4 =0 4.99 (1) 0,0255
Quyết định phân phối, H0: β5 + β6 =0 14.86 (1) 0,0001
Mô hình 1 Mô hình (2) Mô hình (3)
Hausman X2 p-value X2 p-value
101.37
(8) 0.000 19,76 (9) 0,0194
Sargan-Hansen statistic 122,278 (9)
m1 -4.76
m2 0.82
Hansen 154.83 (175)
N 1173 1173 1173
Bảng 2: Kết quả hồi quy ước lượng
*, **, *** tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%. Số trong ngoặc là bậc tự do.
Ghi chú: MV là giá trị doanh nghiệp được đo lường bằng giá trị sổ sách của tổng tài sản trừ đi
giá trị sổ sách của vốn cổ phần cộng với giá trị thị trường của vốn cổ phần, chia cho tổng tài sản;
INV là đầu tư vốn của công ty chia cho tổng tài sản; LEV là tổng nợ trên tổng tài sản ròng; DIV là
tỷ lệ chi trả cổ tức, được định nghĩa là phần trăm thu nhập năm hiện hành phân phối dưới dạng cổ
tức; IO là biến giả nhận giá trị bằng 0 nếu Tobin’s q thấp hơn trung vị và ngược lại bàng 1. CH1 là
biến giả nhận giá trị bằng 1 khi lượng tiền mặt vượt trội thấp hơn hoặc bằng trung bình của mẫu
và nhận giá trị bằng 0 trong trường hợp ngược lại. GROWTH là tăng trưởng doanh thu hàng năm;
ROA là thu nhập ròng trước khấu hao và chi phí dự phòng trên tổng tài sản ròng và SIZE là logarit
tự nhiên của tổng tài sản. m1, m2 tương ứng là kiểm định tương quan chuỗi bậc nhất và bậc hai sử
dụng phần dư trong sai phân bậc nhất được phân phối tiệm cận theo phân phối chuẩn N (0,1) với
X2 theo giả thuyết H
0
là không có tương quan; (số trong ngoặc là bậc tự do). Hansen là điểm định
giới hạn quá xác định, được phân phối tiệm cận X2 theo giả thuyết H
0
(số trong ngoặc là bậc tự do).
Hausman là kiểm định về sự khác biệt giữa hai phương pháp ước lượng, được phân phối tiệm cận
X2 theo giả thuyết H
0
, số trong ngoặc là bậc tự do. Sargan-Hansen Statistic là hệ số kiểm định giới
hạn quá xác định của phương pháp hiệu ứng cố định so với phương pháp hiệu ứng ngẫu nhiên, số
trong ngoặc là bậc tự do.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
42
hệ số hồi quy dương cho cả nhóm
công ty có cơ hội đầu tư thấp và
nhóm còn lại (tương ứng 0,463 và
0,659) và đều có ý nghĩa thống kê.
Điều này phần nào khẳng định giả
thuyết H2, rằng sử dụng nợ sẽ làm
tăng giá trị công ty ở các doanh
nghiệp có LIO và tình trạng bất cân
xứng thông tin cao. Tuy nhiên, giá
trị của nhóm công ty LIO đã tăng
thấp đáng kể so với nhóm còn lại.
Đây có thể là do các công ty có cơ
hội đầu tư thấp thường có bất cân
xứng thông tin cao, khả năng tiếp
cận thị trường vốn yếu hơn, cơ chế
giám sát thấp hơn. Đối với quyết
định phân phối cổ tức, các hệ số hồi
quy đối với 2 nhóm còn lại có kết
quả ngược nhau, dù có cùng mức ý
nghĩa thống kê cao (1%).
Ở nhóm có cơ hội đầu tư thấp,
cổ đông không đánh giá cao việc
công ty chi trả cổ tức bằng tiền mặt
thể hiện qua có hệ số hồi quy âm
(-0,703) ở mức ý nghĩa 1%, trong
khi nhóm có cơ hội đầu tư cao hơn
lại có hệ số hồi quy dương (0,448)
ở mức ý nghĩa 5%. Với những
công ty có ít cơ hội đầu tư và tồn tại
tình trạng thông tin bất cân xứng,
thường là các công ty nhỏ, khó tiếp
cận thị trường vốn nên cổ đông có
xu hướng ưa thích doanh nghiệp
giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư thay
vì chia cổ cổ tức bằng tiền mặt cao,
nhằm tránh cho doanh nghiệp phải
huy động vốn trên thị trường tài
chính với chi phí cao. Từ đây cho
thấy giả thuyết H3 mà nhóm tác
giả đặt ra đã bị bác bỏ. Ngoài ra,
dấu dương của khả năng sinh lợi
(ROA) cho thấy nhân tố này cũng
góp phần làm tăng giá trị doanh
nghiệp, trong khi quy mô công ty
lại mang dấu âm, hàm ý rằng các
công ty nhỏ có vẻ ít gặp phải vấn đề
đầu tư quá mức. Kết quả này cũng
khá nhất quán với kết quả nghiên
cứu của Lozano (2012).
