Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương

Khi phát sinh khiếu nại, cấp uỷ, chính quyền, các ban ngành đoàn thể nhiều nơi chưa thực sự tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời, còn để kéo dài. Sự thiếu quan tâm chỉ đạo trong tổng kết để đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, làm cơ sở để ban hành những chính sách kịp thời, phù hợp và thiết thực nhằm phục vụ tốt hơn cho quá trình quản lý đất đai ở tại địa phương. Việc buông lỏng công tác thanh tra, kiểm tra công tác quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại về đất đai cũng như chưa có cơ chế cụ thể xử lý đối với cán bộ, công chức; người có chức trách nhiệm vụ thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật trong quá trình tham gia giải quyết khiếu nại về đất đai. Việc xây dựng và ban hành những văn bản quy phạm pháp luật; áp dụng pháp luật còn có những mâu thuẫn, kẽ hở, bất cập Thực trạng này nói lên rằng, để đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nói chung, ở Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương nói riêng phát huy hiệu lực, hiệu quả, đúng quy định của pháp luật thì việc cần phải nhanh chóng chấn chỉnh, khắc phục những khiếm khuyết như thời gian đã qua là một yêu cầu cấp bách và phải được xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa phương trong quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai.

doc129 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1905 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khiếu nại, người giải quyết khiếu nại, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp với các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết khiếu nại của công dân, cũng như các quy định về bảo đảm thi hành quyết định giải quyết khiếu nại. Trước hết phải rà soát các chủ trương, chính sách, pháp luật, nhất là về đất đai, nhà ở (khiếu nại liên quan đến lĩnh vực này đang chiếm tỷ lệ cao) để kịp thời sửa đổi những nội dung bất cập, bổ sung những nội dung còn thiếu, chưa cụ thể, rõ ràng, loại bỏ những văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp, ban hành văn bản quy phạm mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh chính sách về thu hồi đất, bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho người có đất bị thu hồi theo hướng vừa bảo vệ lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp được giao đất, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi để người đó tự giác chấp hành quyết định thu hồi đất, hạn chế khiếu kiện, bảo đảm ổn định cuộc sống của người dân sau thu hồi đất, góp phần ổn định chính trị, xã hội. Cần xây dựng các văn bản quy phạm thống nhất về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho người có đất bị thu hồi để nhà nước và công dân thuận lợi trong việc kiểm tra, giám sát đối với lĩnh vực này, không tạo ra sự khác nhau giữa các dự án có cùng tính chất vì hiện nay quy định về các nội dung trên nằm rải rác trong từng văn bản pháp luật và trong nhiều văn bản pháp luật, rất hạn chế cho việc vận dụng. Thực tế trong những năm qua cho thấy khiếu nại liên quan đến đất đai chiếm tỷ lệ rất cao, trong đó chủ yếu là khiếu nại về bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng và đây thường là những khiếu nại đông người, phức tạp, kéo dài. Trước tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện chính sách pháp luật về lĩnh vực này sao cho phù hợp với các vấn đề: Giá bồi thường; chính sách để người dân ổn định, bảo đảm được cuộc sống sau thu hồi đất như đào tạo nghề, ưu tiên nhận con em gia đình có đất thu hồi vào làm việc trong các dự án, đưa được nhiều lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, dịch vụ hoặc đi lập nghiệp nơi khác…v.v để hạn chế thấp nhất việc khiếu nại. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý về tiếp dân và giải quyết khiếu nại của dân theo hướng cụ thể hoá và đồng bộ hoá các quy định đó. Trong đó, cần đặc biệt chú ý đến các quy định về triển khai và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực thi công vụ và giải quyết khiếu nại của công dân. Cần phải luật hoá các quy định về tiếp dân và giải quyết khiếu nại của dân một cách toàn diện hơn như là một nhiệm vụ khách quan của thời kỳ đổi mới. Sớm hoàn thiện đề án đổi mới công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại của công dân. Tập trung nghiên cứu đề án tổ chức cơ quan tài phán hành chính để sớm cho ra đời cơ quan này nhằm giải quyết các khiếu nại của dân đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính, giảm tải cho các cơ quan hành chính. Hoạt động của cơ quan tài phán hành chính cần phải tuân theo một quy trình tố tụng chặt chẽ theo cơ chế hoạt động độc lập để đảm bảo tính khách quan, chính xác trong phán quyết. Đồng thời nghiên cứu sửa đổi toàn diện Luật khiếu nại, tố cáo hiện nay theo chỉ đạo của Quốc Hội là tách Luật khiếu nại, tố cáo thành hai luật là Luật khiếu nại và giải quyết khiếu nại, Luật tố cáo và giải quyết tố cáo để nâng cao hiệu quả và tạo sự chuyển biến cơ bản công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại trong những năm tới. 3.2.2. Giải pháp cụ thể 3.2.2.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về pháp luật nói chung, pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng Để tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay thì yêu cầu đặt ra là phải làm thế nào cho mọi người đều hiểu rõ những quy định của pháp luật nói chung, các quy định của pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng. Muốn vậy chúng ta phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng cho cán bộ và nhân dân để đảm bảo tính thống nhất trong nhận thức và thực hiện pháp luật. