Recently, it is potentially high risk of forest fires both natural forests and plantations in Ha Giang
province with the key areas such as Dong Van, Hoang Su Phi, Meo Vac, Quan Ba, etc. Kinds of forest with the
highest risk of fires are plantations of Pine, Cunninghamia konishii Hayata, Melocalamus compactiflorus (Kurz)
Benth, forest bordered with China. The main of objective and subjective reasons of forest fires are kinds of
combustible forests, large volumes of material under the forest, awareness and knowledge of the people on
forest fire prevetion and fighting is very low. The models of forest fire prevetion and fighting in the village
community in Ha Giang province with the number of people participating is very little, mostly just do
concurrently, not be funded to operate. They hardly patrol but only guard and fight forest fires. The development
of these models was without the involvement of community, so mobilizing community was very difficult when
forest fires were occured. To encourage participation of community in the forest fire prevetion and fighting by
building models of forest fire prevetion and fighting in the community, and were managed, operated and
implemented by community. For the effective of these models, synchronous solutions for support are required,
such as: Solutions on mechanisms and policies, technical solutions, solutions on communication, solutions on
implementation
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 725 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Áy rừng ở hà giang, thực trạng và những giải pháp phòng cháy chữa cháy rừng trong cộng đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÁY RỪNG Ở HÀ GIANG, THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG 
CHÁY CHỮA CHÁY RỪNG TRONG CỘNG ĐỒNG 
Vũ Đức Quỳnh1, Mai Thị Thanh Nhàn2, Lê Sỹ Doanh3 
TÓT TẮT 
Ở Hà Giang hiện đang tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng cao với cả rừng tự nhiên và rừng trồng. Các vùng 
trọng điểm cháy là: Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Mèo Vạc, Quản Bạ... Các loại rừng có nguy cơ cháy cao nhất là 
rừng trồng Thông, Sa mộc, rừng Giang nứa, rừng giáp ranh khu vực biên giới với Trung Quốc. Nguyên nhân tự 
nhiên và nhân sinh chủ yếu là do có nhiều trạng thái rừng dễ cháy, khối lượng lớn vật liệu dưới rừng, nhận thức 
và kiến thức về PCCCR của người dân rất thấp.Các mô hình PCCCR trong cộng đồng thôn bản ở Hà Giang với 
số lượng người tham gia rất ít, chủ yếu chỉ làm kiêm nhiệm, không được hỗ trợ kinh phí hoạt động, họ hầu như 
không thực hiện được hoạt động tuần tra rừng mà chỉ có thể tham gia trực cháy và chữa cháy rừng. Việc xây 
dựng các mô hình này không có sự tham gia của cộng đồng, do đó khi có cháy rừng xảy ra rất khó huy động sự 
tham gia của cộng đồng.Có thể khuyến khích cộng đồng tham gia vào công tác PCCCR thôn bản bằng cách xây 
dựng các mô hình PCCCR trong cộng đồng, do chính cộng đồng quản lý, tổ chức và thực hiện. Để các mô hình 
PCCCR cộng đồng hoạt động có hiệu quả cần có các giải pháp đồng bộ hỗ trợ như: Giải pháp về cơ chế chính 
sách, giải pháp về kỹ thuật, giải pháp về tuyên truyền, giải pháp về tổ chức thực hiện. 
Từ khóa: Cộng đồng, phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR), Hà Giang. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những năm gần đây tài nguyên rừng tỉnh Hà Giangcó chiều hướng suy giảm, có 
nhiều nguyên nhân trong đó tình hình cháy rừng trên địa bàn tỉnh vẫn có nhiều diễn biến phức 
tạp. Theo số liệu thống kê của Chi cục Kiểm lâm Hà Giang trong 5 năm trở lại đây bình quân 
mỗi năm trên địa bàn tỉnh xảy ra 45 vụ cháy rừng với quy mô khác nhau, đặc biệt trong mùa 
cháy năm 2009 – 2010 đã xảy ra 144 vụ cháy rừng. 
 Nhiều địa phương trong tỉnh còn chưa xây dựng được tổ chức và quy định thích hợp 
cho PCCCR. Chưa gắn kết được các thành viên trong cộng đồng vào PCCCR, chưa phát huy 
được nội lực của các cộng đồng cho PCCCR, chưa thực hiện tốt được phương châm 4 tại chỗ 
cho PCCCR. Những phương án PCCCR hiện tại vẫn chưa đảm bảo phát huy được sức mạnh 
của quần chúng nhân dân, chưa phối hợp được các nguồn lực cho PCCCR, chưa xã hội hoá 
được hoạt động PCCCR. 
 Để giảm thiểu nguy cơ cháy rừng, thì việc xây dựng những mô hình cộng đồng tích cực 
chủ động PCCCR tại các địa phương là điều hết sức cần thiết trong thời điểm nay. Thực tế đã 
có những mô hình PCCCR trong cộng đồng tuy nhiên:Mô hình này hoạt động như thế nào?Đã 
có những khó khăn gì trong quá trình triển khai làm hạn chế đến kết quả mong đợi?Chúng ta 
phải đưa ra những giải pháp nào để khuyến khích sự tham gia, sự chủ động và tích cực của mỗi 
cá nhân trong cộng đồng tham gia vào việc PCCCR? tất cả những vấn đề này cần được nghiên 
cứu và giải quyết. 
II. PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu 
 a, Lựa chọn điểm nghiên cứu 
 Nghiên cứu được thực hiện trên đại bàn 3 huyện đại diện cho 3 vùng lập địa và có phân 
bố rừng đặc trừng của tỉnh Hà Giang: Đồng Văn, Hoàng Su Phì và Vị Xuyên. Tại mỗi huyện 
1 Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hà Giang 
2 Viện sinh thái rừng và Môi trường – Đại học Lâm nghiệp 
3 Viện sinh thái rừng và Môi trường – Đại học Lâm nghiệp 
lựa chọn 3 xã đại diện trong đó huyện Đồng Văn chọn: TT Phố Bảng, Lũng Cú, Má Lé; huyện 
Hoàng Su Phì chọn: Bản Mày, Chiến Phố, Thàng Tín; huyện Vị Xuyên chọn: Lao Chải, Thuận 
Hòa, Trung Thành. 