Tiếp theo, tác giả sẽ tập trung
vào phân tích ảnh hưởng của
nắm giữ tiền mặt lên giá trị doanh
nghiệp. Mô hình 2 sẽ phân tích ảnh
hưởng của việc nắm giữ tiền mặt
trong bối cảnh là một mô hình tĩnh.
Mô hình này tập trung phân tích
các tác động xảy ra cho các công
ty nắm giữ lượng tiền mặt vượt trội
hơn so với trung bình của mẫu. Với
những công ty này, quyết định đầu
tư và quyết định tài trợ có tác động
thuận chiều trong khi chính sách
cổ tức có tác động nghịch chiều lên
giá trị doanh nghiệp và tất cả đều
có ý nghĩa thống kê (tương ứng
0,0536 ở mức 5% và 0,926 ở mức
1%, và -0,437 ở mức 1%). Kết quả
này khá nhất quán với các lý thuyết
tài chính, cụ thể: Các công ty nắm
giữ nhiều tiền, dễ có khả năng nắm
bắt được các cơ hội đầu tư tốt và do
vậy, giá trị công ty sẽ tăng. Kết quả
nghiên cứu cho thấy không có sự
khác biệt nhiều giữa nhóm công ty
nắm giữ tiền mặt vượt trội và nhóm
còn lại.
Tương tự, những công ty nắm
giữ nhiều tiền mặt, tính thanh khoản
và khả năng thanh toán sẽ tốt hơn
nên khả năng huy động nợ với chi
phí sử dụng vốn sẽ thấp hơn, dẫn
đến giá trị doanh nghiệp cao hơn.
Đồng thời, ở những công ty này,
cổ đông muốn công ty sử dụng lợi
nhuận giữ lại để gia tăng giá trị cho
họ thay vì chia cổ tức bằng tiền do
nguồn vốn này có chi phí sử dụng
vốn thấp nhất. Ngược lại, đối với
các công ty nắm giữ ít tiền mặt, việc
sử dụng nợ lại có tác động nghịch
biến lên giá trị doanh nghiệp. Đó
là do các nhà đầu tư lo ngại rằng
việc gia tăng nợ vay sẽ làm cho rủi
ro thanh khoản của công ty tăng; từ
đó các nhà đầu tư sẽ đòi hỏi tỷ suất
sinh lợi cao hơn. Thông thường,
đối với các công ty này tình trạng
đầu tư quá mức ít nên họ thường
không sử dụng nợ quá nhiều để tài
trợ cho quyết định đầu tư thay vào
đó họ sử dụng nhiều tiền do công
ty tự tạo ra hơn. Tuy nhiên, quan hệ
này lại không có ý nghĩa thống kê ở
mô hình nghiên cứu của nhóm tác
giả. So với các công ty có tiền mặt
nắm giữ vượt trội, ở những công
ty nắm giữ ít tiền mặt, quyết định
đầu tư cũng làm gia tăng giá trị
doanh nghiệp và có ý nghĩa thống
kê nhưng mức độ gia tăng thấp hơn
rất nhiều (tương ứng 0,0127 ở mức
α =10% và 0,0536 ở mức α = 5%).
Điều đó thể hiện khả năng nắm
bắt các cơ hội đầu tư của nhóm
công ty này thấp hơn do vị thế
tiền mặt thấp hơn. Đối với chính
sách cổ tức, nếu công ty nắm giữ
tiền mặt vượt trội thực hiện chi trả
cổ tức tiền mặt sẽ làm giảm giá
trị doanh nghiệp (-0,437 ở mức a
= 10%) thì với công ty nắm giữ ít
tiền mặt, lại làm tăng giá trị doanh
nghiệp (0,0866) nhưng quan hệ
này chưa thể khẳng định do hệ số
hồi quy không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả này khá tương đồng kết
quả của Lozano (2012) ngoại trừ
chính sách cổ tức ở những công ty
nắm giữ tiền mặt vượt trội.
