Mức tê
Chúng tôi ghi nhận 100% trường hợp ở 2 nhóm đạt mức tê T10 vào phút thứ 5, điều này
khẳng định tính hiệu quả của tê. Mặc dù chúng tôi không tìm được mối tương quan giữa
liều thuốc và mức tê (p>0,05), nhưng qua kết quả chứng minh được với liều thấp kết hợp
với fentanyl đạt được hiệu quả tê, mức tê tương đương với liều thường dùng. Thật vậy, so
với các nghiên cứu: Randalls và cộng sự (1991)(10) đạt được mức tê T6 với 8mg Marcain 0,5%
có kết hợp với Fentanyl. Tương tự với Singh (1995)(12).
Tuy nhiên Johanna Sarvela(6), thì thời gian để đạt được hiệu quả tê là 10 phút, điều này
cũng dễ giải thích vì tác giả đợi mong đạt mức tê T5.
Thời gian giảm đau hiệu quả và ức chế vận động
Thời gian giảm đau trung bình của 2 nhóm (A =138± 30, B=133 ± 37, p=0.45). Thời gian
trung bình ức chế vận động của 2 phương pháp (A: 124± 28; B: 120 ± 30, p=0.81) không
chênh lệch nhiều và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Điều này khẳng định hiệu
quả của tê liều thấp với kết hợp Fentanyl.
Sự thay đổi huyết áp
Sự thay đổi huyết động nói chung và huyết áp nói riêng của tê tủy sống thường xuất
hiện ngay sau tê do tác dụng ức chế hạch giao cảm cạnh sống, làm dãn mạch 2 chân và từ
đó làm giảm lượng máu trở về tim gây nên tình trạng rối loạn huyết động do giảm cung
lượng tim. Thêm vào đó, nếu mức tê lên cao (T4), lúc này thuốc tê sẽ ức chế hệ thần kinh chi
phối vùng tim, sẽ gây ra tình trạng rối loạn huyết động rất nặng, đồng thời ở mức tê này,
thuốc tê cũng ức chế hô hấp gây tình trạng tê tay, khó thở, có thể suy hô hấp. Theo Johanna
Sarvela(6), thì thời gian đạt mức tê T5 trong 10 phút. Và vì thuốc tê dùng tê tủy sống là thuốc
tăng trọng, nên nếu giữ tư thế sản phụ với đầu không thấp thì thuốc tê sẽ không lan lên >T5.
Chính vì thế, trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi theo dõi huyết động của bệnh nhân
mỗi 3 phút trong 10 phút đầu, và 5 phút trong 30 phút đầu, sau đó là mỗi 15-30 phút.
Chúng tôi ghi nhận hạ huyết áp xuất hiện ở 3 thời điểm: 0 phút, 3 phút và 5 phút. Và từ
phút thứ 10, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào bị rối loạn huyết động. Điều này
phù hợp với nghiên cứu của Michelangelt.F 1984(8). Để có được kết quả này, một phần
chúng tôi đã kết hợp với Bác sĩ sản khoa về việc bù dịch cho sản phụ trước mổ, thêm vào đó
là việc theo dõi sát và xử lý kịp thời các trường hợp hạ huyết áp, tránh gây nguy hiểm cho
sản phụ và cho con.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 146 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng trên huyết động của tê tủy sống với Bupivacaine liều thấp phối hợp Fentanyl trong phẫu thuật mổ lấy thai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 224
ẢNH HƯỞNG TRÊN HUYẾT ĐỘNG CỦA TÊ TỦY SỐNG
VỚI BUPIVACAINE LIỀU THẤP PHỐI HỢP FENTANYL
TRONG PHẪU THUẬT MỔ LẤY THAI
Đinh Hữu Hào*, Nguyễn Trung Nhân*, Huỳnh Vĩnh Phúc*,Trịnh Minh Đức*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tê tủy sống trong phẫu thuật mổ lấy thai với liều 8mg Marcaine 0,5% phối hợp với 20µg
fentanyl được xem là hiệu quả, an toàn so với 10 mg Bupivacain 0,5%.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá sự thay đổi huyết động trong phẫu thuật mổ lấy thai với gây tê tủy
sống liều thấp phối hợp với Fentanyl.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiền cứu trên 60 sản phụ được phẫu thuật mổ lấy thai với tê tủy
sống, chia làm 2 nhóm (A: 8mg Bupivacaine + 20µg Fentanyl; B: 10mg Bupivacaine)
Kết quả: Tỷ lệ tụt huyết áp: nhóm B cao hơn (30%) so với nhóm A (13%), tỷ lệ chung của nghiên cứu
là 23%. Thời gian giảm đau sau mổ (A: 138 ± 30/B: 133 ± 37). Thời gian ức chế vận động (A: 124 ± 28/B:
120 ± 30). Cả 2 nhóm đạt mức tê T10 là 100% sau 5 phút, 100% tê hoàn toàn, không dùng thêm thuốc giảm
đau phối hợp hoặc phải chuyển mê NKQ. Mức độ dãn cơ: A 5 trường hợp (17%) có độ dãn cơ trung bình,
B100% dãn cơ tốt, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tác dụng phụ: có 2 tác dụng phụ: lạnh run
(A:7%/B:17%); nôn (A:7%/B:14%), không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Appgar của trẻ sơ
sinh sau sanh 100% > 7 điểm ở 2 nhóm.