 Tại mỗi huyện nghiên cứu lựa chọn 03 xã, mỗi xã chọn 02 thôn, các xã và thôn này đại 
diện cho khu vực nghiên cứu như để thu thập thông tin, nghiên cứu đánh giá về công tác 
PCCCR của cộng đồng địa phương: Có diện tích rừng đủ lớn, rừng của các xã đa dạng về trạng 
thái rừng, đã từng bị xảy ra cháy rừng hoặc có nguy cơ bị cháy rừng, có mô hình PCCCR trong 
cộng đồng. Tại mỗi thôn chọn 25 hộ để phỏng vấn. Ngoài ra nhóm nghiên cứu cũng đã phỏng 
vấn một số lãnh đạo xã, thôn, những người phụ trách các hoạt động liên quan đến sản xuất 
nông lâm nghiệp tại địa phương và một số cán bộ kiểm lâm phụ trách địa bàn, đại diện lãnh 
đạo Hạt kiểm lâm của huyện nghiên cứu, tổng số người được phỏng vấn là 579 người. 
 b, Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được thực hiện trong suốt quá trình thực 
hiện đề tài, thông qua các hình thức: hội thảo, họp nhóm chuyên gia, bài nhận xét góp ý, phỏng 
vấn trực tiếp. Các nội dung xin ý kiến chuyên gia đó là: phương pháp tiếp cận, phương pháp 
đánh giá, xây dựng đề cương, chuyên đề,... 
 c, Phương pháp và công cụ thu thập số liệu 
 - Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: nghiên cứu tiến hành thu thập và kế thừa tất cả các số liệu, 
tài liệu liên quan đến hiện trạng rừng, công tác PCCCR, các mô hình PCCCR tại các địa 
điểm nghiên cứu. 
 - Phương pháp điều tra, thu thập số liệu hiện trường: Nghiên sử dụng các công cụ đánh 
giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA) để thu thập các thông tin và số liệu ngoài hiện 
trường: (1) Điều tra theo tuyến và xây dựng sơ đồ mặt cắt; (2)Phỏng vấn hộ gia đình; (3) 
Phỏng vấn cá nhân. 
 d, Xây dựng phương án quản lý lửa rừng ở cấp xã, thôn, bản có sự tham gia của 
người dân: Phương án quản lý lửa rừng cấp xã, thôn, bản bao gồm các phương án phân bổ 
nhân lực và phương tiện PCCCR, phương án phòng cháy rừng, phương án tuần tra và phát hiện 
sớm cháy rừng, phương án tổ chức và chỉ huy chữa cháy rừng, phương án khắc phục hậu quả 
của cháy rừng. Phương án quản lý lửa rừng cấp xã được xây dựng theo phương pháp cùng 
tham gia có sự hỗ trợ của cán bộ tư vấn, kiểm lâm cấp huyện và chính quyền xã. 
 e, Xây dựng bản quy ước quản lý lửa rừng cấp thôn: Quy ước quản lý lửa rừng được 
nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện qua 3 bước: (1) Biên soạn quy ước; (2) Hoàn thiện quy 
ước. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Thực trạng cháy rừng ở Hà Giang 
Trong mùa khô hanh từ năm 2009 đến nay trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã xảy ra nhiều 
vụ cháy rừng, làm thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. 
Theo báo cáo của chi cục kiểm lâm tỉnh Hà Giang, thì từ năm 2009 đến năm 2014 tình 
trạng cháy rừng trên địa bàn tỉnh diễn ra như sau: 
Bảng 1: Số vụ cháy rừng tại Hà Giang giai đoạn 2009 - 2014 
Năm Số vụ cháy (vụ) Diện tích (ha) 
2009-2010 144 1.174,58 
2010-2011 5 9,46 
2011-2012 50 298,03 
2012-2013 10 19,06 
2013-2014 17 72,36 
Có thể thấy tình hình cháy rừng qua các năm tại Hà Giang có những diễn biến hết sức 
phức tạp, bình quân trong giai đoạn này số vụ cháy rừng xảy ra là 45 vụ/năm, tuy nhiên trong 
mùa cháy 2009 – 2010 số vụ cháy rừng xảy ra cao bất thường với tổng số 144 vụ và diện tích 
rừng thiệt hại là 1.174,58 ha, ngay sau đó trong mùa cháy 2010 – 2011 số vụ cháy rừng giảm 
xuống chỉ còn 5 vụ và diện tích thiệt hại là 9,46 ha. Qua đó có thể thấy nguyên nhân dẫn đến 
cháy rừng không chỉ do các yếu tố khách quan như: thời tiết, kiểu rừng mà còn có vai trò 
quan trọng của công tác bảo vệ rừng và phòng cháy chữa chữa cháy rừng của các lực lượng 
chức năng cũng như toàn xã hội. 
3.2. Nguyên nhân gây cháy rừng ở Hà Giang 
a. Nguyên nhân trực tiếp 
*Đốt nương làm rẫy gần rừng dẫn đến cháy 
lan vào rừng: Các hộ gia đình sống gần rừng ở Hà 
Giang đều có nguồn thu nhập chính từ canh tác 
nương rẫy, các cộng đồng dân tộc sống ở Hà Giang 
đang phát đốt khá tự do, đó là nguyên nhân quan 
trọng gây lên cháy rừng. Tình trạng đốt nương làm 
rẫy diễn ra ở hầu khắp các cộng đồng và đã diễn ra 
trong nhiều năm. Hình 1. Đốt nương làm rẫy ở Hoàng Su Phì 
*Mang lửa vào rừng để khai thác lâm sản ngoài gỗ: Quá trình thu hái lâm sản ngời gỗ 
(thuốc nam, ) người dân phải đi khá xa, vì vậy người dân thường phải đi dài ngày và sinh 
hoạt ngay trong rừng, do sơ ý trong việc dùng lửa để đun nấu và sưởi ấm nên trong nhiều 
trường hợp đã để lửa bén gây cháy rừng. 
*Mang lửa vào rừng để khai thác mật 
ong:Khai thác mật ong là một trong những nguyên 
nhân gây cháy rừng khá lớn vì phải dùng lửa trực tiếp 
để đốt ong, hoạt động này xảy ra khá phổ biến ở 
huyện Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, Yên Minh và cũng 
đã được xác định là nguyên nhân gây lên nhiều vụ 
cháy rừng trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 
Hình 2.Chuẩn bị đuốc đốt ong ở Hoàng Su Phì 
*Mang lửa vào rừng khi khai thác gỗ lậu:Cũng như khai thác lâm sản ngoài gỗ thì việc 
khai thác gỗ lậu cũng được thực hiện dài ngày và người dân cũng phải mang lửa vào rừng để 
phục vụ sinh hoạt, tuy nhiên khi dời đi họ thường không giập hết lửa nên để tàn lửa bén vào 
rừng gây cháy rừng. Hoạt động này thường xảy ra ở Vị Xuyên, địa bàn còn nhiều tài nguyên lại 
gần đường quốc lộ, thuận lợi cho việc vận chuyển và buôn bán. 