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm mục đích nâng cao hiểu biết về pháp luật, ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước nói riêng và mọi tầng lớp nhân dân nói chung, xây dựng được ý thức chấp hành pháp luật của mọi người dân và của toàn xã hội. Trong những năm vừa qua, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai đã thu hút được nhiều tổ chức, cá nhân tham gia. Các cơ quan thông tấn, báo chí đã có đóng góp rất lớn trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai trên cả phương tiện báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử. Hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai ngày càng đa dạng hơn. Các hình thức như tờ rơi, sách hỏi đáp, sổ tay quản lý, trang thông tin điện tử, diễn đàn, giao lưu trực tuyến, thi tìm hiểu pháp luật, đối thoại, giải đáp pháp luật,... đều đã được các cơ quan ở Trung ương và địa phương áp dụng. Trình độ, kiến thức về pháp luật đất đai của các cán bộ quản lý, tổ chức, công dân đã được nâng dần từng bước theo hướng tích cực. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, những bất cập, hạn chế của công tác giải quyết khiếu nại về đất đai ở nước ta thời gian gần đây còn diễn ra phổ biến mà đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém, lỏng lẻo trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, theo đánh giá của Đảng ta là bởi chưa làm tốt việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có pháp luật đất đai. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai chưa được triển khai đồng đều ở các địa phương. Hiện nay, còn nhiều địa phương chưa quan tâm tới công tác này. Hiệu quả triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai chưa thật cao. Nhận thức về pháp luật thiếu toàn diện, nhất là nhận thức về sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của cơ quan quản lý đất đai. Để khắc phục những hạn chế trên, nhằm nâng cao nhận thức đúng đắn, đầy đủ các quy định của pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo cho mọi tầng lớp nhân dân, đòi hỏi phải giải thích tất cả các quy định trong các văn bản pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo và phải giải thích trước khi tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó, chứ không chỉ giải thích khi nảy sinh vướng mắc, tranh chấp, khiếu nại, tố cáo… trong quá trình thực hiện. Trước tình hình thực tế trên, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII xác định cần: “Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và công bằng” [14, tr.57-58], đến Đại hội Đảng khoá IX và Hội nghị Trung ương 7 khoá IX Đảng tiếp tục khẳng định: “Chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành luật một cách nghiêm minh” [18, tr.329- 330]; “thường xuyên quán triệt trong Đảng và nhân dân để mọi người, mọi tổ chức tự giác chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về đất đai”[19, tr.79] Vì vậy, để tăng cường hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật đối với giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh Hải Dương, đồng thời để không ngừng nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật về đất đai của mọi cơ quan, tổ chức và công dân, trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải sinh động, đa dạng; phải tạo được dư luận tốt và tạo được sự chú ý của mọi đối tượng và phải phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với các ngành, các cấp, nhất là vai trò của Mặt trận tổ quốc và tổ chức thành viên. Nội dung và hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải thật giản dị, gần gũi, dễ nhớ, dễ hiểu và phải hết sức thiết thực, đáp ứng đúng yêu cầu tìm hiểu của người dân. Nhất là những vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính về chuyển quyền sử dụng đất; kê khai đăng ký quyền sử dụng đất; quyền và nghĩa vụ pháp lý của người sử dụng đất; về giải quyết khiếu nại, tố cáo và về xử phạt vi phạm hành chính, hình sự trong lĩnh vực đất đai...v.v Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai sẽ có kết quả tốt nếu như việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo được tiến hành thường xuyên, đầy đủ, có chất lượng, liên tục với việc đầu tư kinh phí thoả đáng và sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành nhằm tạo điều kiện để mọi người dân có cơ hội hiểu biết pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo đầy đủ, toàn diện, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của họ. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật qua nhiều phương tiện, cách thức khác nhau, đặc biệt chú trọng việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nội dung, tinh thần của các văn bản pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo mới ban hành, vai trò của chính sách đất đai và những nội dung cụ thể, chế định cụ thể của Luật đất đai 2003 cũng như Luật khiếu nại, tố cáo 1998 sửa đổi 2004 và 2005. Riêng đối với cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cần thiết lập đường dây nóng để giải đáp các thông tin về Luật đất đai, Luật khiếu nại, tố cáo đối với mọi người dân và tổ chức. Đồng thời, cần tổ chức thường xuyên các đợt tập huấn cho cán bộ, các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ như cán bộ ngành Tài Nguyên& Môi trường, Thanh tra, bộ phận tiếp dân. Ngoài việc nâng cao kiến thức pháp luật cho các cán bộ này còn phải nâng cao nhận thức pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo cho toàn thể nhân dân trong tỉnh, theo tinh thần “không ai không hiểu biết pháp luật đất đai, khiếu nại về đất đai”. Tuy nhiên việc phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo trước hết phải nhằm vào đội ngũ cán bộ công chức ngành Tài Nguyên& Môi trường, Thanh tra, bộ phận tiếp dân - những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai. Để công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo đạt kết quả tốt cần sử dụng kết hợp nhiều hình thức và biện pháp đồng