Một là, nếu như trong áp dụng pháp luật
hình sự làm sáng tỏ được hành vi tuy có dấu
hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không
phải là tội phạm, hoặc hành vi đã được thực
hiện không có cho dù một dấu hiệu nào đó
của cấu thành tội phạm, thì đó là cái “phanh
hãm” việc thi hành (thực hiện) pháp luật
hình sự. Chính việc áp dụng pháp luật hình
sự xác định trên thực tế các hành vi nguy
hiểm như thế nào cho cá nhân, xã hội hoặc
nhà nước là tội phạm và xác định các loại
hình phạt và các biện pháp khác mang tính
chất pháp lý hình sự đối với việc thực hiện
các tội phạm (Điều 2 BLHS).
Hai là, khi áp dụng pháp luật hình sự
làm sáng tỏ được sự hiện có những trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (từ Điều
20 đến Điều 26 BLHS), có nghĩa rằng, việc
thi hành (thực hiện) quy phạm pháp luật
hình sự tương ứng đã được diễn ra. Trong
trường hợp như vậy, con người đã thực hiện
hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp
luật hình sự khi ở trong sự kiện bất ngờ,
tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự, trạng thái phòng vệ chính đáng,
tình thế cấp thiết, gây thiệt hại trong khi
bắt giữ người phạm tội, rủi ro trong nghiên
cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, thi hành mệnh lệnh
của người chỉ huy hoặc của cấp trên.
Trong tất cả các tình huống còn lại, việc thi
hành (thực hiện) pháp luật hình sự chỉ diễn
ra sau khi đã áp dụng nó và thông thường
trong phạm vi của luật thi hành án hình sự.
Từ đây cho thấy, trong một số trường hợp,
áp dụng pháp luật hình sự là điều kiện loại
trừ việc thi hành (thực hiện) pháp luật hình
sự. Trong một số trường hợp khác, áp dụng
pháp luật hình sự là hậu quả của việc thi
hành (thực hiện) pháp luật hình sự. Trong
trường hợp thứ ba, áp dụng pháp luật hình
sự là tiền đề, là hình thức (là hình thức đặc
biệt, đặc thù) hoặc một giai đoạn đặc biệt của
thi hành (thực hiện) pháp luật hình sự
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng pháp luật hình sự: Những vấn đề lý luận (Kỳ 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
1. khái niệm và các dấu hiệu của áp
dụng pháp luật hình sự
Áp dụng pháp luật hình sự là chủ đề
nghiên cứu quan trọng của khoa học luật
hình sự. Ở đây có những vấn đề lý luận đặt
ra cần được làm sáng tỏ như: có các cách tiếp
cận nghiên cứu như thế nào đến áp dụng
pháp luật hình sự?; áp dụng pháp luật hình
sự được hiểu như thế nào?; áp dụng pháp
luật hình sự có các dấu hiệu, nội dung, đặc
điểm, chức năng như thế nào?
Đến nay, có các cách tiếp cận nghiên cứu
khác nhau về áp dụng pháp luật hình sự:
tiếp cận luật học thực định; tiếp cận xã hội
học; tiếp cận so sánh và một số cách khác. Bài
viết này tập trung làm sáng tỏ cách tiếp cận
thực định đến áp dụng pháp luật hình sự.
1.1. Áp dụng pháp luật hình sự là một
loại hoạt động pháp luật, một loại áp dụng
pháp luật1
* Giáo sư, Tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam
Áp dụng pháp luật là một loại hoạt động
pháp luật, do vậy, nó có tất cả các dấu hiệu
của hoạt động pháp luật12, có đối tượng,
giới hạn, chủ thể và kết quả của mình. Hoạt
động áp dụng pháp luật có các đặc điểm
nhất định. Đó là: áp dụng pháp luật là một
loại hoạt động mang tính tổ chức quyền lực
nhà nước; áp dụng pháp luật là hoạt động
được tiến hành theo những hình thức và
thủ tục được pháp luật quy định rất rõ ràng,
chặt chẽ; áp dụng pháp luật là hoạt động
điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan
hệ xã hội; áp dụng pháp luật là hoạt động
mang tính sáng tạo23. Áp dụng pháp luật là
một quá trình bao gồm các giai đoạn khác
nhau. Trong lý luận pháp luật, quá trình áp
dụng pháp luật được phân thành các giai
đoạn sau: thu thập, phân tích, đánh giá các
1 Xem: Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020, tr.299-312.
2 Xem: Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2016, tr.337-338.
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN (KỲ 1)
VÕ kHáNH ViNH*
Áp dụng pháp luật hình sự là một vấn đề quan trọng của khoa học luật hình sự,
là nội dung điều chỉnh của pháp luật hình sự, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan
trọng. Bài viết làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu, nội dung, các chức năng, các
loại, các giai đoạn áp dụng pháp luật hình sự.
Từ khoá: Khái niệm, các dấu hiệu, nội dung, các chức năng, các loại, các giai
đoạn áp dụng pháp luật hình sự.
Ngày nhận bài: 28/6/2020; Ngày biên tập xong: 28/6/2020; Ngày duyệt đăng:
28/6/2020.
the application of criminal law is considered as a vital matter in the criminal
law science. it is also the content of criminal law which has important theoretical
and practical implications. the article clarifies concepts, signs, contents,
functions, types and stages of criminal law application.
keywords: Concepts, signs, content, functions, types, stages of criminal law
application.