*Đốt than:Đốt than cũng là một trong những 
công việc đem lại thu nhập cho người dân vào thời 
điểm nông nhàn. Mặc dù ở Hà Giang hoạt động này 
không phổ biến như lấy ong hoặc lấy gỗ, nhưng nó 
cũng cũng là một trong những nguyên nhân không 
những gây cháy rừng mà còn mất rừng, có những địa 
điểm khó làm hầm đốt than, người dân chặt nguyên 
cây gỗ xuống và đốt ngay tại rừng gây cháy rừng rất 
nhiêm trọng. Hình 3. Khai thác gỗ rừng đốt lấy than củi 
*Trẻ chăn trâu đốt lửa sưởi:Cháy rừng do trẻ chăn trâu đốt lửa sưởi ấm hầu như năm 
nào cũng xảy ra và xảy ra ở hầu hết các huyện có rừng của tỉnh. Thực tế thì trẻ em chưa được 
tuyên truyền về tác hại của cháy rừng, hoặc có thì rất sơ sài, phần lớn các em chưa hiểu được 
vai trò, giá trị của rừng đối với đời sống cũng như môi trường. 
*Cháy lan từ Trung Quốc sang khu vực giáp ranh:Hiện tượng cháy rừng giáp ranh khu 
vực biên giới với Trung Quốc xảy ra đối với hầu hết các xã có diện tích rừng giáp với nước 
này. Thời điểm xảy ra cháy rừng ở khu vực này thường rơi vào mùa khô và thời điểm giáp tết, 
hoặc thời điểm người dân đang nghỉ tết. Do không có người tuần tra, nên rất nhiều diện tích 
rừng ở khu vực giáp ranh bị cháy lan từ Trung Quốc sang mà không được phát hiện, hoặc nếu 
có phát hiện được cũng khó huy động người dân tham gia chữa cháy, đặc biệt vào thời điểm 
người dân nghỉ tết. 
b. Nguyên nhân gián tiếp 
Nghiên cứu cũng chỉ ra một số nguyên nhân gián tiếp dẫn đến tình trạng cháy rừng vẫn 
đang tiếp tục diễn ra phức tạp trên địa bàn tỉnh Hà Giang: 
Do thời tiết trong những năm gần đây diễn biến phức tạp, khô hanh kéo dài, địa hình 
hiểm trở, các khu rừng bị cháy thường xa khu dân cư, các lực lượng chữa cháy di chuyển chưa 
kịp thời. Ở một số huyện do sợ ảnh hưởng đến thành tích nên không khai báo.Thực hiện 
phương châm 4 tại chỗ khi xảy ra cháy rừng không hiệu quả. Phương tiện, dụng cụ chữa cháy 
rừng rất thô sơ, nên chữa cháy không hiệu quả. 
Kinh phí cho công tác PCCCR còn hạn hẹp nên không kịp thời động viên, khuyến 
khích cho người trực tiếp tham gia PCCCR.Công tác điều tra xử lý các vụ cháy rừng chưa triệt 
để, còn có biểu hiện bao che. Hình thức xử lý các đối tượng vi phạm quá nhẹ không đủ tính răn 
đe, do đó tại nhiều địa phương mặc dù đã xử phạt nhưng vẫn tái diễn vi phạm. 
Nhận thức của người dân về tác hại của cháy rừng còn rất thấp, đại bộ phận người dân 
ở các cộng đồng chưa quan tâm đến công tác PCCCR. Người dân chủ quan trong việc dùng lửa 
để đốt nương rẫy, đốt ở ven rừng.Chủ rừng chưa trú trọng đến công tác PCCCR. Vai trò người 
chỉ huy trong việc chữa cháy rừng chưa phát huy hiệu quả. 
3.3. Công tác PCCCR ở Hà Giang 
a, Công tác PCCCR cấp tỉnh, huyện 
Chi cục kiểm lâm đã thực hiện nghiêm túc công tác chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị trực 
thuộc làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cơ sở ban hành các văn bản chỉ đạo, 
đôn đốc công tác PCCCR; Kiện toàn các ban chỉ đạo PCCCR cấp huyện, xã, các tổ đội quần 
chúng bảo vệ rừng và PCCCR; Thành lập các tổ đội xung kích bảo vệ rừng và PCCCR. Kiểm 
tra đôn đốc các chủ rừng xây dựng phương án PCCCR kịp thời và sát với điều kiện thực tế để 
tổ chức thực hiện có hiệu quả. 
 Tăng cường kiểm tra, giám sát việc bảo vệ rừng của các chủ rừng, các địa phương có 
nhiều khu vực trọng điểm thường xảy ra cháy rừng vào mùa khô hanh, chú trọng các huyện 
miền núi vùng cao nhằm hạn chế đến mức thấp nhất số vụ cháy, diện tích cháy. Tổ chức 
thường trực từ chi cục đến các đơn vị trực thuộc trong thời gian nắng nóng, khô hanh cao điểm 
để phát hiện sớm và tổ chức chữa cháy kịp thời khi có xảy ra cháy rừng. 
 Tuyên truyền và quản lý chặt chẽ việc phát nương làm rẫy của đồng bào vùng sâu vùng 
xa, giảm tối đa diện tích rừng bị phát và bị cháy do đốt nương rẫy trái phép.Kiểm lâm địa bàn 
tổ chức tuyên truyền công tác quản lý bảo vệ rừng, PCCCR xuống các trường học và cộng 
đồng dân cư các xã, các thôn, bản. Tổ chức ký cam kết với các thôn bản về việc thực hiện tốt 
công tác quản lý bảo vệ rừng và PCCCR. Mở lớp huấn luyện dân quân bảo vể ừng, PCCCR. 
Thường xuyên theo dõi, tổng hợp báo cáo cấp trên tình hình cháy rừng từ các đơn vị 
trực thuộc chi cục Kiểm lâm. Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc kiểm tra, xác minh các điểm cháy 
để thông tin kịp thời, chính xác, phục vụ phòng cháy và chữa cháy kịp thời hiệu quả. 
b, Công tác PCCCR ở cấp xã 
Công tác PCCCR đang được thực hiện tại các cộng đồng ở Hà Giang dựa trên phương 
án PCCCR của tỉnh, huyện và được triển khai về các xã thôn hàng năm, trong đó tại mỗi huyện 
sẽ có 01 ban chỉ huy PCCCR cấp huyện, Hạt kiểm lâm chịu trách nhiệm tham mưu cho lãnh 
đạo huyện về công tác PCCCR của huyện, xây dựng phương án PCCCR hàng năm, lập kế 
hoạch PCCCR, tại mỗi xã sẽ có 01 ban chỉ huy PCCCR cấp xã trong đó đại diện các ban ngành 
của xã là thành viên, tại mỗi xã cũng có 01 đội xung kích về PCCCR, và tại mỗi thôn sẽ có 01 
tổ đội PCCCR hay tổ chỉ huy PCCCR-BVR, thành phần tham gia là trưởng các ban ngành. 