bộ, phải được tiến hành trên nhiều phương diện, bằng nhiều phương pháp, đối với nhiều đối tượng khác nhau trong quản lý nhà nước về đất đai, để mọi người, mọi tổ chức tự giác chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về đất đai, trong đó cần chú trọng hơn một số biện pháp cơ bản sau: Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo từ tỉnh đến huyện và đến các xã, phường, thị trấn. Trước hết phải củng cố, hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo. Kiện toàn lực lượng cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo trực thuộc Thanh tra Tỉnh, Thanh tra huyện, Sở Tài Nguyên& Môi trường, Phòng Tài Nguyên& Môi trường. Đội ngũ này phải đủ về số lượng và có chất lượng tốt, đồng thời phải am hiểu tâm tư nguyện vọng thiết tha của nhân dân đối với pháp luật đất đai, khiếu nại về đất đai. Thứ hai, động viên, khuyến khích và tổ chức cho quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động pháp luật đất đai thực tiễn. Nhân dân sẽ hiểu biết pháp luật đất đai một cách sâu sắc đầy đủ hơn khi họ tự mình vận dụng nó. Vì vậy, cần phải mở rộng dân chủ, công khai trong hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và giám sát kiểm tra việc thực hiện pháp luật theo nguyên tắc: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, tạo điều kiện để nhân dân tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến vào các văn bản pháp luật đất đai nhất là các văn bản quy phạm pháp luật đất đai do các cơ quan, ban ngành trong tỉnh ban hành nhằm hướng dẫn tổ chức thực hiện thống nhất pháp luật Luật đất đai trong toàn tỉnh. Tổ chức cho nhân dân tham gia vào các hoạt động thực hiện, áp dụng pháp luật đất đai, khiếu nại về đất đai, có một cơ chế hợp lý để người dân sử dụng pháp luật đất đai để bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình và đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm pháp luật đất đai. Thứ ba, tổ chức triển khai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nội dung các văn bản pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo tới mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời phải đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, với các hình thức phong phú, thiết thực, hiệu quả phù hợp với đặc điểm và trình độ dân trí, tình hình thực tế ở Hải Dương, tăng thêm chiều sâu của sự chuyển tải, như các buổi nói chuyện chuyên đề, hỏi- đáp pháp luật đất đai, khiếu nại về đất đai, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật đất đai…. Sử dụng triệt để các phương tiện thông tin đại chúng vào công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo. Tiếp tục cải tiến làm phong phú hơn các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo: phương tiện truyền thanh, truyền hình, các bài báo, ấn phẩm, trên panô, áp phích cơ động… mở các chuyên trang, chuyên mục trên báo, đài, bản tin nội bộ, thông qua đội ngũ báo cáo viên... Tạo điều kiện cho người tham gia khiếu nại, tố cáo có sự hiểu biết nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh trường hợp đi khiếu kiện vì thiếu hiểu biết. Thông qua phương tiện truyền thanh, truyền hình thì các quy định của pháp luật đất đai sẽ đến với người dân nhanh chóng hơn, nhất là ở khu vực nông thôn như tỉnh Hải Dương. Đặt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo thành một nội dung quan trọng trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung. Thứ tư, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn, dịch vụ pháp lý, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, đoàn thể quần chúng, trung tâm trợ giúp pháp lý, văn phòng luật sư, đặc biệt là tư vấn pháp luật về đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo. Vì Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng nên đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng có một vị trí cực kỳ quan trọng. Chính vì vậy, hoạt động tư vấn và dịch vụ pháp lý cần được tổ chức sắp xếp lại, đổi mới phương thức hoạt động, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu và phục vụ có hiệu quả hơn những đòi hỏi của xã hội như giới thiệu các văn bản pháp luật mới về đất đai, các quy định mới về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai. Thứ năm, sử dụng có hiệu quả các tủ sách pháp luật ở các xã, phường, thị trấn. Tủ sách pháp luật phục vụ cho mọi nhà, phục vụ thuận lợi cho đông đảo quần chúng nhân dân. Muốn vậy, các địa phương phải thường xuyên cập nhật những văn bản pháp luật về đất đai để nhân dân có thể tự mình nghiên cứu tại đây. Thường xuyên, liên tục đưa báo chí đến các trung tâm văn hoá cơ sở, chú ý đối với các vùng sâu, vùng xa. Đề cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật ở từng địa phương cũng như trên phạm vi toàn tỉnh trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải gắn trực tiếp vào hoạt động giải quyết khiếu nại về đất đai, coi đây là biện pháp hết sức hiệu quả. Như vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo sẽ đạt được kết quả cao nếu mỗi đơn vị, mỗi ngành, mỗi cấp có sự quan tâm thường xuyên, chỉ đạo sát sao và có sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, các ngành, các cấp nhất là với các cơ quan chuyên môn cùng tiến hành đồng bộ và có chất lượng. Kinh nghiệm cho thấy, ở đâu và khi nào có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể thì ở đó các văn bản pháp luật đất đai được phổ biến kịp thời, ý thức pháp luật về đất đai của nhân dân được nâng lên, việc chấp hành pháp luật của Nhà nước và đường lối, chính sách của Đảng về đất đai tốt hơn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một Nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một Nhà nước làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” [34, tr.17]. 