Kết luận: Tê tủy sống với liều 8mg Bupivacaine + 20µg Fentanyl được xem là hiệu quả, an toàn về
huyết động, ít có tác dụng phụ.
Từ khóa: Tê tủy sống, tê trong mổ lấy thai.
ABSTRACT
EFFFECTS OF SPINAL ANAESTHESIA WITH LOW DOSE OF BUPIVACAINE AND FENTANYL ON
HEMODYNAMIC DURING CESAREAN SECTION
Dinh Huu Hao, Nguyen Trung Nhan, Huynh Vinh Phuc, Trinh Minh Duc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 6 – 2009: 224 - 230
Background: Spinal anaesthesia for C-section with dose of 8mg Marcaine 0,5% combined with 20
microgram fentanyl is considered effective, safe compared with dose of 10mg Bupivacaine 0,5%.
Objective: To evaluate the changes of hemodynamics during C-section under low-dose spinal
anaesthesia with fentanyl.
Method: Perspective study on 60 patients undergone C-section under spinal anaesthesia, catergorized
into 2 groups (A:8mg Bupivacaine + 20microgram Fentanyl; B:10mg Bupivacaine)
Result: Hypotension rate: in group B is higher (30%) than that in group A (13%), the common rate is
23%. Analgesic time (A:138 ± 30/B:133 ± 37). Motor block time (A:124 ± 28/B:120 ± 30). Both group gain
T10 being 100% after 5 minutes, 100% totally anaesthesia, no additional
Drugs or transfer to general anaesthesia. Degree of muscle relaxation: A 5 cases (17%) have average
* Khoa phẫu thuật Gây mê hồi sức Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định
Địa chỉ liên lạc: BS Đinh Hữu Hào ĐT: 0913.714.038 Email: dinhhuuhao@gmail.com
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 225
muscle relaxation degree, B 100% has good muscle relaxation, statistic significant. Side effects: there are two
side effects: chill (A:7%/B:17%); vomiting (A:7%/B:14%), no statistic significant. Appagar score of new-
borns is 100% >7 points in both groups.
Conclusion: Spinal anaesthesia with dose of 8mg Marcaine 0,5% combined with 20microgram fentanyl
is considered effective, safe and less side effects.
Key words: spinal anesthesia, low-dose bupivacaine 0.5%, haemorroidectomy
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tê tủy sống là phương pháp vô cảm được khuyến cáo sử dụng trong phẫu thuật mổ lấy thai vì
giảm nguy cơ viêm phổi hít do gây mê trên những sản phụ có dạ dày đầy(1,2,7), hiệu quả giảm đau tốt,
dể thực hiện, kinh tế và an toàn cho cả mẹ và con(13,15).
Tuy nhiên, với liều thuốc 10mg Bupivacaine 0,5%, thường xuất hiện tình trạng tụt huyết áp, buồn
nôn và nôn ở sản phụ ; có thể ảnh hưởng đến thai nhi do giảm tưới máu nhau thai(3,4).
Để khắc phục, có nhiều nghiên cứu khuyến cáo cần giảm liều thuốc tê (11,14), tuy nhiên có thể làm
giảm chất lượng tê.
Chính vì thế, cần thiết phối hợp thuốc tê liều thấp và thuốc phiện nhằm đạt độ tê hiệu quả mà
không làm ảnh hưởng đến huyết động.
Tuy nhiên tại một số bệnh viện vẫn chưa có sự thống nhất về liều thuốc.
Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả và mức độ ảnh hưởng huyết
động của sản phụ khi tê tủy sống với liều thuốc tê thấp có phối hợp với thuốc phiện, từ đó làm cơ sở
cho các nghiên cứu khác nhằm thống nhất liều dùng, và quan trọng là mang lại hiệu quả và an toàn
cho sản phụ, từ đó có thể áp dụng rộng rãi và thường quy.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá sự thay đổi huyết động với gây tê tủy sống liều thấp Bupivacaine phối hợp thuốc phiện
trên phẫu thuật mổ lấy thai tại khoa PTGMHS Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ 01/01/2009 đến
30/06/2009.
Mục tiêu chuyên biệt
Đánh giá sự thay đổi huyết động.
Đánh giá mức độ giảm đau, mức độ phong bế vận động trong và sau phẫu thuật.
Đánh giá thời gian tê.
Đánh giá sự thay đổi chỉ số Apgar của trẻ sơ sinh.
Nhận xét và so sánh những tác dụng phụ có thể gặp. Giữa 2 liều thuốc: 8mg Bupivacaine 0,5% kết
hợp với 20 mcg Fentanyl và 10mg Bupivacaine 0,5% đơn thuần.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiền cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Các sản phụ có chỉ định mổ lấy thai tại khoa PTGMHS Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ 01 tháng
01 đến 30 tháng 06 năm 2009.
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 226
Kỹ thuật chọn mẫu
Chia mẫu thành 2 nhóm, mỗi nhóm 30 sản phụ.
- Nhóm A: Tê tủy sống với 8mg Bupivacainee + 20µg Fentanyl.
- Nhóm B: Tê tủy sống với liều 10mg Bupivacainee.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Những sản phụ có chỉ định mổ lấy thai từ 01/1/2009 đến 30/6/2009.
Tiêu chuẩn loại trừ
Tim thai suy.
Nhau tiền đạo.
Sản giật và tiền sản giật.
Sản phụ có chống chỉ định tê tủy sống: Rối loạn đông máu, nhiễm trùng toàn thân,
nhiễm trùng nơi chích, tiểu cầu < 100,000.
Phương pháp thu thập số liệu
Sau khi tê, các sản phụ được theo dõi và thu thập tất cả các số liệu cần thu thập vào một
bảng thu thập đã soạn sẵn. Mỗi bệnh nhân một phiếu thu thập:
- Tuổi: tính theo năm sinh của bệnh nhân.
- Cân nặng (kg), chiều cao (cm)
- Thời gian bắt đầu tê (phút).
- Thời gian tê (phút): thời gian từ lúc sản phụ có cảm giác tê chân đến lúc sản phụ bắt
đầu có vận động tự ý.
Thời gian giảm đau (phút): thời gian từ lúc bắt đầu rạch da đến lúc sản phụ bắt đầu có
cảm giác đau.
Liều lượng thuốc tê: chia hai nhóm, chọn ngẫu nhiên theo số nhập viện.
Hiệu quả tê:
- Tê hoàn toàn: không đau
- Tê một phần, tê một bên trên, tê một bên dưới: còn than đau cần phải dùng thêm thuốc
giảm đau khác.
- Thất bại: phải chuyển phương pháp vô cảm khác.
Đánh giá mức độ liệt vận động theo thang điểm Bromage:
- Độ I: Không gập gối, không nhúc nhích ngón chân.
- Độ II: Nhúc nhích ngón chân được, không nhấc cẳng chân được.
- Độ III: Gấp gối, không nhấc cẳng chân được.
- Độ IV: Nhấc cẳng chân được.
- Theo dõi sinh hiệu, đánh giá mức độ tụt huyết áp.
Nếu huyết áp sau khi tê giảm < 25% so với trị số huyết áp trước khi gây tê được xem
như không tụt huyết áp.
Nếu huyết áp sau khi tê giảm ≥ 25% so với trị số huyết áp trước khi gây tê được xem
như có tụt huyết áp.
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 227
Đánh giá thời gian phẫu thuật.
Ghi nhận ý kiến của bệnh nhân và của phẫu thuật viên.