Quá trình nghiên cứu đánh giá tại các thôn bản của các xã của huyện Vị Xuyên, Hoàng 
Su Phì và Đồng Văn tỉnh Hà Giang kết quả cho thấy tại các cộng đồng dân cư chưa có một mô 
hình PCCCR nào trong cộng đồng, do cộng đồng tự khởi xướng hay được định hướng từ bên 
ngoài.Tùy theo điều kiện thực tiễn của mỗi huyện mà các ban chỉ huy cấp huyện, xã, tổ đội 
xung kích cấp xã, tổ đội PCCCR cấp thôn có sự khác nhau về thành phần tham gia, số lượng 
người tham gia, cách thức hoạt động, phân công nhiệm vụ 
Bảng 2. Mô hình phòng cháy chữa cháy rừng cấp xã 
Nội dung Ban chỉ huy PCCCR 
Ban chỉ đạo phòng chống 
cháy rừng 
Đội xung kích PCCCR, 
PCLB và TKCH 
1. Địa điểm 
áp dụng 
Hầu hết các xã có rừng ở tỉnh 
Hà Giang 
Lao Chải, Trung Thành, 
Minh Tân, Thanh Đức của 
huyện Vị Xuyên 
Được áp dụng tại một số 
xã thuộc 03 huyện điều 
tra 
2. Thành 
phần tham 
gia 
PCT UBND phụ trách khối 
nông lâm làm trưởng ban, phó 
ban là xã đội trưởng và trưởng 
công an xã, các ban viên là đại 
diện các ban ngành của xã. 
CT UBND xã làm trưởng 
ban, phó ban là PCT 
UBND phụ trách khối nông 
lâm, xã đội trưởng và 
trưởng công an xã, các ban 
viên là đại diện các ban 
ngành của xã 
PCT UBND là đội 
trưởng, trưởng các ban 
ngành của xã, hiệu 
trưởng của các trường 
trên địa bàn xã là các 
ban viên. 
3. Cách 
thức hoạt 
động 
+ Lập kế hoạch về quản lý bảo 
vệ rừng, PCCCR hàng năm 
cho xã. 
+ Bố trí lịch trực cho các thành 
viên trong ban. 
+ Phân công các thành viên 
trong ban và phối hợp với 
kiểm lâm địa bàn tuần tra 
rừng, phòng cháy rừng. Trực 
tiếp tham gia chữa cháy rừng 
của xã. 
+ Xử lý các vụ vi phạm về 
quản lý tài nguyên rừng, 
PCCCR tại địa phương. Tham 
gia xác minh các vụ vi phạm 
về các vấn đề trên. 
+ Triển khai kế hoạch, 
phương án PCCCR cho xã. 
+ Trực tiếp chỉ đạo và điều 
hành mọi công tác liên 
quan đến PCCCR trên địa 
bàn xã, hỗ trợ cho các thôn 
bản xây dựng kế hoạch tuần 
tra kiểm tra phát hiện sớm 
cháy rừng để kịp thời có 
phương hướng giải quyết. 
+ Họp giao ban, giao nhiệm 
vụ cụ thể cho từng thôn bản 
về công tác lâm nghiệp, đẩy 
mạnh tuyên truyền tới 
người dân. 
+ Chủ trì và tham mưu 
công tác PCCCR của xã; 
+ Xây dựng quy chế 
hoạt động, phân công 
nhiệm vụ; tổ chức chữa 
cháy; 
+ Có nhiệm vụ cứu nạn 
và phòng chống lụt bão. 
+ Chủ động thực hiện 
cũng như đảm bảo chế 
độ báo cáo kịp thời. 
4. Kết quả 
đạt được 
Tình trạng cháy rừng cũng có 
giảm. Tuy nhiên hiệu quả 
trong hoạt động của ban chưa 
cao, vì hầu hết các thành viên 
làm kiêm nhiệm, không dành 
Bước đầu hạn chế tình 
trạng cháy rừng. Tuy nhiên 
do hạn chế về thời gian và 
kinh phí nên ban hoạt động 
chưa hiệu quả. 
Hoạt động hiệu quả tích 
cực cho công tác 
PCCCR. Đây là mô hình 
có sự kết hợp hiệu quả 
ngay từ công tác tuyên 
Nội dung Ban chỉ huy PCCCR 
Ban chỉ đạo phòng chống 
cháy rừng 
Đội xung kích PCCCR, 
PCLB và TKCH 
được nhiều thời gian thường 
xuyên cho việc tuần tra rừng, 
địa bàn quá rộng và khó khăn, 
do đó những địa điểm ở xa, 
đường đi khó khăn thì rất khó 
phát hiện đám cháy, hoặc có 
phát hiện được cũng không kịp 
chữa cháy. 
truyền, giáo dục, nâng 
cao tính trách nhiệm của 
mỗi cá nhân, tập thể. 
Phụ trách công tác cứu 
hộ, cứu nạn nên mỗi 
thành viên trong đội 
xung kích đều rất tích 
cực tham gia công tác 
PCCCR. 
5. Thuận lợi + Thành phần ban chủ yếu là 
đại diện ban ngành của xã nên 
việc phối hợp trong PCCCR 
khá thuận lợi. 
+ Là mô hình có cấp quản lý 
và xây dựng kế hoạch PCCCR 
gần như bám sát cơ sở nên sẽ 
ảnh hưởng, tác động mạnh đến 
công tác tuyên truyền và ý 
thức của người dân. 
+ Trực tiếp có sự điều hành 
của lãnh đạo xã cũng như 
trưởng các ban ngành đoàn 
thể của xã nên công tác 
triển khai tương đối thuận 
lợi, các thôn, bản đều triển 
khai và thực hiện nghiêm 
túc. 
+ Tổ chức, thực hiện kiểm 
tra ngay khi bắt đầu mùa 
cháy nên công tác phòng 
chống được chú trọng hơn, 
ít để cháy rừng phát sinh 
hơn. 
+ Kết hợp các ban 
ngành, các thành phần 
một cách thống nhất nên 
hiệu quả thực hiện tương 
đối cao. 
+ Do địa bàn chủ yếu là 
đồi núi, hiểm nguy về tai 
nạn luôn rình rập nên sự 
chủ động chuẩn bị ứng 
phó đối với các vấn đề 
của tổ là linh hoạt hơn. 
6. Khó 
khăn 
+ Các thành viên của ban làm 
kiêm nhiệm nên không có 
nhiều thời gian tuần tra. 
+ Ban hoạt động dựa trên trách 
nhiệm mà không được hỗ trợ 
kinh phí. 
+ Phương tiện, dụng cụ chữa 
cháy thô sơ và thiếu. 
+ Rừng của xã, thôn do xã và 
ban quản lý thôn quản lý mà 
không giao cho các hộ nên họ 
không có trách nhiệm. 
+ Nhận thức của người dân về 
PCCCR thấp nên rất khó huy 
động họ tham gia chữa cháy. 
+ Không có kinh phí hỗ trợ 
các thôn, bản để động viên 
người dân cùng tham gia. 
+ Các thành viên đều thực 
hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm 
nên thời gian cho công tác 
kiểm tra và phối hợp với 
các thôn triển khai kế hoạch 
phòng chống cháy rừng là 
rất hạn chế. 
+ Điều kiện địa hình, dân 
tộc, tôn giáo cũng ảnh 
hưởng đến công tác tuyên 
truyền, công tác phòng 
chống cháy rừng. 