3.2.2.2. Nâng cao năng lực quản lý đất đai và năng lực áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai cho cán bộ, công chức hành chính Để nâng cao năng lực quản lý đất đai và năng lực áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai cho cán bộ, công chức hành chính thì công tác cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng và mang tính quyết định. Lênin đã khẳng định vai trò của cán bộ như sau: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [29, tr.473]. Qua thực tiễn cách mạng của mình, các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế đều khẳng định vai trò quan trọng của cán bộ. Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [35, tr.269]. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng, mỗi công việc lại đòi hỏi một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, phẩm chất, năng lực tương ứng. Hiện nay ở nước ta, việc không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ, công chức hành chính nói chung và cán bộ, công chức làm công tác áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như phẩm chất, năng lực của cán bộ là yếu tố quyết định lớn đến tiến độ và chất lượng của văn bản pháp luật đất đai, đến việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó, đến hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. Qua thực tiễn giải quyết khiếu nại về đất đai, cho thấy khiếu nại về đất đai có thể chia thành nhiều loại. Nhưng trong từng loại, từng dạng khiếu nại thì mỗi việc đều có những tình tiết, diễn biến và mức độ khác nhau, theo đó thì đường lối giải quyết trong từng vụ việc, việc vận dụng chính sách, cách lựa chọn quy phạm áp dụng có thể khác nhau. Do đó mà việc giải quyết đúng, sai, phù hợp hay không phù hợp pháp luật là phụ thuộc rất lớn vào năng lực của người tham gia giải quyết khiếu nại. Nếu họ có trình độ chuyên môn cao, năng lực quản lý giỏi, phẩm chất đạo đức tốt thì chất lượng của các văn bản pháp luật đất đai do họ ban hành hoặc tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành sẽ sát thực tế, tính khả thi cao; việc tổ chức thực hiện các văn bản của cấp trên sẽ nhanh chóng, kịp thời và nghiêm túc; bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Ngược lại, sự hạn chế về trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, sự yếu kém về phẩm chất có thể dẫn đến sai lầm trong việc ban hành văn bản pháp luật, đến việc áp dụng pháp luật sẽ thiếu nghiêm minh ngay cả khi hệ thống pháp luật đã được quy định khá hoàn thiện. Thực tế cho thấy, công tác xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đất đai thường bị chậm trễ; kế hoạch xây dựng, tổ chức triển khai không thực hiện được; chưa phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn, giải quyết khiếu nại không thấu tình, đạt lý điều này có nguyên nhân từ sự yếu kém của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai. Vì vậy, việc nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và cán bộ, công chức làm công tác áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai là hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức này cần chú ý một cách toàn diện các yếu tố khác nhau như tổ chức, nhân sự, cơ chế, điều kiện vật chất kỹ thuật...; có sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác tổ chức và cán bộ; tạo mọi điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. Trong những năm tới, để nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai, Hải Dương cần phải quán triệt chủ trương: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, và năng lực thực hiện. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý..., trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt..., coi trọng cả đức và tài, đức là gốc” [16, tr.145-146]. Cụ thể: Một là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về đất đai và áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. Do tính chất phức tạp của lĩnh vực đất đai, đội ngũ cán bộ, công chức này cần phải thật sự tâm huyết, gắn bó với công việc và phải được trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là phải có trình độ chuyên môn Đại học Luật; phải không chỉ chuyên sâu một lĩnh vực về đất đai, mà còn phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác như kiến thức pháp luật nói chung, tài chính, ngân hàng, thuế, xây dựng... Hai là, khắc phục kịp thời những hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, cũng như áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng áp dụng pháp luật cho cán bộ, công chức của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có ý thức pháp luật cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý và để góp phần tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội. Đặc biệt đối với cán bộ lãnh đạo, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Riêng về cán bộ, ai lãnh đạo trong ngành nào thì phải biết chuyên môn ngành ấy”[36, tr.47]. Như vậy, đối với những người đứng đầu cơ quan Tài nguyên& Môi trường từng cấp thì phải là người có năng lực thực chất trong chỉ đạo, quản lý, điều hành. Am hiểu sâu rộng về kiến thức pháp luật và nhận thức đúng đắn về vai trò của cơ quan chuyên môn. Nên tránh tình trạng bố trí trước, đào tạo sau, đề bạt vào cương vị lãnh đạo do nể nang, tình cảm hoặc chắp vá. Vì điều này sẽ làm lãng phí cán bộ do không phát huy được khả năng chuyên môn cũng như công tác quản lý, dẫn đến tình trạng không đủ khả năng tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về đất đai, trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. Ba là, người cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại về đất đai phải thực sự gương mẫu, “vừa hồng, vừa chuyên” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Người cán bộ phải đoàn kết, nhất trí, giữ vững đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí, hết lòng, hết dạ phục vụ nhân dân, chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước” [37, tr.248]. Bốn