Trong cả hai trường hợp này,
nhóm tác giả sử dụng phương
pháp ước lượng hiệu ứng cố định
(FEM), loại trừ tác động riêng η
i
ở đó phản ánh sự khác biệt không
quan sát được của các công ty, như
ảnh hưởng về ngành, sự khác biệt
trong loại hình tài sản, sự khác biệt
trong quản lý và các nhân tố theo
thời gian như chu kỳ kinh tế Đối
với mô hình 2 kết quả kiểm định
Hausman chưa thể khẳng định hệ số
hồi quy của phương pháp hiệu ứng
cố định là tốt hơn so với phương
pháp hiệu ứng ngẫu nhiên. Do đó,
Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
43
nhóm tác giả sử dụng thêm kiểm
định giới hạn xác định quá mức
(Overidentifing Restrictions) và
phương pháp này cho thấy FEM là
phương pháp phù hợp cho dữ liệu
bảng của nhóm tác giả. Tuy nhiên,
mô hình của nhóm tác giả gặp phải
vấn đề nội sinh do biến phụ thuộc
MV có tác động đồng thời đến tất
cả các quyết định tài chính của
doanh nghiệp, nên nhóm tác giả sử
dụng một mô hình động (Mô hình
(3)) để ước lượng bằng phương
pháp GMM 2 bước do Arellano và
Bond (1991) đề xướng. Trong ước
lượng này, các biến giải thích được
xem là biến nội sinh, và được dùng
làm biến công cụ với độ trễ ít nhất
2 bậc và đồng thời cũng xem xét
phương trình cơ sở. Kết quả kiểm
định cũng như hồi quy của mô
hình này cũng được trình bày trong
Bảng 2. Mô hình 3 cho thấy ở
nhóm các công ty nắm giữ tiền mặt
vượt trội, kết quả khá giống với kết
quả của mô hình 2 cũng như kết
quả mà Lozano (2012) đã tìm thấy
ở Tây Ban Nha. Theo đó, quyết
định đầu tư và quyết định tài trợ
có tác động thuận chiều lên giá trị
doanh nghiệp, trong khi chính sách
cổ tức lại có tác động nghịch chiều.
Kết quả này là phù hợp với giả
thuyết H6 mà đề tài đã nêu ở trên.
Tuy nhiên, đối với những doanh
nghiệp nắm giữ ít tiền mặt, cả hai
mô hình tĩnh và động đều khẳng
định quyết định đầu tư có tác động
làm gia tăng giá trị doanh nghiệp
(giống như đối với nhóm các công
ty nắm giữ tiền mặt vượt trội) và
có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, với
quyết định tài trợ và chính sách cổ
tức thì kết quả lại có chút khác biệt
giữa hai mô hình. Nếu Mô hình 3
cho thấy sử dụng nợ làm gia tăng
giá trị doanh nghiệp (0,0422) và chi
trả cổ tức làm giảm giá trị doanh
nghiệp (-0,339 ở mức α = 10%) thì
kết quả hồi quy của nợ ở cả hai mô
hình cũng như hệ số hồi quy của cổ
tức ở mô hình 2 không có ý nghĩa
thống kê nên chưa đủ bằng chứng
để khẳng định kết luận nào là phù
hợp.
Phân tích chi tiết hơn thông qua
việc thực hiện kiểm định giới hạn
tuyến tính (linear restriction test)
cho các biến chính INV, DIV và
LEV với các giả thuyết
H
0
: β
1
+ β
2
=0;
H
0
: β
3
+ β
4
=0;
H
0
: β
5
+ β
6
=0;
Tác giả nhận thấy cả 3 giả
thuyết này đều bị bác bỏ (Bảng 2).
