Sự đào thải sản dịch sau đẻ là quá trình sinh lý
tự nhiên của cơ thể gia súc cái nhằm loại bỏ các
mô bào còn sót lại của quá trình sinh đẻ, làm sạch
tử cung, giúp cho sự hồi phục về kích thước, chức
năng và môi trường của tử cung, chuẩn bị cho các
hoạt động sinh sản tiếp theo. Cũng trong thời gian
này, vi khuẩn có thể xâm nhập vào trong tử cung
gây viêm, nhiễm trùng. Khi tử cung bị viêm, quá
trình đào thải các mô bào còn sót lại của quá trình
sinh đẻ và dịch viêm sẽ kéo dài hơn và ngược lại
nếu sau khi đẻ, tử cung của bò sữa không bị viêm,
nhiễm trùng thì quá trình đào thải sản dịch sẽ ngắn
hơn. Điều đó giải thích các kết quả trong nghiên
cứu này khi mà thời gian chảy dịch hồng, dịch
trắng và tổng thời gian chảy sản dịch ở bò bị viêm
đều cao hơn các chỉ tiêu tương ứng ở bò không bị
viêm tử cung.
Nghiên cứu này cũng cho thấy việc sử dùng
Ovuprost (một sản phẩm tương tự như PGF2α)
sau khi đẻ có thể giúp làm giảm thời gian chảy
sản dịch của bò sữa và giảm được tỷ lệ mắc viêm
tử cung ở bò sữa. Việc sử dụng PGF2α trong thời
gian sau đẻ ở bò sữa cũng được một số tác giả
khác thực hiện. Tác dụng của PGF2α là kích thích
tử cung co bóp để đẩy dịch viêm, mủ ở trong tử
cung ra (Hopkins, 1983, Young và cs.,1994), nó
có tác dụng kích thích sự hoạt động của bạch cầu
(Frank, 1983, Razin và cs., 1978). Trong điều kiện
có thể vàng, nó làm thoái hóa thể vàng, làm giảm
hàm lượng progesterone trong máu, tăng sự hoạt
động của nang trứng, tăng hàm lượng oestrogen
và do đó kích thích các hoạt động sinh dục của bò
(Gilbert và Schwark,1992). Có rất nhiều nghiên
cứu đã được thực hiện để tìm hiểu hiệu quả của
việc sử dụng PGF2α đối với bò mắc các bệnh sản
khoa như đẻ khó, sót nhau, viêm tử cung ngay sau
khi bò đẻ xong (Richardson và cs., 1983, Okuda
và cs., 1998, Hopkins , 1983, Young và cs.,1994,
Bonnet và cs., 1990). Trong một nghiên cứu, việc
sử dụng PGF2α 2 lần vào ngày 12 và 26 sau đẻ
trên bò được chẩn đoán là bị viêm tử cung, có thể
cải thiện năng suất sinh sản của bò (Bonnet và cs.,
1990). Trong nghiên cứu này của chúng tôi, cả
Oxytoxin và Ovuprost được dùng với mục đích
tăng co bóp tử cung, sớm đẩy hết sản dịch ra ngoài,
giúp quá trình hồi phục tử cung diễn ra nhanh hơn.
Catosal có tác dụng tăng cường sức lực, sức đề
kháng, trợ giúp quá trình hồi phục sức khỏe của bò
sữa sau đẻ. Kết quả cũng cho thấy dùng Ovuprost
(một sản phẩm tương tự như PGF2α) kết hợp với
Oxytoxin cho kết quả tốt hơn là dùng Oxytoxin
riêng lẻ. Điều này có thể là do PGF2α có tác dụng
làm co bóp tử cung với thời gian kéo dài hơn là
Oxytoxin và do đó giúp đào thải sản dịch nhanh
hơn, bò sẽ nhanh hết dịch hơn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của viêm tử cung đến thời gian chảy sản dịch sau khi đẻ ở bò sữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
74
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
AÛNH HÖÔÛNG CUÛA VIEÂM TÖÛ CUNG ÑEÁN THÔØI GIAN CHAÛY SAÛN DÒCH
SAU KHI ÑEÛ ÔÛ BOØ SÖÕA
Nguyễn Văn Thanh
Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu thời gian chảy sản dịch của bò sữa và ảnh hưởng của yếu tố
viêm tử cung đối với thời gian chảy sản dịch. Nghiên cứu được thực hiện trên 218 bò sữa tại một số trang trại
thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La và huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Sản dịch của bò sữa được theo dõi từ
khi bò đẻ cho tới khi hết sản dịch. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chảy sản dịch của bò chia thành hai giai đoạn,
giai đoạn chảy dịch màu hồng với thời gian trùng bình là 7,6 ± 2,8 ngày và giai đoạn chảy dịch màu trắng với
thời gian trung bình là 4,9 ± 1,7 ngày. Tổng thời gian chảy sản dịch của bò sữa là 12,5 ± 3,2 ngày. Viêm tử
cung là nguyên nhân làm tăng thời gian chảy sản dịch của bò sữa. Sử dụng kết hợp các loại thuốc PGF2alpha,
oxytoxin và catosal để điều trị có thể rút ngắn thời gian chảy sản dịch và giảm tỷ lệ viêm tử cung ở bò sữa.