+ Các thành viên làm 
kiêm nhiệm. 
+ Thiếu kinh phí hoạt 
động. 
+ Thành phần không có 
lãnh đạo thôn nên hạn 
chế việc nắm bắt tình 
hình của thôn cũng như 
triển khai PCCCR kịp 
thời. 
c, Công tác PCCCR ở cấp thôn bản 
Tại các thôn bản, hầu hết đều có các tổ đội thực hiện công tác bảo vệ rừng, PCCCR. 
Tùy thuộc mỗi thôn bản các tổ đội này sẽ có các tên gọi khác nhau, cách thức tổ chức thực 
hiện, thành phần tham gia để đảm bảo công tác PCCCR phù hợp với điều kiện của họ nhất. 
Tổng hợp kết quả điều tra đánh giá tại 03 huyện điều tra, hiện các thôn bản có 03 mô hình đặc 
trừng như sau: 
Bảng 3: Các mô hình phòng cháy chữa cháy rừng cấp thôn 
Mô hình Đặc điểm Ưu điểm Nhược điểm 
 - Mô hình tổ 
đội quản lý 
bảo vệ rừng và 
PCCCR. 
- Đầy đủ các thành phần của ban quản 
lý thôn cùng tham gia. 
- Giải quyết hầu hết các công việc của 
thôn bản. 
- Nắm vững được các chủ trương, 
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà 
 - Được tham gia 
tập huấn PCCCR. 
- Được các cấp 
chính quyền quan 
tâm. 
 - Lực lượng còn mỏng, 
đa phần làm kiêm nhiệm. 
- Trang thiết bị thiếu 
thốn. 
- Thiếu kinh phí hỗ trợ 
cho tổ đội hoạt động. 
Mô hình Đặc điểm Ưu điểm Nhược điểm 
nước về công tác quản lý bảo vệ, 
PCCCR. 
- Xử lý các vụ việc vi phạm theo quy 
ước, hương ước của thôn, bản. 
 - Tổ đội xung 
kích phản ứng 
nhanh trong 
công tác 
phòng cháy. 
 - Thành phần nòng cốt là lực lượng 
dân quân của thôn bản kết hợp với các 
lực lượng khác dưới sự chỉ đạo điều 
hành hoạt động của trưởng thôn. 
- Nhiệm vụ chủ yếu là giải quyết các 
vấn đề liên quan đến công tác PCCCR. 
- Tham gia công tác PCLB, TKCN khi 
có thiên tai, bão lũ xảy ra. 
 - Chủ yếu là dân 
quân thôn, bản 
nên công tác tuần 
tra, kiểm tra phát 
hiện sớm được 
thực hiện hiệu 
quả hơn. 
- Được chính 
quyền quan tâm. 
 - Lực lượng còn mỏng, 
đa phần là làm kiêm 
nhiệm. 
- Trang thiết bị thiếu 
thốn. 
- Thiếu kinh phí hỗ trợ 
cho tổ đội hoạt động. 
 - Mô hình tổ 
chỉ huy 
PCCCR-BVR. 
 - Đầy đủ các thành phần của ban quản 
lý thôn cùng tham gia. 
- Nắm vững được các chủ trương, 
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà 
nước về công tác quản lý bảo vệ, 
PCCCR. 
- Giải quyết các vấn đề liên quan đến 
quản lý bảo vệ rừng, PCCCR. 
- Tham gia công tác PCLB, TKCN. 
 - Được tham gia 
tập huấn PCCCR. 
- Được các cấp 
chính quyền quan 
tâm. 
 - Lực lượng còn mỏng, 
đa phần là làm kiêm 
nhiệm. 
- Trang thiết bị thiếu 
thốn. 
- Thiếu kinh phí hỗ trợ 
cho tổ đội hoạt động. 
Hầu hết các mô hình PCCCR của các thôn đều có thành phần tham gia là các cán bộ 
của thôn và dân quân thôn. Họ đều làm việc kiêm nhiệm và không được hỗ trợ kinh phí. Hoạt 
động chính là tuần tra nhưng công việc này không được thực hiện thường xuyên mà chỉ tập 
trung vào thời gian cao điểm về nắng nóng,thời điểm hay đốt nương làm rẫy, thời điểm hay xảy 
ra cháy rừng. Ngoài ra họ là lực lượng chính trong công tác chữa cháy rừng, khi có cháy rừng 
xảy ra ở thôn, họ sẽ phải là lực lượng tiên phong trong công tác tổ chức và tham gia chữa cháy, 
việc huy động được người dân tham gia hay không còn phụ thuộc ý thức của người dân ở mỗi 
thôn. Do đó có thể thấy công tác PCCCR hiện nay ở các thôn bản chưa đề cao vai trò của cộng 
đồng, chưa khuyến khích hay để cho cộng đồng thấy được mỗi người dân đều có trách nhiệm, 
vai trò quan trọng trong công tác PCCCR. Vì vậy, tùy thuộc tình hình thực tiễn ở mỗi cộng 
đồng cần phải thay đổi cách thức hoạt động của mô hình để khuyến khích sự tham gia của cộng 
đồng trong công tác bảo vệ rừng, PCCCR. 
3.4. Giải pháp cho công tác PCCCR ở Hà Giang 
Các cấp chính quyền cũng như các ban ngành có liên quan ở Hà Giang đã có nhiều cố 
gắng trong công tác PCCCR ở địa phương, tình trạng cháy rừng có giảm về quy mô và tính 
chất, tuy nhiên nó vẫn chưa triệt để. Để công tác PCCCR thực sự đạt hiệu quả cần có các giải 
pháp đồng bộ và được sự ủng hộ của toàn xã hội. 
3.4.1. Các giải pháp về mặt tổ chức 
a. Mô hình tổ đội quần chúng BVR, PCCCR 
Trên thực tế thì đây chính là mô hình đang áp dụng tại đa số các thôn bản của Hà 
Giang, được xây dựng dựa trên lực lượng chủ yếu là cán bộ thôn, hoặc dân quân thôn hoặc 
công an thôn. Họ hoạt động kiêm nhiệm, không được hỗ trợ kinh phí. Tuy nhiên do cách tổ 
chức quản lý và tùy thuộc trách nhiệm của các thành viên tham gia mà công tác BVR, PCCCR 
ở các thôn bản được thực hiện tốt hay không. 
Các thôn bản đang áp dụng MH này có: Phố Trồ, Xóm Mới, thị trấn Phố Bảng, huyện 
Đồng Văn; Bản Phùng xã Lao Chải, Bản Tàn, thôn Trung Sơn xã Trung Thành, huyện Vị 
Xuyên đang được triển khai khá tốt, nên duy trì hình thức hoạt động của mô hình này. 