Phương pháp xử lý số liệu
Tất cả số liệu thu thập được xử lý theo phần mềm SPSS 15.0 với các test χ2 , Fisher’s
exact test, T test với p<0,05. Các số liệu được trình bày dưới dạng các bảng, biểu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua khảo sát 60 trường hợp, chia thành hai nhóm A và B, mỗi nhóm 30 trường hợp, kết
quả như sau:
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học
Nhóm A± ñộ
lệch chuẩn
Nhóm B± ñộ
lệch chuẩn
p
Tuổi trung bình
(năm)
30 ± 5 29 ± 5 0,45
Chiều cao trung
bình (cm)
155 ± 4 155 ± 6 0,09
Cân nặng trung
bình (kg)
63,50 ± 5 63,4 ± 6 0,979
Nhận xét: không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng, chiều cao và tuổi
giữa 2 nhóm.
Biểu đồ 1: Chỉ định phẫu thuật:
15
17
11
9
1
0 0
2
3
2
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
BXDC VMC 1 VMC 2 Duïc sanh KCH
NhoùmA
NhoùmB
Nhận xét: Chỉ định phẫu thuật chủ yếu là bất xứng đầu chậu và vết mổ cũ. Không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về chỉ định phẫu thuật giữa 2 nhóm (p=0,33).
Bảng 2: Hiệu quả tê
Nhóm A (n= 30) Nhóm B (n= 30)
Tê hoàn toàn 30 30
Tê một phần 0 0
Thất bại 0 0
Không ghi nhận trường hợp nào tê thất bại phải chuyển mê nội khí quản. Tất cả các
truờng hợp đạt được tê hoàn toàn.
Bảng 3: Thời gian
Thời gian trung bình(phút)
± ñộ lệch chuẩn
Nhóm A
(n=30)
Nhóm B
(n=30)
p
Thời gian giảm ñau 138 ± 30 133 ± 37 0,72
Thời gian ức chế vận ñộng 124 ± 28 120 ± 30 0,81
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 228
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian giảm đau và ức chế
vận động giữa 2 nhóm (p>0,05).
Bảng 4: Mức tê
0 phút 3 phút 5 phút > 10 phút
Nhóm A B A B A B A B
L1 23 21
L2 7 9
T12 16 23
T10 14 7 24 23
T6 5 7 30 30
χ2=0,34,
p=0,56
χ2 =3,6,
p=0,058
χ2 =0,1,
p=0,756
Nhận xét: không có sự khác biệt có ý nghĩa thống về mức tê theo các thời điểm sau tê 0
phút, 3 phút, 5 phút và >10 phút giữa 2 phương pháp (p>0,05). Sau 5 phút, ghi nhận ở 2
nhóm, các trường hợp sau tê đều đạt mức tê > T10, với mức tê này, PTV có thể thực hiện
phẫu thuật.
Bảng 5: Sự thay đổi huyết áp tại các thời điểm:
Hạ huyết
áp
Nhóm A
(n= 30)
Nhóm B
(n= 30)
Fisher’s
exact test
Có 2 4 Ngay sau
tê Không 28 26 p= 0,335
Có 2 5 Phút thứ
3 Không 28 25 p= 0,212
Có 2 4 Phút thứ
5 Không 28 26 p= 0,335
Nhận xét:không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự thay đổi huyết áp tại các thời
điểm 0’,3’,5’ giữa 2 nhóm ( p>0,05).
Bảng 6: Ảnh hưởng huyết động chung trong cuộc mổ
Hạ huyết áp Nhóm A (n=
30)
Nhóm B
(n= 30)
Nhóm chung
(n=60)
Có 4 10 14
Không 26 20 46
Fisher’s exact test với p= 0,063.
Nhận xét: tỷ lệ hạ huyết áp không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm
(p>0,05).
Bảng 7: Mức độ dãn cơ
Nhóm A
(n= 30)
Nhóm B
(n= 30)
Nhóm chung
(n=60)
Tốt 25 30 55
Trung bình 5 0 5
Kém 0 0 0
Nhận xét: có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nhận xét của PTV liên quan đến độ dãn
cơ giữa 2 nhóm ( p<0,05).
Bảng 8: Tác dụng phụ tức thời
Nhóm A (n= 30) Nhóm B (n= 30)
Lạnh run 2 5 p= 0.015
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 229
Nôn 2 4 p=0.087
Trong cả 2 nhóm, không ghi nhận trường hợp nào bị nhức đầu, ngộ độc thuốc tê, dị
cảm.
Lạnh run có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm.