VÕ KHÁNH VINH
7Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
tình tiết của cấu thành thực tế của vụ việc
được giải quyết; lựa chọn quy phạm pháp
luật được áp dụng để giải quyết vụ việc và
làm sáng tỏ nội dung của nó; đưa ra văn bản
áp dụng pháp luật; tổ chức thực hiện văn
bản áp dụng pháp luật31.
Áp dụng pháp luật là một hình thức
của thực hiện pháp luật. Mục tiêu trực
tiếp của áp dụng pháp luật là bảo đảm
cho quy phạm pháp luật được thực hiện
trong đời sống thực tế. Áp dụng pháp luật
là một trong những hình thức pháp lý của
thực hiện các chức năng của nhà nước.
Áp dụng pháp luật được thực hiện trong
những trường hợp khác nhau, trong đó
có trường hợp khi có vi phạm điều cấm
pháp luật và cần áp dụng các biện pháp
cưỡng chế nhà nước do chế tài pháp luật
quy định đối với những chủ thể của hành
vi vi phạm pháp luật. Tội phạm là một
loại vi phạm pháp luật và các biện pháp
trách nhiệm hình sự là một loại biện pháp
cưỡng chế nhà nước. Áp dụng pháp luật
hình sự, do vậy, là một loại áp dụng pháp
luật, được thực hiện khi có sự kiện pháp
lý hình sự xảy ra và cần áp dụng các biện
pháp trách nhiệm hình sự. Áp dụng pháp
luật hình sự là một hình thức pháp lý của
thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật, bảo
vệ trật tự pháp luật.
Như vậy, từ quan điểm lý luận chung,
áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ
chức, quyền lực của nhà nước do các cơ quan
nhà nước, người có chức vụ, quyền hạn có thẩm
quyền thực hiện nhằm cá biệt hoá các quy phạm
pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các
cá nhân, tổ chức cụ thể 42.
Từ nhận thức trên, dưới dạng khái quát,
có thể hiểu áp dụng pháp luật hình sự là
một loại hoạt động pháp luật, một loại áp
dụng pháp luật, do vậy, nó có tất cả những
3 Xem: Võ Khánh Vinh (chủ biên), tlđd, 2016, tr.340-341.
4 Xem Võ Khánh Vinh (chủ biên), tlđd, 2016, tr.338.
gì thuộc về hoạt động pháp luật, thuộc về áp
dụng pháp luật. Đồng thời, áp dụng pháp
luật hình sự, ngoài các đặc điểm chung còn
có các đặc điểm riêng của mình. Áp dụng
pháp luật hình sự với tư cách là một quá
trình bao gồm các giai đoạn nhất định.
1.2. Nội dung và các dấu hiệu của áp
dụng pháp luật hình sự
Vấn đề đặt ra cần được luận giải là áp
dụng pháp luật hình sự có nội dung như
thế nào?
Trong Bộ luật hình sự (BLHS) nước ta,
thuật ngữ “áp dụng Bộ luật hình sự” được
sử dụng trong trong một số điều luật. Thuật
ngữ “áp dụng Bộ luật hình sự” được hiểu
trong ngữ cảnh này là áp dụng pháp luật
hình sự. Chẳng hạn, Điều 5 (Khoản 1) BLHS
quy định: Bộ luật hình sự áp dụng đối với
mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quy định này cũng được áp dụng đối
với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành
vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển
mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
Điều 6 (Khoản 1) BLHS quy định: quy
định này cũng được áp dụng đối với người
không quốc tịch thường trú ở Việt Nam.
Điều 7 (Khoản 1) BLHS quy định:
1. Điều luật được áp dụng đối với một
hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu
lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm
tội đã thực hiện.
2. Điều luật quy định một tội phạm mới,
một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng
nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng
án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm
hình phạt, xóa án tích và quy định khác
không có lợi cho người phạm tội, thì không
được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã
thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực
thi hành.
áP DỤNg PHáP LUẬt HÌNH SỰ: NHỮNg VẤN đỀ LÝ LUẬN (kỲ 1)
8 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một
hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định
một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm
nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án
treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình
phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa
án tích và quy định khác có lợi cho người
phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi
phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó
có hiệu lực thi hành.
Trong các điều luật tiếp theo, nhà làm
luật thường gắn áp dụng pháp luật với hình
phạt và các biện pháp khác mang tính chất
pháp lý hình sự (các điều từ Điều 32 đến
Điều 41, 43, 45, 47, 49, 50, 54, 55, 57, 58 và các
điều luật khác). Từ việc viện dẫn các điều
luật nói trên cho thấy, việc áp dụng đạo luật
hình sự bao hàm cả việc xác định tính tội
phạm của hành vi đã được thực hiện, cả
việc áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp
khác mang tính chất pháp lý hình sự.
Như vậy, BLHS hiện hành (và cả các
BLHS trước đó) sử dụng hai thuật ngữ “áp
dụng” pháp luật hình sự và “thi hành” pháp
luật hình sự. Vậy những thuật ngữ đó được
hiểu như thế nào? Vấn đề này sẽ được luận
giải ở phần tiếp theo.
Việc áp dụng đạo luật hình sự thường
được nói đến trong Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) hiện hành, nhưng với nội dung
khác nhau, hơn nữa, với nhiều phương án.
Chẳng hạn, Điều 326, Khoản 3 BLTTHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy
định các vấn đề của vụ án phải được giải
quyết khi nghị án, chỉ rõ: trường hợp đủ căn
cứ kết tội thì phải xác định rõ điểm, khoản,
điều của BLHS được áp dụng (điểm c); hình
phạt, các biện pháp tư pháp áp dụng đối
với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (điểm
d); bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không
(điểm đ). Đồng thời, Khoản 1 và 2 Điều 357
BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 sử dụng thuật ngữ áp dụng pháp luật
hình sự ở các nghĩa: định tội danh, miễn
trách nhiệm hình sự, áp dụng hình phạt
(hình phạt chính và hình phạt bổ sung),
miễn hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp.
Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 357, Hội đồng xét
xử phúc thẩm có quyền: miễn trách nhiệm
hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo;
không áp dụng hình phạt bổ sung; không
áp dụng biện pháp tư pháp; áp dụng điều,
khoản của BLHS về tội nhẹ hơn; giảm hình
phạt cho bị cáo; chuyển sang hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn; trong trường hợp Viện
kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo
yêu cầu có quyền tăng hình phạt, áp dụng
điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn; áp
dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp
tư pháp.
Từ việc nêu và phân tích các quy định
nói trên của pháp luật hình sự và pháp luật
tố tụng hình sự, vấn đề đặt ra là việc sử dụng
thuật ngữ áp dụng pháp luật hình sự trong
BLHS và BLTTHS (ở đây chưa nói đến pháp
luật thi hành án hình sự, pháp luật tổ chức
điều tra hình sự) có nghĩa như thế nào? Có
nội dung như thế nào? Chúng tôi cho rằng,
từ quan điểm kỹ thuật lập pháp, mỗi thuật
ngữ pháp lý bao giờ và bất kỳ ở đâu cũng
được hiểu thống nhất, tự bản thân mình có
nội dung ổn định và đồng nhất trong toàn
bộ vật chất pháp luật tư pháp hình sự51.
Hiện nay, trong sách báo pháp lý có các
quan điểm khác nhau về áp dụng pháp luật
hình sự. Và trước hết, các quan điểm đó thể
hiện nội dung khác nhau của áp dụng pháp
luật hình sự.
Trong khoa học luật hình sự, có quan
điểm cho rằng, “định tội danh và quyết
định hình phạt - đó là việc Toà án áp dụng
5 Xem: Võ Khánh Vinh, Về quyền tư pháp và chế
độ tư pháp ở nước ta, Tạp chí Toà án nhân dân, số
16/2019, tr.1-15.
VÕ KHÁNH VINH
9Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
pháp luật đối với sự kiện đã được quy
định phù hợp với hiện thực”61. Trong khái
niệm nói trên, về nguyên tắc, không có gì là
không đúng. Nhưng đồng thời, khái niệm
đó về áp dụng pháp luật hình sự là quá
hẹp, không bao quát hoạt động trong lĩnh
vực đánh giá hành vi tuy có dấu hiệu của
tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể thì không phải là tội
phạm và những trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự. Điều đó có nghĩa rằng, việc
áp dụng các quy định của pháp luật hình
sự về hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể thì không phải là tội phạm
và những trường hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự không được đưa vào nội dung của
áp dụng pháp luật hình sự.
Theo quan điểm khác, “áp dụng các quy
phạm pháp luật hình sự - đó là văn bản
mang tính ý chí quyền lực dựa trên đạo luật
hình sự của cơ quan nhà nước có nhiệm vụ
đấu tranh với tình hình tội phạm, dựa vào
chân lý khách quan đã được xác định trong
vấn đề về tính có lỗi hoặc tính không có lỗi
của người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự”72. Quan điểm này dựa trên cách tiếp cận
tố tụng hình sự để nói về hiện tượng pháp
luật vật chất - áp dụng pháp luật hình sự là
chưa đúng thực chất của vấn đề.
Những người theo quan điểm thứ ba
cho rằng, “trong luật hình sự, áp dụng pháp
luật có nghĩa là đưa sự kiện cụ thể vào đạo
luật hình sự tương ứng và đưa ra quyết định
tương ứng, có hiệu lực bắt buộc”83. Tuy vậy,
định nghĩa đó không phản ánh đặc trưng
của áp dụng chính pháp luật hình sự với tư
6 Strogovich M.S., Chân lý vật chất và chứng cứ xét
xử trong tố tụng hình sự Xô viết, Mátxcơva, 1955, tr.
64 (Tiếng Nga).
7 Shljapochnikov A.S., Giải thích pháp luật hình sự
Xô viết, Mátxcơva 1960, tr.47 (Tiếng Nga).
8 Brajnin Ja.M., Đạo luật hình sự và áp dụng đạo luật
hình sự, Mátxcơva, 1967, tr.92 (Tiếng Nga).
cách là một ngành pháp luật có đối tượng
và phương pháp điều chỉnh của mình, điều
cho phép tách ngành pháp luật đó ra khỏi
các ngành pháp luật khác.
Quan điểm khác cho rằng, áp dụng đạo
luật hình sự được hiểu là “kết quả xã hội tích
cực của hoạt động hợp pháp của các cơ quan
có thẩm quyền và của những người có chức
vụ, quyền hạn để đạt được các mục tiêu của
đạo luật đó bằng cách thực hiện trách nhiệm
do đạo luật đó quy định”94. Theo quan điểm
này, một mặt, cần phải xác định khái niệm
khác - áp dụng đúng đạo luật hình sự là gì;
mặt khác, các mục tiêu của đạo luật hình sự
không phải bao giờ cũng đạt được bằng việc
thực hiện trách nhiệm hình sự (chẳng hạn, rõ
ràng là điều đó không xảy ra, khi quy định
hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng
tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể thì không phải là tội phạm và được xử lý
bằng các biện pháp khác).