Từ khóa: bò sữa, sản dịch, viêm tử cung
Effect of metritis to duration of vaginal mucus discharge
in postpartum of dairy cows
Nguyen Van Thanh
SUMMARY
The present study aimed to investigate the duration of vaginal mucus discharge in postpartum of dairy
cows and effect of postpartum metritis on duration of vaginal mucus discharge. The study was carried out
in 218 dairy cows raising in Moc Chau district, Son La province and Duy Tien district, Ha Nam province.
Vaginal mucus discharge was observed and the discharge period was recorded from the delivery time until
finishing vaginal mucus discharge. The studied results showed that postpartum vaginal mucus discharge
period in the dairy cows could be categorized into 2 stages: the stage of discharging pink colour mucus
and the stage of discharging white colour mucus. The durations of these 2 stages in our study were 7.6
± 2.8 days and 4.9 ± 1.7 days, respectively, and the total period of postpartum vaginal mucus discharge
was 12.5 ± 3.2 days. In addition, metritis was identified as the risky factor that prolonged the postpartum
vaginal mucus discharge time. Using combination of PGF2alpha, oxytoxin and catosal medicines for
treatment could reduce the period of vaginal mucus discharge and the rate of metritis in the dairy cows.
Keywords: dairy cows, vaginal mucus discharge, metritis.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năng suất sinh sản của bò phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có giống, quá trình nuôi dưỡng,
quản lý và bệnh tật. Viêm tử cung sau đẻ là một
trong những bệnh thường xảy ra trên bò sữa,
với tỷ lệ mắc bệnh khoảng 10-20% (Overton và
Fetrow, 2008, Dubuc et al., 2010). Nhiều nghiên
cứu chỉ ra rằng viêm tử cung làm tăng khoảng thời
gian có chửa trở lại sau khi đẻ (Fourichon et al.,
2000). Những bò sữa bị viêm tử cung thường thu
nhận thức ăn kém hơn những bò không bị viêm tử
cung (Huzzey et al., 2007) và do đó làm giảm sản
lượng sữa (Sheldon et al., 2006). Mức độ suy giảm
sản lượng sữa thường chỉ thấy ở bò đẻ nhiều lứa,
biến động từ 2-13kg/ngày, kéo dài trong khoảng
thời gian từ 2-20 tuần (Overton và Fetrow, 2008;
Wittrock et al., 2011). Viêm tử cung còn làm tăng
nguy cơ loại thải bò (Wittrock et al., 2011; Grohn
et al., 1998) và giảm năng suất sinh sản của lứa
sau (Dubuc, 2011).
Sau khi sinh, nhau thai sẽ trở thành “vật lạ” đối
với cơ thể của bò mẹ. Vì vậy, nó sẽ bị hệ miễn dịch
của bò mẹ tấn công và đào thải ra ngoài (Gunnink
et al., 1984). Thời gian chảy sản dịch của bò có thể
kéo dài tới vài tuần. Thời gian chảy sản dịch phụ
thuộc vào khả năng co bóp của tử cung, sự liên
75
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
kết giữa nhau thai với tử cung và sự viêm nhiễm
của tử cung. Có bằng chứng cho thấy khả năng
thu hút bạch cầu của nhau thai sau khi sinh có liên
quan tới hiện tượng sót nhau ở gia súc (Kimura et
al., 2002). Nếu chức năng của bạch cầu đa nhân
trung tính bị suy giảm thì khả năng “tấn công” của
chúng đối với nhau thai bị ảnh hưởng, do đó làm
tăng nguy cơ sót nhau (Kimura et al., 2002) và kết
quả là thời gian thải sản dịch có thể tăng lên.