là, để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai, phải tuyển dụng cán bộ đúng theo tiêu chuẩn và yêu cầu nhiệm vụ của các chức danh, phân công, bố trí cán bộ phù hợp với chuyên môn và sở trường, khắc phục tình trạng mà Đảng ta đã chỉ ra: “đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ” [15, tr.22]. Năm là, phải có kế hoạch, phương thức kiểm tra, đánh giá đúng năng lực cán bộ, phân loại trình độ cán bộ để có kế hoạch đào tạo cụ thể, hiệu quả. Kiểm tra thực hiện công việc và nhiệm vụ trong cơ quan; qua đó chính là chúng ta đã kiểm tra, đánh giá được năng lực và trình độ cán bộ. Đảng ta trong tổ chức và hoạt động của mình, luôn luôn coi trọng công tác kiểm tra, coi đó là một nguyên tắc, một mắt khâu quan trọng của quy trình lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng. Đảng thường xuyên quan tâm đến khâu mấu chốt là kiểm tra thực hiện và kiểm tra sự chấp hành; đồng thời xác định kiểm tra là một chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng; lãnh đạo mà buông lỏng việc kiểm tra, thì cũng bằng không, coi như không lãnh đạo. Mạnh dạn sử dụng, đề bạt đội ngũ cán bộ trẻ, có phẩm chất, đạo đức và năng lực, được đào tạo chính quy vào giữ các chức vụ có liên quan đến đất đai. Có quan điểm tích cực trong việc sắp xếp các cán bộ kém năng lực, không đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ được giao; đồng thời xử lý kiên quyết, nghiêm minh những cán bộ có hành vi vi phạm pháp luật, tiếp tay cho vi phạm pháp luật về đất đai. Sáu là, tăng cường đầu tư khoa học công nghệ, điều kiện vật chất cho công tác quản lý đất đai; từng bước hiện đại hoá hệ thống quản lý đất đai bằng công nghệ tin học trên cơ sở xây dựng hệ thống dữ liệu địa chính quốc gia. Hỗ trợ kinh phí, tạo điều kiện về thời gian cho cán bộ theo học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học... để họ khai thác hiệu quả khoa học công nghệ và các thông tin đã được trang bị. 3.2.2.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết khiếu nại, đề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị đối với công tác giải quyết khiếu nại về đất đai là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra đường lối, chủ trương cụ thể trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực đất đai; từ đó Nhà nước thể chế hoá những đường lối, chủ trương đó thành pháp luật, thành những quy định chung thống nhất trên quy mô toàn quốc về quản lý, sử dụng đất đai. Đồng thời, Đảng thường xuyên theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo việc chấp hành đường lối, chủ trương đó; khuyến khích những mặt tốt, tích cực; xử lý, uốn nắn kịp thời những lệch lạc, những vi phạm. Ngoài ra, Đảng còn lãnh đạo bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của các đảng viên trong việc chấp hành pháp luật đất đai, trình tự, thủ tục khiếu nại về đất đai. Như vậy, Đảng lãnh đạo toàn diện nhưng không áp đặt, không bao biện, làm thay chức năng của các cơ quan Nhà nước; đồng thời không coi nhẹ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng với tất cả các cơ quan nhà nước ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, mang tính định hướng, làm cho các cơ quan nhà nước có thể hoạt động độc lập và đạt hiệu quả cao trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, thông qua các hoạt động của các cơ quan nhà nước mà các chủ trương, đường lối của Đảng được thực hiện trong toàn xã hội. Với tư cách là người tổ chức, Đảng không được trực tiếp nắm quyền lực nhà nước, mà “Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua cá nhân Đảng viên, được Đảng giới thiệu, được nhân dân bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan quyền lực nhà nước. Đây là một bộ phận của Đảng, có vị trí pháp luật ở ngay trong cơ cấu quyền lực nhà nước, được quyền trực tiếp sử dụng công cụ của bộ máy nhà nước, chính bộ phận này và thông qua bộ phận này Đảng mới có thể chi phối, điều khiển trực tiếp quyền lực nhà nước một cách hợp pháp. Qua đó, quyền lực chính trị của Đảng và quyền lực Nhà nước mới thống nhất, mới tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân”[21, tr.104]. Thời gian vừa qua, cấp uỷ, chính quyền có lúc, có nơi còn coi nhẹ công tác giải quyết khiếu nại của người sử dụng đất, chưa huy động được vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, chưa phát hiện giải quyết kịp thời các khiếu nại, kiến nghị liên quan đến đất đai, có nơi có biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm, thiếu thống nhất, chỉ tập trung, chú trọng vào vấn đề phát triển kinh tế của địa phương, chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề xã hội phát sinh từ vấn đề thu hồi đất như: tái định cư, đời sống, việc làm, nghề nghiệp…Bên cạnh đó, việc thực hiện không đúng các chính sách, quy định của pháp luật về đất đai và giải quyết chưa phù hợp với chính sách pháp luật các tranh chấp, khiếu nại về đất đai thời gian qua vẫn còn chiếm số lượng nhiều. Các quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật nhưng chậm được thi hành là những nguyên nhân làm cho công tác giải quyết khiếu nại của người sử dụng đất chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Đối với các cấp chính quyền ở Hải Dương, thì việc tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, đề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai có ý nghĩa rất quan trọng, muốn làm được điều này trước hết phải nêu cao vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ, sự quản lý điều hành của các cấp chính quyền. Các cấp uỷ cần có Nghị quyết lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại. Các cấp chính quyền cần có kế hoạch thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, cụ thể để giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại của người sử dụng