Kết quả này hàm ý rằng giả thuyết
về sự khác biệt giữa các hệ số phụ
thuộc vào việc nắm giữ tiền mặt
vẫn được ủng hộ. Từ đây cho thấy
ở những công ty nắm giữ ít tiền
mặt hơn, giá trị được tạo ra cao hơn
để giả thuyết H
4
vẫn được xác thực
mặc dù những công ty thuộc nhóm
này cũng thích sử dụng chính sách
chi trả cổ tức ở một mức độ thậm
chí cao hơn so với những công ty
thặng dư tiền mặt (mặc dù chính
sách cổ tức tiếp tục đóng vai trò
là cơ chế chi phối nhưng vẫn có
tác động tích cực lên giá trị doanh
nghiệp ở những công ty có thặng
dư tiền mặt). Những bằng chứng
này nhất quán với kết quả nghiên
cứu của Cohen và Yahill (2009),
Lozano (2012), cho thấy các công
ty trong điều kiện kiệt quệ tài chính
thường chi trả cổ tức cao hơn so với
những doanh nghiệp bình thường.
Kết quả này cũng phù hợp với kết
quả của Blau và Fuller (2008),
những người chỉ ra rằng trong
nhiều trường hợp những tranh luận
về tính linh hoạt tài chính đã không
được giải quyết một cách đầy đủ và
vẫn còn tranh cãi, bởi vì quan điểm
về vấn đề đại diện cho rằng: (i) Nợ
và cổ tức giúp giảm mâu thuẫn; và
(ii) Do cả hai cùng có vai trò như
nhau, nên hai quyết định này có
tính thay thế nhau (mặc dù ở khía
cạnh này chưa thể đi đến kết luận).
Trong trường hợp này, tác giả dựa
trên tranh luận của Blau và Fuller
(2008) để bảo vệ quan điểm cho
rằng những công ty có tính thanh
khoản tốt hơn có thể dùng tiền đầu
tư vào các dự án trong tương lai.
Điều này chứng minh kết quả mà
tác giả đạt được là giá trị của doanh
nghiệp nắm giữ ít tiền mặt gia tăng
tương ứng theo việc chi trả cổ tức.
Đối với hai biến kiểm soát: khả
năng sinh lợi (ROA) và quy mô
công ty (SIZE) cũng cho kết quả
tương tự với Mô hình 1 cả về mức
độ ý nghĩa lẫn dấu. Tuy nhiên, để
kiểm soát cơ hội đầu tư IO, trong
Mô hình 2 và 3, tác giả đã đưa thêm
biến GROWTH vào để đo lường
tốc độ tăng trưởng doanh số. Kết
quả trong cả hai mô hình đều cho
thấy biến này có ảnh hưởng tích
cực lên giá trị công ty, về cơ bản
có thể chỉ ra rằng các công ty có IO
cao sẽ tận dụng những cơ hội đầu
tư của mình để tối đa hoá giá trị tài
sản cho cổ đông (Gugler - 2003).
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của
nhóm tác giả, chưa đủ bằng chứng
để khẳng định kết luận này.
Chỉ số Hansen để xác định giới
hạn quá mức (Overidentifying
Restrictions), kiểm định sự thiếu
tương quan giữa các biến công
cụ và sai số (154,83 có 175 bậc tự
do) cho thấy giả thuyết về sự thiếu
tương quan giữa biến công cụ và
sai số là bị bác bỏ. Ngoài ra, tương
quan chuỗi bậc 2 cũng bị bác bỏ
(m2 = 0,82).
Như vậy, nhìn chung, kết quả
hồi quy cho thấy các quyết định tài
chính – quyết định đầu tư, quyết
định tài trợ, quyết định phân phối –
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
44
và giá trị doanh nghiệp có quan hệ
với nhau phụ thuộc vào lượng tiền
mặt được nắm giữ của các công
ty bởi vì tất cả các giả thuyết khác
nhau mà nhóm tác giả đề ra về cơ
bản đều có ý nghĩa. Tuy nhiên, đối
với nhóm công ty nắm giữ ít tiền
mặt, thì chỉ có quyết định đầu tư là
có ý nghĩa, quyết định tài trợ không
có ý nghĩa còn quyết định cổ tức
thì chưa rõ ràng. Theo quan điểm
của nhóm tác giả, kết quả đạt được
từ nghiên cứu này khá tương đồng
với kết quả của Lozano (2012). Từ
đây cho thấy tầm quan trọng của
tính linh hoạt tài chính so với các
tranh luận về vấn đề đại diện. Hơn
nữa, những kết quả này cũng phần
nào phản ánh đặc thù của VN, do
đó nhóm tác giả kỳ vọng kết quả
nghiên cứu này sẽ góp phần làm
phong phú thêm tổng quan nghiên
cứu về hành vi của các doanh
nghiệp khi nắm giữ tiền mặt vượt
trội.