Trong quá trình sinh đẻ, vi khuẩn có mặt trong
đường sinh dục có thể xâm nhập vào tử cung. Khi
hệ miễn dịch của cơ thể không thể tiêu diệt được
các vi sinh vật này một cách hiệu quả, chúng sẽ
nhân lên, gây ra nhiễm trùng tử cung làm cho thời
gian chảy sản dịch kéo dài. Dịch viêm cùng với
sản dịch trong tử cung nhiễm trùng sẽ làm cho cổ
tử cung luôn ở tình trạng mở và quá trình hồi phục
của tử cung bị chậm lại. Điều này sẽ làm cho tử
cung cần nhiều thời gian hơn để trở về trạng thái
sinh lý bình thường trước khi đảm bảo cho thai
làm tổ và phát triển, kết quả là năng suất sinh sản
của gia súc sẽ bị ảnh hưởng. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi tiến hành tìm hiểu ảnh hưởng của
tình trạng viêm tử cung đối với thời gian chảy sản
dịch của bò sữa.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những bò sữa trong
thời gian sau đẻ được nuôi tại một số trang trại
thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La và huyện Duy
Tiên, tỉnh Hà Nam. Bò sữa từ lứa đẻ thứ 2 đến lứa
thứ 5. Thời gian nghiên cứu từ tháng 5 năm 2016
đến tháng 12 năm 2017.
2.2. Phương pháp thu thập số liệu
Sau khi đẻ, bò sữa được chia thành hai nhóm. Nhóm
thứ nhất thực hiện theo phác đồ I: tiêm 5ml Oxytoxin
và 10ml Catosal ngay sau đẻ (phương pháp hiện đang
được các trang trại sử dụng). Nhóm bò thứ hai thực hiện
theo phác đồ II, tương tự như phác đồ I, chỉ khác là tiêm
thêm một mũi 2ml Ovuprost (một sản phẩm tương tự
như PGF2α). Sau đó, thời gian chảy sản dịch của bò
sẽ được theo dõi cho tới khi hết dịch. Hằng ngày, dịch
đào thải từ đường sinh dục của bò được theo dõi 2 lần
vào sáng và chiều. Các đặc điểm về màu sắc, số lượng,
mùi, đặc tính của dịch được theo dõi. Bò được coi là bị
viêm tử cung khi từ tử cung thải ra dịch có màu nâu-đỏ,
có mùi thối, có thể có mủ, gia súc có các triệu chứng
sốt, mệt mỏi, ăn kém và sụt giảm sản lượng sữa; những
trường hợp nghi ngờ được kiểm tra lại bằng phản ứng
Whiteside test (Fayaz et al., 2014) cụ thể như sau: lấy
1ml dịch tử cung cần kiểm tra cho vào ống nghiệm
sạch, sau đó cho thêm 1ml dung dịch NaOH 5% và đun
sôi. Để ống nghiệm trong giá đựng cho tới khi dung
dịch nguội và đánh giá kết quả như sau:
+ Nếu dung dịch không có màu thì được cho là
dịch tử cung bình thường.
+ Nếu dung dịch có màu vàng thì dịch được
cho là dịch viêm tử cung.
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được ghi chép và lưu trữ trong file Excel
(Microsoft Office 2010). Sau đó, số liệu được xử lý
trên phần mềm SPSS 22 (IBM SPSS Statistics cho
Windows, phiên bản 22.0. Armonk, NY: IBM Corp).
Ảnh hưởng của viêm tử cung tới thời gian chảy sản
dịch màu hồng, màu trắng và tổng thời gian chảy sản
dịch được kiểm định bằng phương pháp t-test.