Quan điểm tiếp theo cho rằng, áp dụng
pháp luật hình sự là “hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước của các cơ quan có thẩm
quyền và của những người có chức vụ,
quyền hạn để giải quyết (tích cực hoặc tiêu
cực) vấn đề về trách nhiệm hình sự và hình
phạt của người thực hiện tội phạm, hoặc
xác định tính hợp pháp của hành vi của con
người và miễn trách nhiệm hình sự và hình
phạt cho người đó”510. Quan điểm này cũng
không đáp ứng được quan niệm của lý luận
chung về áp dụng pháp luật với tư cách là
hoạt động có tổ chức, bởi vì, hoạt động chỉ
nhằm giải quyết những vấn đề tương ứng,
vẫn không có khả năng tổ chức bất kỳ điều
gì. Hơn nữa, không hoàn toàn logic khi đưa
vào khái niệm áp dụng pháp luật hình sự,
ngoài hoạt động nhằm giải quyết những
vấn đề tương ứng, cả hoạt động có tổ chức
9 Beljaev V.G., Áp dụng đạo luật hình sự, Volgograd,
1998, tr.92 (Tiếng Nga).
1 0 Naumov A.V., Áp dụng các quy phạm pháp luật
hình sự, Mátxcơva, tr.44-45 (Tiếng Nga).
áP DỤNg PHáP LUẬt HÌNH SỰ: NHỮNg VẤN đỀ LÝ LUẬN (kỲ 1)
10 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
(hoạt động xác định tính hợp pháp của các
hành vi và hoạt động miễn trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt và các hoạt động
khác liên quan đến hình phạt).
Để định nghĩa nội dung hiện thực của
khái niệm áp dụng pháp luật hình sự, trước
hết, cần phải làm sáng tỏ ở đâu và khi nào
thì có thể sử dụng khái niệm đó. Ở đây cần
hiểu rằng, vai trò điều chỉnh của pháp luật
(đời sống của pháp luật) được thể hiện,
được hình thành từ các mắt xích sau đây:
làm sáng tỏ nhu cầu thực hiện pháp luật =>
xác định các tình tiết thực tế => xác định quy
phạm pháp luật => đưa ra quyết định về
thực hiện pháp luật => đưa quyết định đến
các chủ thể liên quan => thi hành quyết định
về thực hiện pháp luật đã được ban hành =>
kiểm tra, giám sát việc thi hành quyết định
đã được ban hành.
Trong các mắt xích nói trên, giai đoạn
đưa ra quyết định về thực hiện pháp luật có
ý nghĩa đặc biệt. Thực chất là ở chỗ, các quy
phạm pháp luật được phân thành: 1, các quy
phạm mà để thực hiện chúng chỉ cần có đầy
đủ hành vi tương ứng của những người (đối
tượng) tiếp nhận các quy phạm đó, và 2, các
quy phạm mà để thực hiện chúng cần phải
có các quyết định bổ sung cần thiết của các
cơ quan nhất định. Thêm vào đó, các cơ quan
nhất định đó không phải là những người
tiếp nhận các quy phạm. Những người tiếp
nhận các quy phạm đưa ra quyết định đối
với chính mình, những người không tiếp
nhận quy phạm đưa ra quyết định đối với
những người tiếp nhận quy phạm. Đương
nhiên rằng, quyết định không đối với chính
mình cần phải có đặc trưng cơ bản nào đó.
Đặc trưng đó sẽ được hiện rõ khi làm sáng
tỏ được khái niệm áp dụng pháp luật hình
sự, bởi vì, các quy phạm của pháp luật hình
sự tự mình không thể được áp dụng, mà để
áp dụng các quy phạm đó cần phải có hoạt
động của các cơ quan có thẩm quyền và của
những người có chức vụ, quyền hạn.
Đồng thời, việc ban hành quyết định
tương ứng chỉ đủ để người tiếp nhận quy
phạm thi hành (thực hiện) pháp luật. Còn
đối với người không tiếp nhận quy phạm
cần phải khách quan hoá quyết định, tức
là đưa ra quyết định dưới hình thức nhất
định. Trong trường hợp ngược lại, người
không tiếp nhận quy phạm không thể thi
hành được pháp luật, bởi vì không có khả
năng hiểu biết về quyết định đã được ban
hành.
Từ những lý giải nói trên thấy rằng, hoạt
động đưa ra quyết định về thi hành (thực hiện)
pháp luật là dấu hiệu loại của áp dụng pháp
luật hình sự. Để xác định được các dấu hiệu
loại của áp dụng pháp luật hình sự, cần
phải làm sáng tỏ hoạt động đưa ra quyết
định về thi hành (thực hiện) đích thực pháp
luật hình sự là như thế nào.
Theo Điều 2 BLHS hiện hành, pháp luật
hình sự quy định tội phạm và trách nhiệm
hình sự, quy định những hành vi nguy hiểm
nào đối với cá nhân, xã hội hoặc nhà nước
là tội phạm, và quy định các loại hình phạt
và các biện pháp khác mang tính chất pháp
lý hình sự đối với việc thực hiện tội phạm.
Như vậy, rõ ràng hoạt động đưa ra quyết
định về việc thi hành (thực hiện) pháp luật
hình sự chứa đựng kết luận duy nhất mang
tính hai mặt: 1, hoạt động đưa ra quyết định
về tính quy định trước (hoặc tính không
quy định trước) của các tình tiết thực tế đã
được xác định trong quy phạm tương ứng
và 2, hoạt động đưa ra quyết định về việc
xác định (hoặc không xác định) biện pháp
mang tính chất pháp lý hình sự có trong
quy phạm đó.