Một số đề xuất để mô hình hoạt động có hiệu quả hơn: 
- Bổ sung thêm nhận lực cho tổ đội BVR, PCCCR: Công việc này đòi hỏi phải bổ sung 
thêm nhân lực bởi vì địa bàn rộng nhưng nhân lực như hiện tại lại quá ít, đa số họ làm kiêm 
nhiệm nên không có nhiều thời gian. Bên cạnh đó đối tượng tham gia tổ đội nên là nam giới, có 
sức khỏe và trên tinh thần tự nguyện. 
- Hỗ trợ thêm dụng cụ PCCCR cho tổ đội hoạt động: Các dụng cụ hiện nay đa số các 
thôn bản cần đó là loa cầm tay, đèn pin, can đựng nước, giao phátnhưng không đủ cho các 
thành viên trong đội. Khi chữa cháy phải huy động từ các hộ dân nên công tác chữa cháy rất 
khó khăn. 
- Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động PCCCR: Hỗ trợ kinh phí cho người trực tiếp tham gia 
chữa cháy. Ngoài ra cũng nên có một khoản chi phí duy trì hoạt động thường xuyên của tổ đội. 
Nguồn kinh phí có thể nên được cấp từ ngân sách của tỉnh đối với công tác này hoặc được trích 
từ tiền công khoán bảo vệ rừng hàng năm. 
b. Mô hình PCCCR và BVR theo thôn bản 
Việc đề xuất mô hình này dựa trên một thực tế là mô hình cũ đã không thực sự phát huy 
được hiệu quả, bên cạnh đó do rừng của các thôn chưa được giao cho các hộ gia đình hoặc 
được giao rất ít nên họ sẽ không có trách nhiệm quản lý bảo vệ, lực lượng tham gia bảo vệ 
rừng lại quá mỏng không đủ để bảo vệ một diện tích rộng lớn. Do đó việc huy động toàn thể 
cộng đồng tham gia công tác BVR, PCCCR sẽ cho người dân cộng đồng sự chủ động cũng như 
thấy được vai trò, trách nhiệm của họ đối với nguồn tài nguyên của địa phương. 
Mô hình BVR, PCCCR theo thôn bản được đề xuất thực hiện tại 07 thôn bản gồm: 
+ Thôn Lủng Cẩu xã Bản Máy, huyện Hoàng Su Phì; 
+ Thôn Nhìu Sang, Thôn Suối Thầu xã Chiến Phố, huyện Hoàng Su Phì; 
+ Thôn Ngài Trồ và Ngài Trồ Thượng xã Thàng Tín, huyện Hoàng Su Phì; 
+ Thôn Lùng Chu Phùng xã Lao Chải, huyện Vị Xuyên 
+ Thôn Lũng Pù xã Thuận Hòa, huyện Vị Xuyên. 
Về cấu trúc của mô hình: 
Đứng đầu là ban quản lý rừng thôn do dân bầu, bao gồm trưởng thôn, phó thôn và đại 
diện các đoàn thể trong thôn; tiếp đến là tổ BVR, PCCCR với thành viên là các đoàn thể trong 
thôn và những người nông dân có sức khỏe tốt, nhiệt tình với công việc. 
Trong điều kiện thực tiễn ở Hà Giang, mô hình này hoàn toàn có thể phát triển được 
dựa trên mô hình tổ đội xung kích phản ứng nhanh trong công tác phòng cháy với thành phần 
chủ yếu là dân quân thôn bản. Trước đây mô hình cũ chỉ có 01 tổ bảo vệ thì nay tùy thuộc số 
lượng thành viên đăng ký có thể chia thành nhiều tổ bảo vệ. Sự tự nguyện của người dân trong 
việc đăng ký tham gia vào tổ đội bảo vệ sẽ thuận lợi hơn trong quá trình thực hiện công việc. 
- Cách thức hoạt động: 
+ Ban quản lý thôn sẽ có trách nhiệm phân chia số thành viên tham gia thành các tổ 
PCCCR. Mỗi tổ sẽ có khoảng 8-10 thành viên. Các hộ ở gần nhau sẽ thành lập một tổ để tiện 
cho quá trình hoạt động của tổ sau này. Mỗi tổ sẽ được giao một diện tích rừng nhất định, ưu 
tiên giao rừng ở gần khu vực sinh sống của mỗi tổ để thuận lợi cho việc quản lý. 
+ Tổ sẽ tự lên phương án, hoặc kế hoạch bảo vệ rừng PCCCR đối với diện tích rừng mà 
thôn giao cho tổ. Mỗi tổ sẽ cử ra 01 tổ trưởng, tổ trưởng sẽ chịu trách nhiệm phân công lịch 
tuần tra rừng cho các tổ viên, đồng thời giám sát việc thực hiện của các tổ viên trong tổ. Mỗi tổ 
viên cũng có trách nhiệm giám sát việc thực hiện việc PCCCR của các thành viên trong tổ. Các 
tổ trong thôn/bản cũng có trách nhiệm giám sát hoạt động của các tổ khác trong thôn. 
Hình 4. Mô hình PCCCR và bảo vệ rừng thôn bản 
+ Hàng tháng các tổ họp đánh giá kết quả hoạt động, và có một cuộc họp toàn thôn để 
đánh giá kết quả hoạt động của các tổ. 
+ Mặc dù mỗi một tổ đều có kế hoạch PCCCR riêng nhưng đều phải tuân thủ quy ước 
của thôn/bản về PCCCR. 
- Thuận lợi: 
+ Dễ dàng tiếp cận đến khu vực rừng bảo vệ cũng như khu vực rừng có nguy cơ cháy. 
+ Chủ động hơn trong công tác PCCCR. 
+ Huy động được sự tham gia trực tiếp của người dân, các hộ gia đình trong thôn. 
+ Phát huy được tinh thần đoàn kết trong toàn thôn. 
- Khó khăn: 
+ Là mô hình mới nên việc vận dụng sẽ có những khó khăn nhất định, số người tự 
nguyện đăng ký tham gia mô hình có thể sẽ không nhiều nếu họ không nhìn thấy lợi ích. 
+ Đa số họ chưa được tập huấn về công tác PCCCR, công tác tuyên truyền PCCCR. 
+ Trình độ dân trí thấp nên công tác tuyên truyền sẽ có nhiều hạn chế. 
- Giải pháp cho công tác Phòng cháy: 
+ Lấy công tác tuyên truyền làm đầu, bởi trước đây việc tuyên truyền về PCCCR chỉ 
tập trung vào một nhóm đối tượng thì nay tất cả những thành viên tham gia mô hình đều có 
trách nhiệm tuyên truyền về vấn đề này. 
+ Thực hiện việc thu dọn vật liệu cháy dưới tán rừng hàng năm, thời điểm trước mùa 
khô, đặc biệt là đối với rừng trồng (Thông, Sa mộc). 
+ Phát đường băng cản lửa, đặc biệt là khu vực rừng giáp biên giới với Trung Quốc vì 
tình trạng cháy lan từ Trung Quốc thường xuyên xảy ra. 