đất. Thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính nhà nước thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết, các cơ quan nhà nước phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ khách quan, làm rõ nguyên nhân phát sinh khiếu nại, kết luận rõ đúng, sai, đề ra phương án giải quyết phù hợp, có lý, có tình. Như vậy, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng từ tỉnh đến cơ sở trong việc thực hiện chính sách, pháp luật đất đai phải được cụ thể hoá phù hợp với đặc điểm tình hình của các địa phương trong tỉnh bằng các Chỉ thị, Nghị quyết để chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân thực hiện quản lý, sử dụng đất đai theo đúng chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng. Đặc biệt, các chi uỷ, chi bộ, Đảng viên ở từng cơ sở vừa phải nêu cao vai trò gương mẫu của mình, vừa phải phát hiện và đấu tranh kịp thời với những biểu hiện vi phạm pháp luật đất đai. Các cấp, các ngành và mọi người dân trong tỉnh cần tập trung vào việc thực hiện tốt các nghị quyết của Tỉnh uỷ Hải Dương đã đề ra. KẾT LUẬN Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài sản vô cùng quý giá, không thể thay thế được đối với tất cả các quốc gia ở mọi chế độ chính trị. Nó có vị trí và tầm quan trọng vô cùng lớn lao trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của mọi quốc gia, dân tộc. Nhận thức rất rõ vị trí, tầm quan trọng của đất đai nên qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đều có những chủ trương, chính sách nhằm quản lý và sử dụng một cách hiệu quả tài nguyên đất đai, phục vụ một cách tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội đất nước. Để phát huy được vai trò của đất đai trong đời sống thì chúng ta phải tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai mà một trong những nội dung quan trọng của nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai là hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết các khiếu nại, tố cáo về đất đai. Do vậy, áp dụng pháp luật giải quyết tốt các khiếu nại về đất đai góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật nhưng là hình thức có tính chất đặc thù. Tính đặc thù của áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ là nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Điều này cho thấy áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt của cơ quan nhà nước nói chung và của cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, mà biểu hiện rõ nhất là các chủ thể pháp luật khi thực hiện các quy định của pháp luật luôn có sự can thiệp của nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực hiện triệt để, hiệu lực và hiệu quả khi tác động vào các quan hệ của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là việc người có chức trách thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bằng quyền hạn của mình, căn cứ vào quy định của pháp luật ban hành một quyết định hành chính giải quyết các khiếu nại về đất đai nhằm để xác định tính chất đúng, sai của nội dung khiếu nại, yêu cầu giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; buộc bồi thường thiệt hại (nếu có); khẳng định người khiếu nại có quyền khiếu nại tiếp, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án hay không; khôi phục uy tín, danh dự đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Trong những năm qua, nhất là từ khi có Luật đất đai năm 2003 đến nay, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực và dần đi vào nền nếp, giải quyết được một số lượng lớn các vụ việc, chất lượng giải quyết được nâng lên, nhiều “điểm nóng”, nhiều vụ việc phức tạp, gay gắt, kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất đã được khôi phục góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Nguyên nhân cơ bản là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai chưa đầy đủ, còn mâu thuẫn, chồng chéo, chậm được hướng dẫn thi hành và khó áp dụng; sự phức tạp của tình hình khiếu nại về đất đai; công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật còn nhiều bất cập; sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai, pháp luật về khiếu nại, tố cáo, áp dụng pháp luật chưa phù hợp theo quy định của pháp luật, nhiều sai sót trong quy trình xây dựng văn bản, nội dung văn bản và cách thức tổ chức triển khai quyết định. Ngoài ra là những hạn chế, yếu kém về phẩm chất, năng lực, trình độ của người làm công tác giải quyết khiếu nại về đất đai chính là nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai. Bên cạnh đó còn những hạn chế trong công tác chỉ đạo của cấp lãnh đạo, của người có thẩm quyền do thiếu kịp thời, chưa kiên quyết; sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành đoàn thể khi giải quyết khiếu nại; việc nắm bắt và nhận thức không đúng đắn, không đầy đủ, chưa kịp thời những chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến đất đai, hoặc do giải quyết thiếu công tâm, khách quan không dựa trên cơ sở pháp luật cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại về đất đai. Do đó trước tình hình khiếu nại về đất đai còn diễn biến phức tạp, để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật đất đai, khắc phục những hạn chế, yếu kém, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung, của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nói riêng, bảo đảm cho pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo đi vào cuộc sống một cách dễ dàng và thuận tiện, đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là hết sức quan trọng và cần thiết. Thông qua đó nhằm rút ra những kinh nghiệm thực tiễn để tiếp tục bổ sung hoàn thiện về mặt lý luận. Đồng thời, trên cơ sở những giải pháp được rút ra sẽ góp phần quan trọng cho việc xây dựng pháp luật, ban hành pháp luật và thực hiện pháp luật về đất đai được thống nhất, chặt chẽ, thông suốt và nghiêm minh, sát hợp với nhu cầu của đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Góp phần tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. I.A Azôvkin, S.M.Korneev, A.A. Menikov… (1986), Thuật ngữ pháp lý phổ thông, trang 206 (Nguyễn Quốc Việt dịch, Nguyễn Văn Luật hiệu đính) NXB Pháp lý, Hà Nội. 2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020. 