Nôn không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Bảng 9: Chỉ số Apgar
Nhóm A
(n= 30)
Nhóm B
(n= 30)
Apgar 1’ 7,7± 0,4 7,6± 0,5 p= 0,175
Apgar 5’ 8,7± 0,4 8,6± 0,5 p=0,177
Nhận xét: không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chỉ số Apgar của trẻ mới sanh
giữa
2 nhóm.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi do thời gian ngắn, lượng bệnh có hạn nên chúng tôi chọn tất
cả những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chọn mẫu vào trong nghiên cứu không phân biệt tuổi.
Chúng tôi nghiên cứu trên 60 bệnh nhân, phân làm hai nhóm theo phương pháp thống kê
ngẫu nhiên. Những sản phụ có số nhập viện là số chẵn vào nhóm A và số lẻ vào nhóm B.
Trong 1 ngày, chọn ≤ 4 sản phụ, nhằm đánh giá và ghi nhận đầy đủ các biến số. Với kết quả
thu được và qua xử lý số liệu, chúng tôi nhận thấy:
Đặc điểm dân số mẫu
Qua kết quả, chúng tôi không ghi nhận có sự khác biệt về tuổi trung bình, chiều cao, cân
nặng giữa 2 nhóm, điều này khẳng định được tính khách quan và ngẫu nhiên trong cách
chọn mẫu.
Chỉ định phẫu thuật
Trong nghiên cứu, chúng tôi chỉ chọn có 4 nhóm chỉ định phẫu thuật: bất xứng đầu chậu,
vết mổ cũ, dục sanh thất bại và khung chậu hẹp. Vì đây là những chỉ định phẫu thuật thường
gặp trong sản khoa, dễ lấy mẫu, và tê tủy sống được xem là phương pháp vô cảm tốt nhất.
Kết quả cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê liên quan đến chỉ định phẫu
thuật giữa 2 nhóm.
Hiệu quả tê
Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
- Tất cả các trường hợp ở 2 nhóm đều đạt độ tê hoàn toàn, không có truờng hợp nào tê
thất bại phải chuyển mê nội khí quản.
- Không dùng thêm thuốc giảm đau.
- Không ghi nhận trường hợp nào tê một phần.
Điều này cũng rất phù hợp với những nghiên cứu trước đây. Theo Jaishri Bogra 2005
(5), với liều 8mg Marcain 0,5% thì có thể đạt được hiệu quả tê để thực hiện mổ lấy thai.
Theo Choi DH 2006 (4), liều dùng 6mg Marcain 0,5% kết hợp với 20mcg fentanyl đủ để đạt
hiệu quả tê trong mổ lấy thai.
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 230
Mức tê
Chúng tôi ghi nhận 100% trường hợp ở 2 nhóm đạt mức tê T10 vào phút thứ 5, điều này
khẳng định tính hiệu quả của tê. Mặc dù chúng tôi không tìm được mối tương quan giữa
liều thuốc và mức tê (p>0,05), nhưng qua kết quả chứng minh được với liều thấp kết hợp
với fentanyl đạt được hiệu quả tê, mức tê tương đương với liều thường dùng. Thật vậy, so
với các nghiên cứu: Randalls và cộng sự (1991)(10) đạt được mức tê T6 với 8mg Marcain 0,5%
có kết hợp với Fentanyl. Tương tự với Singh (1995)(12).
Tuy nhiên Johanna Sarvela(6), thì thời gian để đạt được hiệu quả tê là 10 phút, điều này
cũng dễ giải thích vì tác giả đợi mong đạt mức tê T5.
Thời gian giảm đau hiệu quả và ức chế vận động
Thời gian giảm đau trung bình của 2 nhóm (A =138± 30, B=133 ± 37, p=0.45). Thời gian
trung bình ức chế vận động của 2 phương pháp (A: 124± 28; B: 120 ± 30, p=0.81) không
chênh lệch nhiều và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Điều này khẳng định hiệu
quả của tê liều thấp với kết hợp Fentanyl.