- Giải pháp cho công tác chữa cháy: 
+ Việc chữa cháy là trách nhiệm của mỗi thành viên, do đó việc vận động người tham 
gia chữa cháy là trách nhiệm của mỗi thành viên, hoặc ít nhất khi có cháy rừng xảy ra thì mỗi 
gia đình trong thôn bản đều có ít nhất một người tham gia chữa cháy. 
- Đối với công tác phát triển rừng: Ngoài tham gia công tác PCCCR thì các hoạt động 
về phát triển rừng cũng cần được triển khai thực hiện như phát dây leo, bụi rậm, chặt tỉa thưa 
cây phi mục đích. 
- Xây dựng quỹ hoạt động: Nguồn kinh phí để xây dựng quỹ nên được xây dựng từ tiền 
khoán bảo vệ rừng hàng năm. Ngoài ra nếu những ai trong thôn vi phạm công tác BVR, 
PCCCR thì sẽ bị phạt bằng tiền theo quy định của nhà nước, số tiền này được nộp về quỹ để 
hoạt động. 
Ban quản lý thôn 
Tổ BVR, PCCCR 1 Tổ BVR, PCCCR 3 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Tổ BVR, PCCCR 2 
- Hưởng lợi: Những hộ gia đình chủ động, tích cực tham gia công tác BVR, PCCCR sẽ 
được hưởng lợi như: được khai thác gỗ để làm nhà, chuồng trại theo quy định của nhà nước và 
thôn bản. Những ai phát hiện đối tượng vi phạm và báo cáo về ban quản lý thôn sẽ được 
thưởng. Những ai tham gia công tác trực cháy, tuần tra bảo vệ rừng sẽ được ghi công và chi trả 
kinh phí được trích từ quỹ. 
c. Mô hình PCCCR và BVR theo nhóm hộ 
Ở hình thức QLRNH, lợi ích đáng kể từ rừng cho mỗi hộ và sự tương đồng về sở thích, 
dòng tộc và nơi sống gần gũi được coi là các nhân tố góp phần quan trọng vào tính hiệu quả về 
khả năng giám sát và thực thi quy định quản lý rừng của nội bộ các thành viên trong nhóm 
cũng như làm giảm chi phí quản lý trong quản lý rừng. 
So với hình thức QLRTB, hình thức QLRNH thường có đặc trưng bởi kích thước nhóm 
khá nhỏ và có sự đồng nhất khá cao về thành phần dân tộc hay sở thích của các hộ thành viên. 
Thông thường, kích thước của một nhóm hộ quản lý rừng ít khi lớn hơn 20 hộ. 
Trong tình hình hình thực tiễn hiện nay ở Hà Giang, đối với những thôn bản đã giao đất 
cho hộ gia đình thì nên áp dụng hình thức quản lý rừng theo nhóm hộ. Mặt khác Hà Giang với 
phần lớn người dân là dân tộc H’Mông thường sống ở vùng núi cao, nhiều thôn bản dân cư 
phân bố thưa thớt, do đó việc áp dụng mô hình PCCCR theo nhóm hộ sẽ có tính khả thi khi các 
hộ ở gần nhau liên kết với nhau để bảo vệ rừng. Hình thức tổ chức BVR, PCCCR theo nhóm 
hộ được mô phỏng như sau: 
Hình 5. Mô hình BVR, PCCCR theo nhóm hộ 
Mô hình BVR, PCCCR theo nhóm hộ được đề xuất thực hiện tại 06 thôn bản gồm: 
+ Thôn Lô Lô Chải, thôn Xì Mần Kha, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn; 
+ Thôn Má Lé, Má Lủng A, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn; 
+ Bản Máy, xã Bản Máy, huyện Hoàng Su Phì và; 
+ Thôn Hòa Bắc, xã Thuận Hòa, huyện Vị Xuyên. 
- Thành phần tham gia: Chủ yếu là các nhóm hộ sống tập trung trên 1 khu vực của một 
thôn, bản nào đó. 
- Cách thức hoạt động: 
+ Các hộ gia đình có cùng quan hệ dòng tộc, hay cùng sở thích, lứa tuổi, hay có diện 
tích rừng liền kề nhau thành một nhóm để cùng nhau BVR, PCCCR. Số lượng hộ trên một 
nhóm chỉ khoảng 10 hộ. 
+ Mỗi một nhóm sẽ tự tổ chức công tác BVR, PCCCR cho nhóm mình. Mỗi nhóm sẽ 
cử ra một nhóm trưởng, nhóm trưởng sẽ có trách nhiệm phân công, bố trí lịch tuần tra BVR, 
PCCCR cho các thành viên trong nhóm đồng thời có trách nhiệm giám sát hoạt động của các 
Ban quản lý thôn 
Nhóm hộ 1 Nhóm hộ 3 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Hộ 
thành 
viên 
Nhóm hộ 2 
nhóm viên. Các hộ trong nhóm cũng có trách nhiệm giám sát hoạt động của mỗi hộ trong 
nhóm. 
+ Hàng tháng nhóm sẽ họp đánh giá kết quả hoạt động, rút kinh nghiệm. 
+ Mặc dù là các nhóm tự hình thành nhưng hoạt động của nhóm vẫn phải tuân thủ 
phương án về BVR, PCCCR của xã, quy ước về BVR, PCCCR của thôn, do chính người dân 
trong thôn tự xây dựng. 
- Ưu điểm: 
+ Dễ dàng tiếp cận đến khu vực rừng bảo vệ cũng như khu vực rừng có nguy cơ cháy. 
+ Chủ động hơn trong công tác PCCCR. 
- Nhược điểm: 
+ Việc vận động người dân ở các nhóm hộ khác tham gia chữa cháy sẽ khó khăn vì có 
thể họ sẽ hiểu đó không thuộc nhiệm vụ của mình nếu rừng bị cháy không thuộc nhóm mình 
quản lý. 
+ Phải tự chủ về kinh phí hoạt động. 
- Giải pháp cho công tác phòng cháy 
Các hộ gia đình phải chủ động liên kết với nhau để: Phát dọn dây leo, bụi rậm, thu dọn 
vật liệu cháy dưới tán rừng, làm đường băng trắng cản lửa, cắt cử thay nhau tuần tra, bảo vệ 
rừng. 
- Giải pháp cho công tác chữa cháy 
Phải có sự thống nhất với ban quản lý thôn và các nhóm hộ trong việc tham gia chữa 
cháy, đó là khi có cháy rừng thì tất cả người dân trong các nhóm hộ khác đều phải có trách 
nhiệm tham gia chữa cháy. 
3.4.2. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả của các mô hình PCCCR 
a.Giải pháp về cơ chế, chính sách 
- Đối với cấp tỉnh, hàng năm cần có các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn công tác bảo vệ 
rừng, PCCCR để các địa phương có định hướng trong công tác lập kế hoạch và tổ chức thực 
hiện. 
- Có các văn bản hướng dẫn cụ thể hình thức xử phạt, mức phạt để các địa phương có 
cơ sở áp dụng trong thực tiễn quản lý. 