Do đó, kết luận về tính quy định trước
(hoặc tính không quy định trước) của các tình
tiết thực tế đã được xác định trong quy phạm
pháp luật hình sự tương ứng là dấu hiệu loại
đầu tiên của áp dụng pháp luật hình sự. Kết
luận này thể hiện sự đánh giá về hành vi
cụ thể của con người hoặc của pháp nhân
VÕ KHÁNH VINH
11Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
thương mại từ quan điểm của các quy định
của pháp luật hình sự. Tuy vậy, sự đánh giá
đó không phải khi nào cũng được đưa ra
đối với bất kỳ hành vi nào của con người
hoặc của pháp nhân thương mại. Bởi lẽ, tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải
bị xử lý hình sự (Khoản 1 Điều 8 BLHS). Do
vậy, chỉ có hành vi nguy hiểm cho xã hội của
con người hoặc của pháp nhân thương mại
mới cần phải có sự đánh giá về mặt pháp
lý hình sự. Đồng thời, hành vi đó, trước đó
(trước khi pháp luật hình sự được áp dụng)
đã được chính nhà làm luật đánh giá là tội
phạm bằng việc chỉ ra các dấu hiệu của nó
trong đạo luật hình sự. Từ đây, trong hiện
thực, theo quy tắc chung, tính nguy hiểm
cho xã hội đã được xác định cùng một lúc
với việc xác định sự hiện có cấu thành tội
phạm trong hành vi của con người hoặc
của pháp nhân thương mại (tính bị cấm của
hành vi). Nói cách khác, tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi đã được cân nhắc, thể
hiện khi tội phạm hoá.
Nhưng khi xác định (suy đoán) mối liên
hệ lẫn nhau giữa tính nguy hiểm cho xã hội
và tính bị cấm (tính trái pháp luật hình sự)
của hành vi (hiện nay là ở Khoản 1 Điều 8
BLHS), nhà làm luật cũng không thể loại trừ
được hoàn toàn sự khác nhau giữa chúng11.
Khi thể chế hoá “những hành vi tuy có dấu
1 1 Xem: Kudrjavsev V.H., Những cơ sở lý luận của
định tội danh, Mátxcơva, 1963, tr. 89 (Tiếng Nga).
hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không
phải là tội phạm và được xử lý bằng các
biện pháp khác” và “những trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự”, như đã rõ, theo
các mục đích và (hoặc) theo các kết quả,
cũng không phải là các hành vi nguy hiểm
cho xã hội (Khoản 2 Điều 8, các điều từ Điều
20 đến Điều 26 BLHS), đạo luật đưa ra suy
đoán bác bỏ: nếu có các yếu tố đã chỉ ra
thì hành vi cũng không có tính nguy hiểm
cho xã hội. Do đó, khi áp dụng pháp luật
hình sự cần phải kiểm tra, trong các tình tiết
thực tế đã được xác định có hay không các
dấu hiệu của hành vi tuy có dấu hiệu của
tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể thì không phải là tội
phạm, và những trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự (những tình tiết loại trừ tính
tội phạm của hành vi). Hay nói cách khác,
tính nguy hiểm cho xã hội có trong hành vi
đã thực hiện hay không (ở nghĩa nói chung
hoặc ở nghĩa pháp lý hình sự).
Như vậy, chỉ có hành vi của con người
hoặc của pháp nhân thương mại có các dấu
hiệu của một tội phạm nào đó, tức là được
đạo luật hình sự quy định mới được và đòi
hỏi phải được đánh giá về mặt pháp lý hình
sự. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà ở
Điều 143 BLTTHS nước ta quy định rằng,
“chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có
dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu
tội phạm dựa trên những căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại
chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà
nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự thú”.
Do đó, hoạt động bảo vệ pháp luật (mà
áP DỤNg PHáP LUẬt HÌNH SỰ: NHỮNg VẤN đỀ LÝ LUẬN (kỲ 1)
12 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
ở đây là hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự), xét về mặt lý luận và về quyền năng,
được bắt đầu từ khi hành vi vi phạm pháp
luật đang hoặc đã được thực hiện, còn xét về
mặt thực tế, được bắt đầu từ khi các nguồn
thông tin thu nhận được làm phát sinh giả
định có căn cứ về vi phạm pháp luật đã
được thực hiện, và được thực hiện chính để
thuyết phục về tính đúng đắn của giả định
đó hoặc bác bỏ giả định đó với tư cách là giả
định không có căn cứ.
1.3. Các chức năng của áp dụng pháp
luật hình sự
Việc đánh giá hành vi về mặt pháp lý
hình sự có thể là khẳng định (hành vi là tội
phạm và), hoặc phủ định (hành vi không
phải là tội phạm và). Do đó, trong mọi
trường hợp, việc đánh giá hành vi về mặt
pháp lý hình sự luôn thể hiện chức năng
xác nhận của áp dụng pháp luật hình sự
mà thiếu nó, áp dụng pháp luật hình sự sẽ
trừu tượng, không có đối tượng. Điều đó
có nghĩa rằng, chức năng xác nhận của áp
dụng pháp luật thể hiện trong kết luận mang
tính đánh giá hành vi đã thực hiện về mặt pháp
lý hình sự, tức là về tính quy định trước (hoặc
tính không quy định trước) của các tình tiết
thực tế đã được quy định trong quy phạm
pháp luật hình sự tương ứng.