III. KẾT QUẢ
Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn bò sữa
nuôi tại 2 địa điểm nghiên cứu được trình bày tại
bảng 1. Kết quả cho thấy tỷ lệ mắc viêm tử cung
sau đẻ trên đàn bò sữa nuôi tại 2 địa điểm nghiên
cứu Mộc Châu (Sơn La) và Duy Tiên (Hà Nam)
lần lượt là 41,80 và 36,46%, trung bình ở cả 2 địa
điểm là 39,44%.
Bảng 1. Tỷ lệ mắc viêm tử cung sau đẻ trên đàn bò sữa
Địa điểm nghiên cứu Số bò theo dõi (con) Số bò mắc viêm tử cung (con) Tỷ lệ (%)
Mộc Châu – Sơn La 122 51 41,80
Duy Tiên – Hà Nam 96 35 36,46
Tổng số 218 86 39,44
76
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
Thời gian chảy sản dịch ở bò viêm và không
viêm tử cung được thể hiện ở bảng 2. Kết quả
cho thấy chảy sản dịch của bò được chia thành
2 giai đoạn. Giai đoạn chảy sản dịch hồng và
giai đoạn chảy sản dịch trắng, thời gian chảy
sản dịch hồng thường kéo dài hơn thời gan chảy
sản dịch trắng. Nghiên cứu này cho thấy thời
gian chảy sản dịch hồng ở đối tượng bò không
bị viêm tử cung là 7,6 ± 2,8 ngày, thời gian chảy
sản dịch trắng là 4,9 ± 1,7 ngày, tổng thời gian
chảy dịch là 12,5 ± 3,6 ngày, trong khi đó ở đối
tượng bò bị viêm tử cung, thời gian chảy sản
dịch hồng là 13,6 ± 2,4 ngày, thời gian chảy
sản dịch trắng là 7,1 ± 2,1 ngày, tổng thời gian
chảy sản dịch là 20,7 ± 2,4 ngày. Kết quả cho
thấy, viêm tử cung làm kéo dài thời gian chảy
sản dịch màu hồng, màu trắng và tổng thời gian
chảy sản dịch của bò sữa (P<0,05).
Bảng 2. Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung đến thời gian chảy sản dịch sau đẻ ở bò sữa
Đối tượng bò
Thời gian
chảy sản dịch hồng
(ngày)
Thời gian
chảy sản dịch trắng
(ngày)
Tổng thời gian
thải dịch
(ngày)
Không viêm tử cung (n= 132) 7,6 ± 2,8 4,9 ± 1,7 12,5 ± 3,2
Viêm tử cung (n= 86) 13,6 ± 2,4 7,1 ± 1,9 20,7 ± 3,8
Ảnh hưởng của các phác đồ điều trị đối với
thời gian chảy sản dịch của bò sữa được thể hiện
ở bảng 3. Thời gian chảy sản dịch màu hồng, màu
trắng và tổng thời gian chảy sản dịch của bò được
dùng Oxytoxin và Catosal là 13,8 ± 2,2 ngày; 5,8
± 1,2 ngày và 19,6 ± 2,8 ngày. Các thông số trên ở
bò dùng Oxytoxin, Catosal và Ovuprost là 11,2 ±
1,6 ngày, 4,3 ± 1,8 ngày và 15,7 ± 2,2 ngày. Tỷ lệ
mắc viêm tử cung ở phác đồ 1 là 34,29%, ở phác
đồ 2 là 27,69% (p<0,05).
Bảng 3. Ảnh hưởng của các phác đồ khác nhau đối với thời gian chảy sản dịch sau đẻ ở bò sữa
Phác đồ Thời gian thải dịch màu hồng (ngày)
Thời gian thải dịch
màu trắng (ngày)
Tổng thời gian
thải dịch (ngày)
Số mắc VTC
(con)
Tỷ lệ
(%)
Phác đồ 1 (n=70) 13,8 ± 2,2 5,8 ± 1,2 19,6 ± 2,8 24 34,29
Phác đồ 2 (n= 65) 11,2 ± 1,6 4,3 ± 1,8 15,7 ± 2,2 18 27, 69
IV. THẢO LUẬN
Trong nghiên cứu này, bệnh viêm tử cung sau đẻ
được theo dõi trên 218 bò sữa, kết quả cho thấy có
86 bò bị viêm tử cung sau đẻ, chiếm tỷ lệ 39,44%.