Sự thay đổi huyết áp
Sự thay đổi huyết động nói chung và huyết áp nói riêng của tê tủy sống thường xuất
hiện ngay sau tê do tác dụng ức chế hạch giao cảm cạnh sống, làm dãn mạch 2 chân và từ
đó làm giảm lượng máu trở về tim gây nên tình trạng rối loạn huyết động do giảm cung
lượng tim. Thêm vào đó, nếu mức tê lên cao (T4), lúc này thuốc tê sẽ ức chế hệ thần kinh chi
phối vùng tim, sẽ gây ra tình trạng rối loạn huyết động rất nặng, đồng thời ở mức tê này,
thuốc tê cũng ức chế hô hấp gây tình trạng tê tay, khó thở, có thể suy hô hấp. Theo Johanna
Sarvela(6), thì thời gian đạt mức tê T5 trong 10 phút. Và vì thuốc tê dùng tê tủy sống là thuốc
tăng trọng, nên nếu giữ tư thế sản phụ với đầu không thấp thì thuốc tê sẽ không lan lên >T5.
Chính vì thế, trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi theo dõi huyết động của bệnh nhân
mỗi 3 phút trong 10 phút đầu, và 5 phút trong 30 phút đầu, sau đó là mỗi 15-30 phút.
Chúng tôi ghi nhận hạ huyết áp xuất hiện ở 3 thời điểm: 0 phút, 3 phút và 5 phút. Và từ
phút thứ 10, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào bị rối loạn huyết động. Điều này
phù hợp với nghiên cứu của Michelangelt.F 1984(8). Để có được kết quả này, một phần
chúng tôi đã kết hợp với Bác sĩ sản khoa về việc bù dịch cho sản phụ trước mổ, thêm vào đó
là việc theo dõi sát và xử lý kịp thời các trường hợp hạ huyết áp, tránh gây nguy hiểm cho
sản phụ và cho con.
Tuy số trường hợp hạ huyết áp ở nhóm B cao hơn nhóm A ở 3 thời điểm.
0 phút 3 phút 5 phút
Nhóm A B A B A B
Hạ huyết áp 2 4 2 5 2 4
p= 0,335 p= 0,212 p= 0,335
Nhưng chúng tôi không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm tại các
thời điểm (p>0,05). Tương tự với kết quả của Michelangelt.F 1984(8), tuy nhiên Tác giả cũng ghi
nhận những trường hợp hạ huyết áp muộn > 15 phút.
Khi lập bảng so sánh về sự thay đổi huyết áp chung giữa 2 nhóm, chúng tôi ghi nhận:
Hạ huyết áp Nhóm A
( n= 30)
Nhóm B
( n= 30)
Nhóm chung
(n=60)
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 231
Có 4 (13%) 10 (30%) 14 (23%)
Không 26 (87%) 20 (70%) 46 (77%)
Với p=0,63, không có sự khác biệt về sự thay đổi huyết áp giữa 2 nhóm, tuy nhiên tần
suất hạ huyết áp ở nhóm B cao hơn nhiều chiếm 17% dân số chung.
Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Trinh-duc P (1987)(14), theo tác giả thì tần
suất thay đổi huyết áp cao ở nhóm tê tủy sống với Marcain đơn thuần liều cao, và tác giả
cũng nhấn mạnh hiệu quả của tê tủy sống khi phối hợp với Fentanyl.
Mức độ dãn cơ
Đây là chỉ số mang tính chủ quan, vì chúng tôi thu thập được thông qua phản ánh ý
kiến chủ quan của Phẫu thuật viên. Thông qua 3 mức độ: dãn cơ tốt, trung bình và kém,
chúng tôi thu thập được: Trong nhóm A, không có trường hợp nào có mức độ dãn cơ
kém, gây cản trở quá trình phẫu thuật, tuy nhiên với 5 trường hợp chiếm 8,3% được ghi
nhận là trung bình. Khi cho vào bảng 2x2, với Fisher’s exact test, p=0,026, chúng tôi ghi
nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, đây chỉ mang tính chủ quan, nên
để khẳng định điều này cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, có máy kích thích
điện để đo độ dãn cơ, từ đó mới có những kết luận chính xác.
Tác dụng phụ
Nôn được xem là một trong những tác dụng phụ thường gặp trong tê tủy sống với
tần suất rất dao động 0.2-15%(9). Trong nghiên cứu của Johanna S(6), thì tỷ lệ sản phụ nôn
là 7/76 Trong nghiên cứu của chúng tôi, với tỷ lệ tương đối phù hợp 6/60, trong đó
nhóm A chiếm 2/30 và nhóm B 4/30, rõ ràng tần suất nôn ở nhóm tê tủy sống liều cao
vẫn cao hơn, tuy nhiên chúng tôi không tìm được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Lạnh run, trong nghiên cứu, chúng tôi tìm ra được sự khác biệt về lạnh run giữa 2
nhóm, và tần suất lạnh run ở nhóm B vẫn cao hơn nhóm A.