Tuy vậy, áp dụng pháp luật hình sự
không chỉ thể hiện trong kết luận về tính
quy định trước (hoặc tính không quy định
trước) của các tình tiết thực tế đã được
quy định trong quy phạm pháp luật hình
sự tương ứng. Điều đó là rất quan trọng
nhưng chưa đủ để đưa các quy định của
pháp luật vào điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Việc đánh giá về mặt pháp lý hình sự
đối với hành vi đã được thực hiện của con
người hoặc của pháp nhân thương mại là
cần thiết để truyền thêm chức năng tổ chức
cho áp dụng pháp luật hình sự mà thiếu nó,
áp dụng pháp luật hình sự sẽ không có kết
quả.
Chức năng tổ chức của áp dụng pháp
luật hình sự được thể hiện trong dấu hiệu
loại thứ hai của nó – trong kết luận về việc
xác định (hoặc không xác định) biện pháp mang
tính chất pháp lý hình sự. Như đã nói, các quy
phạm pháp luật hình sự thuộc loại các quy
phạm không thể được thực hiện bởi chính
những người tiếp nhận chúng. Điều đó
có nghĩa rằng, để tổ chức hành vi của mọi
người không thể thiếu việc giao các nghĩa
vụ pháp lý và giành cho các chủ thể tương
ứng các quyền chủ thể được quy định trong
chế tài của quy phạm pháp luật hình sự,
hoặc khước từ việc giao cho họ các nghĩa
vụ pháp lý, tức là cần phải đưa ra các quyết
định cụ thể mang tính cá biệt. Ví dụ, ngay
cả người đã thực hiện tội phạm, tự nguyện
trình diện để chịu sự trừng phạt, nhưng
không có bản án hoặc quyết định khác của
Toà án thì cơ quan quản lý trại giam cũng
không có quyền cách ly người đó khỏi xã
hội. Do vậy, không phải từ lâu đã lưu ý rằng,
“nếu như các đạo luật tự áp dụng được, thì
lúc đó các Toà án sẽ là không cần thiết”12.
Điều đó có nghĩa rằng, áp dụng pháp luật
hình sự là hoạt động điều chỉnh pháp luật
cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội.
Hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đó do
cơ quan nhà nước, những người có chức vụ,
quyền hạn có thẩm quyền thực hiện.
Do đó, mục tiêu của áp dụng pháp luật
hình sự trước hết là “tạo điều kiện cho việc
đưa các quy phạm hướng đến các chủ thể
khác của pháp luật vào đời sống”132. Khi
áp dụng pháp luật hình sự, chẳng hạn, khi
đưa ra bản án, là mỗi lần Toà án hỗ trợ cho
việc thực hiện quyền của nhà nước trong
việc tác động đến người phạm tội, pháp
nhân thương mại phạm tội, trong đó có việc
quyết định hình phạt, và bằng cách đó giao
cho các chủ thể tương ứng các nghĩa vụ và
giành cho họ các quyền chủ thể nhất định.
12 Mác.C., Ăngghen Ph., Toàn tập, tập 1, tr. 67
(Tiếng Nga).
13 Lazarev V.V., Áp dụng pháp luật Xô viết, Kazan’
1972, tr.30 (Tiếng Nga).
VÕ KHÁNH VINH
13Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
Đồng thời kết quả nói trên - hậu quả
pháp lý hình sự đã được làm sáng tỏ chỉ
là của tính quy định trước của các tình tiết
thực tế đã được quy định trong quy phạm
tương ứng của pháp luật hình sự. Còn nếu
như hoạt động áp dụng pháp luật đưa ra
kết luận về tính không quy định trước của
các tình tiết đã được xác định trong quy
phạm pháp luật hình sự, thì lúc đó các nghĩa
vụ pháp lý không giao cho bất kỳ ai và các
quyền cũng không giành cho bất kỳ ai.
Thực chất là ở chỗ, ngoài mục tiêu đã nói
ở trên, áp dụng pháp luật hình sự còn có thể
theo đuổi một mục tiêu nữa là làm sáng tỏ
việc không có cơ sở để thi hành (thực hiện)
pháp luật hình sự. Mục tiêu này đạt được
khi làm sáng tỏ được trong các tình tiết thực
tế đã được xác định sự hiện có hành vi tuy
có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất
nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì
không phải là tội phạm, hoặc những trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (loại trừ
tính tội phạm của hành vi hoặc không có
tính nguy hiểm cho xã hội), hoặc không có
tất cả các dấu hiệu cần thiết của cấu thành
tội phạm (tính không bị pháp luật hình sự
cấm). Việc áp dụng pháp luật hình sự trong
các trường hợp đó là cần thiết, bởi một số
hành vi, về mặt hình thức, tuy có các dấu
hiệu của tội phạm (như đã nói ở Khoản 2
Điều 8 BLHS), nhưng tính chất không phải
tội phạm của chúng không phải khi nào
cũng rõ ràng, còn một số hành vi khác bao
gồm một bộ phận các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm mà bộ phận đó là điều kiện
đủ để làm xuất hiện sự cần thiết có được sự
đánh giá tổng thể về mặt pháp lý hình sự
đối với các dấu hiệu đó.
Những điều trình bày trên làm cơ sở cho
việc chỉ ra tính không đầy đủ của một số
quan điểm về áp dụng pháp luật hình sự
hiện có trong sách báo pháp lý.