5. Kết luận
Nghiên cứu này được thực hiện
nhằm kiểm định ảnh hưởng của
việc tích lũy tiền mặt vượt trội đến
các quyết định tài chính để từ đó
tác động đến giá trị doanh nghiệp
dựa trên bộ dữ liệu của 158 công
ty phi tài chính tại VN, trong giai
đoạn 2006 - 2013. Kết quả nghiên
cứu cho thấy các quyết định tài
chính của các công ty – quyết định
đầu tư, quyết định tài trợ, quyết
định phân phối, trong mối quan
hệ với nắm giữ tiền mặt vượt trội
đều có tác động đến giá trị doanh
nghiệp.
Đối với quyết định đầu tư: •
Quyết định đầu tư có tác động
làm gia tăng giá trị doanh nghiệp
được thực hiện bởi các công ty
cho dù có ít cơ hội đầu tư hay có
nhiều cơ hội đầu tư, cho dù nắm
giữ nhiều tiền hay ít tiền. Tuy
nhiên, ở những công ty có ít cơ
hội đầu tư và tồn tại tình trạng
bất cân xứng thông tin cao thì
mức độ gia tăng thấp hơn so với
các công ty có nhiều cơ hội đầu
tư. Ở các doanh nghiệp nắm giữ
tiền mặt vượt trội quyết định đầu
tư có tác động mạnh hơn lên giá
trị doanh nghiệp. Điều này cho
thấy khi phải đối mặt với sự khan
hiếm cơ hội đầu tư, các công ty
cần phải tận dụng tối đa các cơ
hội đầu tư sẵn có, có như vậy
các công ty mới có thể đạt được
mục tiêu tối đa hoá giá trị công
ty. Ngoài ra, các doanh nghiệp
nắm giữ một tỷ lệ tiền mặt vượt
trội thường có khả năng nắm bắt
nhiều cơ hội đầu tư hơn nên được
cổ đông đánh giá cao hơn.
Đối với quyết định tài trợ:•
Quyết định tài trợ cũng có tác
động đến giá trị doanh nghiệp
cho cả những công ty có cơ hội
đầu tư thấp lẫn những công ty
nắm giữ tiền mặt vượt trội. Điều
đó cho thấy cổ đông trong các
doanh nghiệp đánh giá cao việc
các công ty sử dụng nợ để tài trợ,
xem nợ như một cơ chế giám
sát vấn đề đại diện trong doanh
nghiệp, ngay cả ở những công ty
nắm giữ tiền mặt vượt trội.
Đối với quyết định phân •
phối cổ tức: Quyết định phân
Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
45
phối cũng có tác động nghịch
biến đến đến giá trị của doanh
nghiệp ở những công ty cơ hội
đầu tư thấp và cả những công ty
nắm giữ tiền mặt vượt trội. Cổ
đông của những doanh nghiệp
này có thể cho rằng chia cổ tức
bằng tiền sẽ buộc công ty phải
huy động vốn với chi phí cao
trên thị trường tài chính nên sẽ
ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi
của công ty.
Như vậy, có thể kết luận đối với
các công ty nắm giữ tiền mặt vượt
trội, quyết định đầu tư và quyết
định tài trợ có tác động thuận chiều
lên giá trị doanh nghiệp, trong khi
chính sách cổ tức lại có tác động
nghịch chiều. Những bằng chứng
này nhất quán với kết quả nghiên
cứu của Cohen và Yahill (2009),
Lozano (2012), Blau và Fuller
(2008).
Với kết quả nghiên cứu đã
trình bày ở trên, nhóm tác giả xin
được đưa ra một số hàm ý chính
sách như sau:
Đối với những doanh •
nghiệp có cơ hội đầu tư thấp và/
hoặc nắm giữ tiền mặt vượt trội:
Doanh nghiệp nên gia tăng sử
dụng nợ để tài trợ trong cấu trúc
vốn, giảm chi trả cổ tức bằng tiền
để tận dụng các cơ hội đầu tư
nhằm gia tăng giá trị cho doanh
nghiệp. Khi có tiền mặt dự trữ quá
mức, các doanh nghiệp VN có
thể điều chỉnh cấu trúc vốn thiên
về nợ nhằm tăng thêm nghĩa vụ
chi trả lãi vay từ dòng tiền tự do,
giảm thiểu nguồn lực dưới tay
của ban giám đốc. Nhìn chung,
quyết định tài trợ và quyết định
phân phối có thể thực hiện như
hai cơ chế kiểm soát vấn đề đại
diện đối với dòng tiền tự do tại
doanh nghiệp; tuy nhiên, quyết
định tài trợ bằng nợ có thể được
dùng phổ biến hơn.