Kết quả này là cao hơn nhiều so với kết quả của
một số nghiên cứu đã công bố trước đó ở Việt Nam.
Theo đó, tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn bò
sữa sau đẻ tùy thuộc vào từng địa phương: 21,32%
tại Hà Nội và Bắc Ninh (Nguyễn Văn Thanh và
Lê Trần Tiến 2007), 13,91% tại Nghệ An (Cao
Viết Dương, 2011), 22,88% tại khu vực đồng bằng
sông Hồng (Phạm Trung Kiên, 2012). Theo chúng
tôi, sở dĩ có sự sai khác về tỷ lệ mắc bệnh viêm
tử cung ở bò sữa nêu trên là do phương pháp xác
định bò sữa bị viêm tử cung có khác nhau, các tác
giả nêu trên sử dụng phương pháp dựa trên các
biểu hiện triệu chứng lâm sàng ở cục bộ và toàn
thân, trong khi đó nghiên cứu của chúng tôi sử
dụng phương pháp Whiteside Test, phương pháp
này cho phép phát hiện được những trường hợp
viêm tử cung nhẹ khi các triệu chứng về lâm sàng
chưa biểu hiện rõ ràng, có lẽ vì thế mà tỷ lệ bò sữa
mắc viêm tử cung trong nghiên cứu của chúng tôi
cao hơn.
Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi cũng
cao hơn một số kết quả nghiên cứu nước ngoài
đã được công bố trước đây. Overton và Fetrow.
(2008) cho biết tỷ lệ mắc viêm tử cung ở bò sữa
trung bình vào khoảng 10%; Dubuc et al. (2010)
nghiên cứu trên 1295 bò sữa Holstein Friesian tại
77
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
Canada, cho biết tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung là
17,6%; Ribeiro et al. (2013), khi nghiên cứu trên
957 bò sữa ở Florida, Mỹ, cho biết tỷ lệ mắc bệnh
viêm tử cung ở bò Holstein Friesian, Jersey và
bò lai là tương đối thấp, chỉ ở mức 5,3%. Trong
một nghiên cứu khác, Sheldon và Dobson (2004)
công bố rằng có đến 40% bò sữa mắc viêm tử cung
trong vòng 14 ngày sau khi đẻ, Balasundaran et al.
(2011) nghiên cứu trên đàn bò sữa ở Ấn Độ cũng
cho thấy tỷ lệ viêm tử cung sau đẻ ở bò sữa giống
Karan Fries là 38,93%, tương đồng với kết quả
nghiên cứu của chúng tôi.
Sự đào thải sản dịch sau đẻ là quá trình sinh lý
tự nhiên của cơ thể gia súc cái nhằm loại bỏ các
mô bào còn sót lại của quá trình sinh đẻ, làm sạch
tử cung, giúp cho sự hồi phục về kích thước, chức
năng và môi trường của tử cung, chuẩn bị cho các
hoạt động sinh sản tiếp theo. Cũng trong thời gian
này, vi khuẩn có thể xâm nhập vào trong tử cung
gây viêm, nhiễm trùng. Khi tử cung bị viêm, quá
trình đào thải các mô bào còn sót lại của quá trình
sinh đẻ và dịch viêm sẽ kéo dài hơn và ngược lại
nếu sau khi đẻ, tử cung của bò sữa không bị viêm,
nhiễm trùng thì quá trình đào thải sản dịch sẽ ngắn
hơn. Điều đó giải thích các kết quả trong nghiên
cứu này khi mà thời gian chảy dịch hồng, dịch
trắng và tổng thời gian chảy sản dịch ở bò bị viêm
đều cao hơn các chỉ tiêu tương ứng ở bò không bị
viêm tử cung.