Thứ nhất, không đúng khi nói rằng, áp
dụng pháp luật hình sự được tiến hành
“trong trường hợp khi công dân vi phạm điều
cấm hình sự”141. Rõ ràng là quan điểm như
vậy cho rằng, quy phạm pháp luật được
áp dụng khi “vi phạm pháp luật đã được
thực hiện và cần phải xác định biện pháp
xử phạt tương ứng (ví dụ, đưa ra bản án)
đối với người vi phạm”152. Theo quan điểm
này, hoàn toàn vẫn chưa rõ, trước khi áp
dụng pháp luật, vi phạm pháp luật đã được
thực hiện hay chưa, và chẳng hạn, điều cấm
tương ứng đã bị vi phạm hay chưa, và điều
đó cần phải được xác định trong kết quả
của áp dụng pháp luật.
Thứ hai, hoàn toàn không đầy đủ quan
điểm cho rằng, nhu cầu áp dụng quy phạm
pháp luật nảy sinh “khi cần đưa ra đánh giá
pháp lý đối với hành vi của một người cụ
thể và xác định chế tài khi xác định sự việc
vi phạm pháp luật”316. Việc đánh giá hành
vi về mặt pháp luật có thể dẫn đến việc xác
định tính hợp pháp của hành vi của con
người, và do vậy, kết quả dẫn đến là không
có khả năng xác định biện pháp đã được
quy định trong chế tài.
Thứ ba, không đúng khi cho rằng, khi
xác định được các điều kiện chứng minh về
hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng
tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể thì không phải là tội phạm, hoặc về khả
năng miễn trách nhiệm hình sự và hình
phạt đã được chỉ ra trong đạo luật hình
sự, thì “các cơ quan xét xử có thể không áp
dụng các quy phạm tương ứng của pháp
luật hình sự”174. Nhưng khi coi hành vi tuy
có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất
nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì
không phải là tội phạm và khi miễn trách
nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, thì
14 Luật hình sự Nga, Hai tập, tập 1, Mátxcơva, 1999,
tr.317 (Tiếng Nga).
15 Alekseev S.S.chủ biên, Các cơ sở của lý luận nhà
nước và pháp luật, Mátxcơva, 1971, tr.313 (Tiếng Nga).
16 Aleksandrov N.G.chủ biên, Lý luận nhà nước và
pháp luật, Mátxcơva, 1974, tr.563 (Tiếng Nga).
17 Alekseev S.S., Những vấn đề của lý luận pháp
luật, Sverdlovsk, 1973, tập 2, tr.217 (Tiếng Nga).
áP DỤNg PHáP LUẬt HÌNH SỰ: NHỮNg VẤN đỀ LÝ LUẬN (kỲ 1)
14 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
không phải không nói về không áp dụng
pháp luật hình sự, mà chính là nói về áp
dụng pháp luật hình sự181, bởi vì, tất cả các
hoạt động nói trên đều phải dựa trên các
quy định của pháp luật hình sự.
Để coi hành vi tuy có dấu hiệu của tội
phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội không đáng kể không phải là tội phạm,
cần phải đưa ra sự đánh giá về mặt pháp lý
hình sự đối với các tình tiết thực tế đã được
xác định mà kết quả của nó là không có khả
năng xác định điều được quy định trong
chế tài của quy phạm pháp luật hình sự.
Hoạt động như vậy, tất nhiên, là áp dụng
pháp luật hình sự.
Để miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức
hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn chấp
hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt,
án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện,
hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù, xoá án tích, áp dụng
các biện pháp tư pháp, trước hết, cũng cần
phải đưa ra sự đánh giá về mặt pháp lý hình
sự đối với các tình tiết thực tế đã được xác
định. Hơn nữa, chính việc miễn trách nhiệm
hình sự hoặc miễn hình phạt hay miễn áp
dụng các biện pháp khác mang tính chất
pháp lý hình sự có nghĩa là dành cho người
thực hiện tội phạm các quyền chủ thể tương
ứng là không bị quyết định hình phạt hoặc
không (hoặc không tiếp tục) phải chấp hành
hình phạt và giao các nghĩa vụ pháp lý cho
nhà nước là không được làm ngược lại. Nói
cách khác, không thể không coi việc giao
các nghĩa vụ pháp lý cho nhà nước không
được làm ngược lại là bộ phận cấu thành
của áp dụng pháp luật hình sự192.
Trên cơ sở những điều đã trình bày ở
trên, có thể hiểu áp dụng pháp luật hình sự là
18 Xem: Galkin V.M., Áp dụng giả định của quy
phạm pháp luật hình sự, Mátxcơva,1979, tr.156
(Tiếng Nga).
19 Blagov E.V., Áp dụng pháp luật hình sự: Lý luận và
thực tiễn, Sankt-Peterburg, 2004, tr.73 (Tiếng Nga).
hoạt động đưa ra quyết định về tính quy định
trước (hoặc tính không quy định trước) của các
tình tiết thực tế đã được xác định trong quy
phạm pháp luật hình sự tương ứng và về việc
xác định (hoặc không xác định) biện pháp mang
tính chất pháp lý hình sự được quy định trong
quy phạm đó. Do đó, tất cả các hoạt động
đưa ra các quyết định khác không nên gọi
là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và
các quyết định khác đó không được gọi là
các văn bản áp dụng pháp luật hình sự.