Đối với những doanh •
nghiệp có cơ hội đầu tư cao:
Doanh nghiệp cũng nên gia tăng
mức độ nợ sử dụng trong cấu trúc
vốn để hạn chế vấn đề đại diện
và kiểm soát hiệu quả dòng tiền
tự do, hoặc phải thực hiện chính
sách chi trả cổ tức cao cho các
cổ đông của doanh nghiệp nhằm
làm giảm bớt mâu thuẫn đại diện
giữa cổ đông và nhà quản trị.
Các doanh nghiệp nắm giữ tiền
mặt thấp nên gia tăng sử dụng nợ
và giảm chi trả cổ tức bằng tiền
mặt để tận dụng các cơ hội đầu
tư nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của công ty, qua đó nâng
cao giá trị doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, do thị trường
VN còn tiềm ẩn tình trạng bất
cân xứng thông tin cao, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến việc dự trữ
tiền mặt của các doanh nghiệp, kỳ
vọng của nhà đầu tư và niềm tin
của ngân hàng, nhà cung cấp. Do
đó, giá trị doanh nghiệp bị đánh giá
không cao, tính cạnh tranh thấp và
gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong
thời kỳ hội nhập với khu vực và
thế giới. Dựa vào các kết quả tìm
được của bài nghiên cứu, nhóm tác
giả cho rằng các doanh nghiệp phải
chú tâm đến việc xây dựng các
chính sách quản trị tiền mặt hiệu
quả cũng như hoạch định chiến
lược tài chính thông qua việc ra và
thực hiện quyết định đầu tư, quyết
định tài trợ và quyết định phân phối
cổ tức cho doanh nghiệp mình sao
cho tối đa hóa giá trị tài sản của cổ
đông.
Trong tương lai, nhóm tác giả
mong muốn tiếp tục nghiên cứu
chủ đề này dựa trên việc mở rộng
mẫu dữ liệu nghiên cứu dài và rộng
hơn, bao quát thị trường VN trong
khoảng thời gian dài hơn, nhiều
quan sát hơn, để từ đó có thể đưa ra
kết quả kiểm định có độ tin cậy cao
và tính chính xác hơn cho thực tiễn
nền kinh tế VNl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bates. T.M.. Kahle. K.M. and Stulz. R.M.
(2009). Why do U.S. Firms hold so
much more cash. than they used to? The
Journal of Finance, Vol. LXIV, no. 5.
Cristina Martínez - Sola. Pedro J. García
-Teruelm Pedro Martínez - Solano
(2011). Corporate cash holding and firm
value. Applied Economics, Vol. 45, Issue
2.
Faulkender. M.. Wang. R. (2006). Corporate
financial policy and the value of cash.
Journal of Finance, 61:1957 - 1989.
Gao. H.. Harford. J.. Li. K. (2013).
Determinants of corporate cash policy:
Insights from private firms. Journal of
Financial Economics. 109:623 - 639.
Harford. J. (1999). Corporate cash reserves
and acquysitions. Journal of Finance,
54, 1969–97.
Jensen. M. (1986). Agency costs of free cash
flow. corporate finance and takeovers.
American Economic Review, 76: 323 -
39.
Lee. E.. Powell. R. (2011). Excess cash
holdings and shareholder value.
Accounting and Finance, 51:549 - 574.
Mai E. Iskandar-Datta. Yonghong Jia. (2013).
Investor protection and corporate
cash holdings around the world: new
evidence. Review of Quantitative
Finance and Accounting.
Miller. M.. Rock. R. (1985). Dividend policy
under asymmetric information. Journal
of Finance. 40:1031 - 51.
Ö Arslan - Ayaydin. C Florackis. A Ozkan.
(2014). Financial flexibility, corporate
investment and performance: evidence
from financial crises. Review of
Quantitative Finance, Volume 42, Issue
2. pp 211-250.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_viec_nam_giu_tien_mat_vuot_troi_den_cac_quyet.pdf