3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Thông tư 01/2005/TT-BTNMT ngày 13/4/2005, Hướng dẫn thực hiện một số điều của nghị định số: 181/2004/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai. 4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Thông tư 06/2007/TT-BTNMT ngày 15/6/2007, Hướng dẫn thực hiện một số điều của nghị định số: 84/2007/NĐ- CP quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và khiếu nại về đất đai. 5. Tô Văn Châu (2003), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 6. Chính phủ (2004), Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai. 7. Chính phủ (2004), Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. 8. Chính phủ (2006), Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo. 9. Chính phủ (2007), Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. 10. TS Trần Kim Cúc và Ths Nguyễn Thị Phượng với bài “Khiếu kiện về đất đai thực trạng và giải pháp”, Tạp chí quản lý nhà nước, tháng 10/2003. 11. TS.Nguyễn Văn Cường (2005), “Những vấn đề cần trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật Đất đai năm 2003”, Tạp chí Toà án nhân dân, tháng 9/2005. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 14. Đảng cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần VIII Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Đại hội VIII - những tìm tòi và đổi mới, Nơi xuất bản, Trung tâm tư liệu Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 22. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 23. Nguyễn Hữu Hoằng (2007), "Một số vấn đề nảy sinh xung quanh các quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo", Tạp chí Thanh tra, (5). 24. Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (2004), Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, ngày 10/8/2004. 25. Nguyễn Mạnh Hùng (2003), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai qua thực tiễn tỉnh Thái Bình, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 26. Hà Văn Khanh (2007), Áp dụng pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước về đất đai ở thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 27. Trần Nam Khởi (2008), Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan hành chính nhà nước ở cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 28. Trần Xuân Long (2003), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai ở tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 29. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 30. Nguyễn Thị Mai (2005), "Những quy định mới của Luật đất đai năm 2003 về khởi kiện vụ án hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai", Tạp chí Luật học, (4). 31. Văn Tiến Mai (2007), Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 32. C.Mác- Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. C.Mác- Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 25, phần 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Đỗ Thị Phượng (2005), Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình thực trạng và giải pháp khắc phục, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 39. Nguyễn Cảnh Quý (2001), Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật đất đai ở Việt Nam, Luật án tiến sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 40. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001). 41. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Luật đất đai năm 1993, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Thanh tra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật đất đai 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật khiếu nại, tố cáo (đã sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Ths Trần Văn Sơn (2005), "Tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước- giải pháp tăng cường pháp chế XHCN", Tạp chí Lập pháp, tháng 8/2005. 47. Nguyễn Công Tình (2005), "Vấn đề gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại và người bị khiếu nại- thực tiễn áp dụng", Tạp chí Thanh tra, (6). 48. Nguyễn Công Tình (2007), "Một số vấn đề nảy sinh từ thực tiễn áp dụng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2005", Tạp chí Thanh tra, (3). 49. Nguyễn Văn Thanh, Đinh Văn Minh (2004), Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 50. Thanh tra tỉnh Hải Dương (2004-2008), Báo cáo tổng kết công tác Thanh Tra năm 2004 đến năm 2008. 51. Tỉnh uỷ Hải Dương (2005), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (2005- 2010), Lưu hành nội bộ. 52. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 53. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 54. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận chung nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 55. Từ điển Anh - Việt (1990), Nxb Đồng Nai. 56. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Nxb Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. 57. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương, Báo cáo kết quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2004 đến năm 2008. 58. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2006), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, được sửa đổi, bổ sung các năm 1998, 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2008), Báo cáo kết quả giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo, ngày 16 tháng 10 năm 2008. 60. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb tư pháp, Hà Nội. 61. Đặng Hùng Võ (2003), "Hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Báo nhân dân, (17450), ngày 06/5/2003. 62. Đặng Hùng Võ (2006), Cần đổi mới hơn nữa việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai, Tài liệu sử dụng cho bài nói chuyện Chính sách, pháp luật đất đai với kinh tế thị trường ở Việt Nam tại chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. 63. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn Hoá thông tin, Hà Nội. PHỤ LỤC Phụ lục 1: HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG NĂM 2008 Stt Chỉ tiêu Diện tích (ha) Cơ cấu (%) TỔNG DIỆN TÍCH ĐẤT TỰ NHIÊN 165.185,30 100 1 ĐẤT NÔNG NGHIỆP 104.358,74 63,18 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 85.240,8 51,60 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 67.393,93 40,80 Trong đó: Đất trồng lúa 65.055,15 39,38 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 17.846,87 10,80 1.2 Đất lâm nghiệp 8.920,81 5,40 1.2.1 Đất rừng sản xuất 70,00 0,04 1.2.2 Đất rừng phòng hộ 7.497,1 4,54 1.2.3 Đất rừng đặc dụng 1.353,71 0,82 1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 9.746,37 5,90 1.4 Đất nông nghiệp khác 450,76 0,27 2 ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP 60.417,29 36,58 2.1 Đất ở 14.307,75 8,66 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 12.484,24 7,56 2.1.2 Đất ở tại đô thị 1.823,51 1,10 2.2 Đất chuyên dùng 31.462,13 19,05 2.2.1 Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp 530,25 0,32 2.2.2 Đất quốc phòng, an ninh 427,60 0,26 2.2.3 Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp 6.266,43 3,79 2.2.3.1 Đất khu công nghiệp 2.796,10 1,69 2.2.3.2 Đất cơ sở sản xuất, kinh doanh 1.859,13 1,13 2.2.3.3 Đất cho hoạt động khoáng sản 261,16 0,16 2.2.3.4 Đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ 1.350,04 0,82 2.2.4 Đất có mục đích công cộng 24.237,85 14,67 2.2.4.1 Đất giao thông 10.044,15 6,08 2.2.4.2 Đất thuỷ lợi 11.575,22 7,01 2.2.4.3 Đất để chuyền dẫn năng lượng, truyền thông 73,14 0,04 2.2.4.4 Đất cơ sở văn hoá 345,23 0,21 2.2.4.5 Đất cơ sở y tế 116,18 0,07 2.2.4.6 Đất cơ sở giáo dục đào tạo 911,19 0,55 2.2.4.7 Đất cơ sở thể dục thể thao 737,00 0,71 2.2.4.8 Đất chợ 138,85 0,08 2.2.4.9 Đất có di tích danh thắng 124,24 0,08 2.2.4.10 Đất bãi thải, xử lý chất thải 172,65 0,10 2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 228,73 0,14 2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 1.553,06 0,94 2.5 Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 12.767,39 7,73 2.6 Đất phi nông nghiệp khác 98,23 0,06 3 ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG 409,27 0,25 Phụ lục 2 QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG ĐẾN NĂM 2010 Stt Chỉ tiêu Diện tích (ha) Cơ cấu (%) TỔNG DIỆN TÍCH ĐẤT TỰ NHIÊN 165.185,30 100 1 ĐẤT NÔNG NGHIỆP 101.667,00 61,55 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 81.039,13 79,71 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 63.253,06 78,05 Trong đó: Đất trồng lúa 61.789,65 97,69 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 17.786,07 21,95 1.2 Đất lâm nghiệp 9.088,71 8,94 1.2.1 Đất rừng sản xuất 150,32 1,65 1.2.2 Đất rừng phòng hộ 7.584,68 83,45 1.2.3 Đất rừng đặc dụng 1.353,71 14,89 1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 10.828,69 10,65 1.4 Đất nông nghiệp khác 710,47 0,70 2 ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP 63.470,64 38,42 2.1 Đất ở 14.567,52 22,95 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 12.667,12 86,95 2.1.2 Đất ở tại đô thị 1.900,40 13,05 2.2 Đất chuyên dùng 34.384,31 54,17 2.2.1 Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp 536,84 1,56 2.2.2 Đất quốc phòng, an ninh 429,39 1,25 2.2.3 Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp 7.888,35 22,94 2.2.3.1 Đất khu công nghiệp 3.876,91 49,15 2.2.3.2 Đất cơ sở sản xuất, kinh doanh 2.130,39 27,01 2.2.3.3 Đất cho hoạt động khoáng sản 261,16 3,31 2.2.3.4 Đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ 1.619,89 20,54 2.2.4 Đất có mục đích công cộng 25.529,73 74,25 2.2.4.1 Đất giao thông 10.684,37 41,85 2.2.4.2 Đất thuỷ lợi 11.760,75 46,07 2.2.4.3 Đất để chuyền dẫn năng lượng, truyền thông 82,42 0,32 2.2.4.4 Đất cơ sở văn hoá 461,15 1,81 2.2.4.5 Đất cơ sở y tế 121,45 0,48 2.2.4.6 Đất cơ sở giáo dục đào tạo 953,32 3,73 2.2.4.7 Đất cơ sở thể dục thể thao 872,34 3,42 2.2.4.8 Đất chợ 167,03 0,65 2.2.4.9 Đất có di tích danh thắng 191,60 0,75 2.2.4.10 Đất bãi thải, xử lý chất thải 235,30 0,92 2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 232,19 0,37 2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 1.573,06 2,48 2.5 Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 12.617,24 19,88 2.6 Đất phi nông nghiệp khác 96,32 0,15 3 ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG 47,66 0,03 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh 9 1.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan nhà nước ở địa phương và các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai 29 1.3. Điều kiện đảm bảo đối với áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai 43 Chương 2: THỰC TRẠNG KHIẾU NẠI VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA UỶ 48 BAN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG 2.1. Tình hình khiếu nại về đất đai trên địa bàn Hải Dương thời gian qua 51 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương thời gian qua 60 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY 83 3.1. Những yêu cầu khách quan đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai 83 3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai ở tỉnh Hải Dương hiện nay 96 KẾT LUẬN 124 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 127 PHỤ LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19_2894.doc
  • pdf19_2894.pdf