Nghiên cứu này cũng cho thấy việc sử dùng
Ovuprost (một sản phẩm tương tự như PGF2α)
sau khi đẻ có thể giúp làm giảm thời gian chảy
sản dịch của bò sữa và giảm được tỷ lệ mắc viêm
tử cung ở bò sữa. Việc sử dụng PGF2α trong thời
gian sau đẻ ở bò sữa cũng được một số tác giả
khác thực hiện. Tác dụng của PGF2α là kích thích
tử cung co bóp để đẩy dịch viêm, mủ ở trong tử
cung ra (Hopkins, 1983, Young và cs.,1994), nó
có tác dụng kích thích sự hoạt động của bạch cầu
(Frank, 1983, Razin và cs., 1978). Trong điều kiện
có thể vàng, nó làm thoái hóa thể vàng, làm giảm
hàm lượng progesterone trong máu, tăng sự hoạt
động của nang trứng, tăng hàm lượng oestrogen
và do đó kích thích các hoạt động sinh dục của bò
(Gilbert và Schwark,1992). Có rất nhiều nghiên
cứu đã được thực hiện để tìm hiểu hiệu quả của
việc sử dụng PGF2α đối với bò mắc các bệnh sản
khoa như đẻ khó, sót nhau, viêm tử cung ngay sau
khi bò đẻ xong (Richardson và cs., 1983, Okuda
và cs., 1998, Hopkins , 1983, Young và cs.,1994,
Bonnet và cs., 1990). Trong một nghiên cứu, việc
sử dụng PGF2α 2 lần vào ngày 12 và 26 sau đẻ
trên bò được chẩn đoán là bị viêm tử cung, có thể
cải thiện năng suất sinh sản của bò (Bonnet và cs.,
1990). Trong nghiên cứu này của chúng tôi, cả
Oxytoxin và Ovuprost được dùng với mục đích
tăng co bóp tử cung, sớm đẩy hết sản dịch ra ngoài,
giúp quá trình hồi phục tử cung diễn ra nhanh hơn.
Catosal có tác dụng tăng cường sức lực, sức đề
kháng, trợ giúp quá trình hồi phục sức khỏe của bò
sữa sau đẻ. Kết quả cũng cho thấy dùng Ovuprost
(một sản phẩm tương tự như PGF2α) kết hợp với
Oxytoxin cho kết quả tốt hơn là dùng Oxytoxin
riêng lẻ. Điều này có thể là do PGF2α có tác dụng
làm co bóp tử cung với thời gian kéo dài hơn là
Oxytoxin và do đó giúp đào thải sản dịch nhanh
hơn, bò sẽ nhanh hết dịch hơn.
V. KẾT LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên về thời gian chảy
sản dịch của bò sữa ở Việt Nam. Nghiên cứu cho
thấy thời gian chảy sản dịch sau đẻ ở bò sữa là
tương đối dài (12,5 ± 2,1ngày). Viêm tử cung là
yếu tố làm tăng thời gian chảy sản dịch ở bò sữa.
Sử dụng kết hợp Ovuprost, Oxytoxin và Catosal
làm rút ngắn thời gian chảy sản dịch, giảm tỷ lệ
mắc viêm tử cung ở bò sữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Balasundaran B, Gupta AK, Dongre VB,
Mohanty TK, Sharma PC, Khat K, Singh RK.
2011. Influence of genetic and non-genetic
factors on incidence of post partum utero-vaginal
complications in Karan fries cows. Indian J Anim
Res.2011; 45:192–7.
2. Bonnet BN, Etherington WG, Martin SW, 1990.
The effect of prostaglandin administration to
Holstein cows at day 26 postpartum on clinical
findings, and histological and bacteriological
results of endometrial biopsies at day 40.
Theriogenology 33:877–890, 1990.
3. Cao Viết Dương (2011). Nghiên cứu xác định
một số chỉ tiêu sinh sản, bệnh sản khoa và thử
nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn bò
sữa nuôi tại một số địa phương thuộc tỉnh Nghệ
78
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
An. Luận văn thạc sỹ Nông nghiệp, Trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội.
4. Dubuc J. 2011. Postpartum Uterine Diseases:
Prevalence, Impacts, and Treatments. WCDS
Advances in Dairy Technology (2011) Volume
23: 255-267.
5. Dubuc, J., T. F. Duffield, K. E. Leslie, J. S.
Walton, and S. J. LeBlanc. 2010. Risk factors
for postpartum uterine diseases in dairy cows. J.
Dairy Sci. 93:5764-5771.
6. Fayaz Ahmad Bhat, Hiranya Kumar
Bhattacharyya, Syed Akram Hussain. (2014).
White side test: A simple and rapid test for
evaluation of nonspecific bacterial genital
infections of repeat breeding cattle. Veterinary
Research Forum, 5: 177-180.