Chỉ số Apgar
Tại thời điểm phút đầu tiên, cả 2 nhóm đều có chỉ số Apgar>7, tương tự ở phút thứ 5.
Chỉ số apgar của trẻ mới sanh giữa 2 nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Không ghi nhận trường hợp nào có chỉ số Apgar<7, hoặc bé cần phải hồi sức cơ sinh.
KẾT LUẬN
Liều 8mg Bupivacaine 0,5% kết hợp với 20mcg Fentanyl là thích hợp để tê tủy sống mổ
trong phẫu thuật mổ lấy thai lý do:
- An toàn về mặt huyết động học, tỷ lệ hạ huyết áp thấp hơn (13%/30%) so với liều
thông thường.
- Mức độ, thời gian giảm đau và phong bế vận động tương đương so với liều thông
thường trong mổ. Sau mổ, thời gian giảm đau vẫn hiệu quả, không khác biệt so với liều
thông thường.
- Không có sự khác biệt về chỉ số Apgar sau mổ giữa 2 phương pháp.
- Thời gian tê hiệu quả tương đương.
- Tác dụng phụ (nôn và lạnh run) ít hơn so với liều thông thuờng.
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009 232
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abouleish E, Rawal N, Fallon K, Harnandez D (2002), “Combined intrathecal morphine and bupivacainee for cesarean
section”. Anesthesia & Analgesia, 67: pp 370-374.
2. Body G. Lansac (1997), ” L’anesthesie et l’analgésie obtétricales”, Practique de l’accouchement : pp 120-127.
3. Chauvin.M (1999),”Bupivacaine”, Anesthégie loco-régionale, Arnette: pp 10-101.
4. Choi DH, Ahn HJ, Kim MH (2006), “Combined low-dose spinal-epidural nesthesia versus single-shot spinal anesthesia for
elective cesarean delivery”. Regional Anesthesia, Pain medicine, 25: pp 240-245.
5. Jaishri B, Namita A and Pratima S (2005), “Synergistic effect of intrathecal fentanyl and bupivacainee in spinal anesthesia
for cesarean section”. Regional Anesthesi, Pain medicine 125:pp 340-345.
6. Johanna Sarvela P, Pekka M, Kari T (1999), “Comparison of 9 mg of Intrathecal Plain and Hyperbaric Bupivacainee Both
with Fentanyl for Cesarean Delivery”. Obstetric anesthesia , 89:pp 1257–62
7. Lancac.J, Body G (1990) ‘’ césarienne’’, practique de l’accouchement, 2e édiction, pp
8. Michelangelt F, Donsa E, Romeuf J, Carrascosa M, Yvonnet M (1984) “Association Bupivacạne - fentanyl intrathécale pour
l’opération césarienne”. Conv. medecine, 3 : pp 121-126.
9. Mijller IW, Fernandes A, Edstrom HH (2004).“Subarachnoid anaesthesia with 0,5% bupivacainee: effects of density”. Br J
Anaesth; 56:pp 1191-5.
10. Randalls B, Broadway JW, Browne DA, Morgan BM (1991), “Comparison of four subarachnoid solutions in a needle-
through needle technique for elective cesarean section”. Br J Anaesth, 66: pp 314-318.
11. Russell IF. (2001) “Spinal anaesthesia for Caesarean section: the use small dose of 0,5% bupivacainee”. Br J Anaesth ;55: pp
309-14.
12. Singh H, Yang J, Thornton K, Giesecke AH (1995),” Intrathecal fentanyl prolongs sensory bupivacainee spinal block”. Can J
Anesth, 42: pp 987-91.
13. Stonham J, Moss P. (1999), “The optimal test dose for epidural anesthesia” .Anesthesiology, 58, pp 389-90.
14. Trinh-Duc P, Fontes J.P (1987) “ Intéret de l’association Bupivacạne - fentanyl isobare en rachianesthésie”. Ann. Fr. Anesth.
Réanimation, 6 :pp 142-143 .
15. Vernheit J, Cheruy D, Maindivide J, Vabre M, Clement C, Dartigues J.F (1986) “Rachianesthésie à la Bupivacạne: les effets
secondaires fréquentes ‘’ , Ann. Fr. Anesth. Réanim., 3 : 252-255.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_tren_huyet_dong_cua_te_tuy_song_voi_bupivacaine_li.pdf