Tất cả những điều nói trên chứng minh
một cách rõ ràng rằng, áp dụng pháp luật
hình sự và thi hành (thực hiện) pháp luật
hình sự, về mặt hiện thực, là các hiện tượng
không đồng nhất với nhau. Dựa trên những
điều đã trình bày ở trên cho thấy mối tương
quan của các hiện tượng đó được thể hiện ở
ba yếu tố sau đây:
Một là, nếu như trong áp dụng pháp luật
hình sự làm sáng tỏ được hành vi tuy có dấu
hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không
phải là tội phạm, hoặc hành vi đã được thực
hiện không có cho dù một dấu hiệu nào đó
của cấu thành tội phạm, thì đó là cái “phanh
hãm” việc thi hành (thực hiện) pháp luật
hình sự. Chính việc áp dụng pháp luật hình
sự xác định trên thực tế các hành vi nguy
hiểm như thế nào cho cá nhân, xã hội hoặc
nhà nước là tội phạm và xác định các loại
hình phạt và các biện pháp khác mang tính
chất pháp lý hình sự đối với việc thực hiện
các tội phạm (Điều 2 BLHS).
Hai là, khi áp dụng pháp luật hình sự
làm sáng tỏ được sự hiện có những trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (từ Điều
20 đến Điều 26 BLHS), có nghĩa rằng, việc
thi hành (thực hiện) quy phạm pháp luật
hình sự tương ứng đã được diễn ra. Trong
trường hợp như vậy, con người đã thực hiện
hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp
luật hình sự khi ở trong sự kiện bất ngờ,
tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự, trạng thái phòng vệ chính đáng,
tình thế cấp thiết, gây thiệt hại trong khi
VÕ KHÁNH VINH
15Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
bắt giữ người phạm tội, rủi ro trong nghiên
cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, thi hành mệnh lệnh
của người chỉ huy hoặc của cấp trên.
Trong tất cả các tình huống còn lại, việc thi
hành (thực hiện) pháp luật hình sự chỉ diễn
ra sau khi đã áp dụng nó và thông thường
trong phạm vi của luật thi hành án hình sự.
Từ đây cho thấy, trong một số trường hợp,
áp dụng pháp luật hình sự là điều kiện loại
trừ việc thi hành (thực hiện) pháp luật hình
sự. Trong một số trường hợp khác, áp dụng
pháp luật hình sự là hậu quả của việc thi
hành (thực hiện) pháp luật hình sự. Trong
trường hợp thứ ba, áp dụng pháp luật hình
sự là tiền đề, là hình thức (là hình thức đặc
biệt, đặc thù) hoặc một giai đoạn đặc biệt của
thi hành (thực hiện) pháp luật hình sự201.
(còn tiếp)
tài LiỆU tHaM kHẢO
1. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, 2017.
2. Giới thiệu những nội dung mới của Bộ luật
Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
(so sánh với Bộ luật Hình sự năm 1999 được sử đổi,
bổ sung năm 2009), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2017.
3. Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa đổi, bổ sung
năm 2017, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 2017.
4. Võ Khánh Vinh chủ biên, Giáo trình Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2016.
5. Võ Khánh Vinh, Lý luận chung về định tội
danh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013.
6. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2014.
7. Võ Khánh Vinh, Tập bài giảng Xã hội học
luật hình sự, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020.
8. Lê Cảm (chủ biên), Giáo trình luật hình sự
(Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2001.
20 Xem: Alekseev S.S., Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong
nhà nước xã hội chủ nghĩa, Mátxcơva,1966, tr.94 (Tiếng
Nga); Lazarev V.V., Áp dụng pháp luật Xô viết,
Kazan’, 1972, tr.30 (Tiếng Nga) và các công trình khác.
9. Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên), Giáo trình
luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2020.
10. Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên), Bình luận
khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi,
bổ sung năm 2017 (Phần chung), Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, 2017.
11. Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên), Trách
nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2001.
12. Lazarev V.V., Áp dụng pháp luật Xô viết,
Kazan, 1972, (Tiếng Nga).
13. Shljapochnikov A.S., Giải thích pháp luật
hình sự Xô viết, Mátxcơva 1960, (Tiếng Nga).
14. Brajnin Ja.M., Đạo luật hình sự và áp dụng
đạo luật hình sự, Mátxcơva, 1967, (Tiếng Nga).
15. Beljaev V.G., Áp dụng đạo luật hình sự,
Volgograd, 1998, (Tiếng Nga).
16. Naumov A.V., Áp dụng các quy phạm
pháp luật hình sự, Mátxcơva, 1973 (Tiếng Nga).
17. Mác.C., Ăngghen Ph., Toàn tập, tập1,
(Tiếng Nga).
18. Galkin V.M., Áp dụng giả định của quy
phạm pháp luật hình sự, Mátxcơva,1979, (Tiếng Nga).
19. Blagov E.V., Áp dụng pháp luật hình sự: lý
luận và thực tiễn, Sankt-Peterburg, 2004, (Tiếng Nga).
20. Nedbajlo P.E., Áp dụng các quy phạm
pháp luật Xô viết, Mátxcơva, 1960, (Tiếng Nga).
21. Jel’kind P.S., Giải thích và áp dụng các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự, Mátxcơva, 1967,
(Tiếng Nga).
22. Kudrjavcev V.N., Lý luận định tội danh,
Mátxcơva, 2001, (Tiếng Nga).
23. Galkin V.M., Tương quan của các quy
phạm pháp luật hình sự với các quy phạm của các
ngành pháp luật khác, Mátxcơva,1979, (tiếng Nga).
24. Kuznecov I.N.,Samoshhenko I.S., Áp
dụng pháp luật trong nhà nước Xô viết, Mátxcơva,
1985, (Tiếng Nga).
25. Djurjagin I.Ja., Áp dụng các quy phạm
pháp luật Xô viết, Sverdlovsk,1973, (Tiếng Nga).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_phap_luat_hinh_su_nhung_van_de_ly_luan_ky_1.pdf