7. Fourichon, C., Seeger H., Malher X. (2000).
Effect of disease on reproduction in the dairy cow:
a meta-analysis. Theriogenology 53:1729-1759.
8. Frank T, Anderson KL, Smith AR. 1983.
Phagocytosis in the uterus: A review.
Theriogenology. 20:103–110, 1983.
9. Gilbert RO, Schwark WS. 1992. Pharmacologic
considerations in the management of peripartum
conditions in the cow. Vet Clin North Am Food
Anim Pract 8:29–56, 1992.
10. Gröhn YT, Eicker SW, Ducrocq V, Hertl JA.
1998. Effect of diseases on the culling of
Holstein dairy cows in New York State. J Dairy
Sci.81(4):966-78.
11. Gunnink, J. W. (1984). Pre-partum leucotytic
activity and retained placenta. Vet. Q, 6(2): 52-54.
12. Huzzey JM, Veira DM, Weary DM, von
Keyserlingk MA. Prepartum behavior and dry
matter intake identify dairy cows at risk for
metritis. J Dairy Sci. 90(7):3220-33.
13. Kimura, K., Goff, J. P., Kehrli, M. E., Jr., and
Reinhardt, T. A. (2002). Decreased neutrophil
function as a cause of retained placenta in dairy
cattle. J Dairy Sci., 85: 544-50.
14. Nguyễn Văn Thanh và Lê Trần Tiến (2007).
Khảo sát tỷ lệ mắc và thử nghiệm điều trị bệnh
viêm tử cung ở đàn bò sữa nuôi tại một số địa
phương ngoại thành Hà Nội và Bắc Ninh. Tạp chí
Khoa học kỹ thuật Thú y 14(1): 50-54.
15. Okuda K, Gaona WA, Sato K: Effects
of gonadotropin-releasing hormone and
prostaglandin F2a on the reproductive
performance in postpartum cows. Theriogenology
29:823–833, 1998.
16. Overton M, Fetrow J. 2008. Economics of
postpartum uterine health. In: Proceedings of the
Dairy Cattle Reproduction Council Convention,
2008, Omaha, NE, USA. Hartland, WI: DCRC.
pp. 39-43.
17. Phạm Trung Kiên (2012). Nghiên cứu thực trạng
bệnh viêm tử cung trên đàn bò sữa nuôi tại khu
vực đồng bằng sông Hồng và thử nghiệm biện
pháp phòng, trị. Luận văn thạc sỹ Nông nghiệp.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội 2012.
18. Razin B, Bauminger S, Globerson A: Effect
of prostaglandins on phagocytosis of sheep
erythrocytes by mouse peritoneal macrophages.
J Ret End Soc 23:237–242, 1978.
19. Ribeiro, E.S., Lima, F.S., Greco, L. F., Bisinotto,
R. S., Monteiro, A. P., Favoreto, M., Ayres, H.,
Marsola, R. S., Martinez, N., Thatcher, W. W. and
Santos, J. E. (2013). Prevalence of periparturient
diseases and effects on fertility of seasonally
calving grazing dairy cows supplemented with
concentrates. J Dairy Sci 96, 5682-5697
20. Richardson GF, Archbald LF, Galton DM, et al:
Effect of gonadotropin-releasing hormone and
prostaglandin F2a on reproduction in postpartum
cows. Theriogenology 19:763–770, 1983.
21. Sheldon IM, Dobson H. Postpartum uterine
health in cattle. Anim Reprod Sci. 2004; 64:295–
306.
22. Sheldon, I. M., G. S. Lewis, S. LeBlanc, and R.
O. Gilbert (2006). Defining postpartum uterine
disease in cattle. Theriogenology 65:1516-1530.
23. Wittrock JM, Proudfoot KL, Weary DM, von
Keyserlingk MA. 2011.Short communication:
Metritis affects milk production and cull rate of
Holstein multiparous and primiparous dairy cows
differently. J Dairy Sci. 94(5):2408-12.
Ngày nhận 12-3-2018
Ngày phản biện 30-3-2018
Ngày đăng 1-7-2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_viem_tu_cung_den_thoi_gian_chay_san_dich_sau_k.pdf