- Tỉnh cần đầu tư kính phí cho công tác tập huấn, hướng dẫn người dân trong việc 
PCCCR, cụ thể: Tập huấn về kỹ thuật đốt nương an toàn, diễn tập PCCCR, kỹ thuật PCCCR 
b. Giải pháp về kỹ thuật 
Quá trình quản lý bảo vệ rừng, PCCCR đòi hỏi người dân phải nắm bắt được kỹ thuật 
trong hoạt động để có thể đạt được cả mục tiêu bảo vệ rừng và phát triển rừng. Do đó đào tạo 
tập huấn, nâng cao năng lực cho cộng đồng trong quản lý rừng, PCCCR là rất cần thiết. 
Tập huấn cho người dân: về kỹ thuật phát đốt nương an toàn, kỹ thuật phát băng trắng 
cản lửa, vệ sinh rừng, kỹ thuật đốt trước, phòng cháy và chữa cháy rừng an toàn và hàng năm 
tổ chức diễn tập PCCCR. 
Đối với các hoạt động này, Chi cục Kiểm lâm của tỉnh nên là đơn vị chủ động trong 
việc xây dựng kế hoạch, lập phương án về kinh phí và đề xuất với tỉnh để được triển khai hàng 
năm nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức cho người dân trong công tác BVR, PCCCR. 
c. Giải pháp về tuyên truyền 
Công tác tuyên truyền cần được thay đổi để đạt hiệu quả hơn: Tăng thời lượng tuyên 
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (loa phát thanh hàng ngày) như một giải pháp 
mưa dầm thấm lâu; Tăng số lượng pano ở các địa điểm sinh hoạt cộng đồng như: chợ, hội 
trường xã, hội trường thôn bản, trường học; Tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ rừng PCCCR 
ngay trong trường học; Tuyên truyền thông qua giáo dục pháp luật: Xử phạt lưu động hoặc 
công khai danh sách các đối tượng vi phạm đối với công tác bảo vệ rừng, PCCCR được xem 
như là một hình thức răn đe các đối tượng khác trong cộng đồng.Đối với các đối tượng chống 
đối có thể dùng công cụ quản lý nhà nước để xử lý. 
d. Giải pháp về tổ chức thực hiện 
- Đối với cấp xã cần xây dựng phương án PCCCR hàng năm dựa trên kế hoạch PCCCR 
của huyện để có được sự phối hợp của nhiều bên. 
- Đối với các thôn bản cần xây dựng quy ước thôn bản trong PCCCR để mọi người 
trong thôn được đóng góp ý kiến và có cơ sở thực hiện. 
IV. KẾT LUẬN 
1. Ở Hà Giang hiện đang tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng cao với cả rừng tự nhiên và rừng 
trồng. Các vùng trọng điểm cháy là Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Mèo Vạc, Quản Bạ... Các loại 
rừng có nguy cơ cháy cao nhất là rừng trồng Thông, Sa mộc,Giang nứa, rừng giáp ranh khu 
vực biên giới với Trung Quốc. 
2. Nguyên nhân tự nhiên và nhân sinh chủ yếu của cháy rừng ở Hà Giang là do có 
nhiều trạng thái rừng dễ cháy với khối lượng lớn vật liệu dưới rừng, nhận thức và kiến thức 
về PCCCR của của người dân còn rất thấp, một số cán bộ còn chưa hiểu đúng quy định của 
Nhà nước về trách nhiệm của địa phương trong PCCCR. Một số địa phương chưa áp dụng 
đầy đủ những biện pháp PCCCR. 
3. Các mô hình PCCCR trong các cộng đồng thôn bản ở Hà Giang được thành lập và 
kiện toàn hàng năm theo kế hoạch PCCCR của huyện, xã với số lượng người tham gia rất ít, 
chủ yếu chỉ làm kiêm nhiệm, không được hỗ trợ kinh phí hoạt động, họ hầu như không 
thựchiện được hoạt động tuần tra rừng mà chỉ có thể tham gia trực cháy và chữa cháy rừng. 
Thiếu sự tham gia của cộng đồng trong các mô hình nên hoạt động không hiệu quả. 
4. Có thể khuyến khích cộng đồng tham gia vào công tác PCCCR thôn bản bằng cách 
xây dựng các mô hình PCCCR trong cộng đồng, do chính cộng đồng quản lý, tổ chức và thực 
hiện. 
5. Để các mô hình PCCCR cộng đồng hoạt động có hiệu quả cần có các giải pháp 
đồng bộ hỗ trợ như: Cơ chế chính sách, kỹ thuật, tuyên truyền, tổ chức thực hiện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2004), Cẩm nang phòng cháy và chữa cháy rừng, Hà Nội. 
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Diễn biến cháy rừng,  
3. Cục Kiểm lâm (2010), Số liệu cháy rừng,  
4. Phạm Ngọc Hưng (2004), Quản lý cháy rừng ở Việt Nam, Nxb Nghệ An, 2004. 
5. Ball, JB, Wormald T,J and Russo (1995), Experience with mixed and single species 
plantations. 
6. Timo V, Heikkla, Roy Gronqovist, Mike Jurvelius (2007), Wildland Fire management, 
Handbook for trainer, Helsinki, pp, 76 – 248. 
FOREST FIRES IN HA GIANG, REALITY AND SOLUTIONS 
Vu Duc Quynh, Mai Thi Thanh Nhan, Le Sy Doanh 
SUMMARY 
Recently, it is potentially high risk of forest fires both natural forests and plantations in Ha Giang 
province with the key areas such as Dong Van, Hoang Su Phi, Meo Vac, Quan Ba, etc. Kinds of forest with the 
highest risk of fires are plantations of Pine, Cunninghamia konishii Hayata, Melocalamus compactiflorus (Kurz) 
Benth, forest bordered with China. The main of objective and subjective reasons of forest fires are kinds of 
combustible forests, large volumes of material under the forest, awareness and knowledge of the people on 
forest fire prevetion and fighting is very low. The models of forest fire prevetion and fighting in the village 
community in Ha Giang province with the number of people participating is very little, mostly just do 
concurrently, not be funded to operate. They hardly patrol but only guard and fight forest fires. The development 
of these models was without the involvement of community, so mobilizing community was very difficult when 
forest fires were occured. To encourage participation of community in the forest fire prevetion and fighting by 
building models of forest fire prevetion and fighting in the community, and were managed, operated and 
implemented by community. For the effective of these models, synchronous solutions for support are required, 
such as: Solutions on mechanisms and policies, technical solutions, solutions on communication, solutions on 
implementation. 
Keywords: Community, Forest fire prevention and fighting, Ha Giang province. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ay_rung_o_ha_giang_thuc_trang_va_nhung_giai_phap_phong_chay.pdf ay_rung_o_ha_giang_thuc_trang_va_nhung_giai_phap_phong_chay.pdf