Bài giảng Biến chứng sau tiêm chất làm đầy
3. XỬ LÝ BIẾN CHỨNG TRONG TIÊM CHẤT
LÀM ĐẦY
Tùy vào từng loại biến chứng mà bác sĩ có thể
lựa chọn cách xử lý thích hợp. Điều cần lưu ý là
thời gian có vai trò quan trọng số 1 trong việc xử
lý biến chứng do tiêm chất làm đầy, đặc biệt là
các biến chứng liên quan tới tắc mạch máu (như
tắc động mạch mắt và tắc động mạch não). Đối
với tắc động mạch võng mạc thì thời gian vàng
để cứu mắt khỏi bị mù là chỉ từ 60 - 90 phút sau
tiêm [7].
Đối với các biến chứng liên quan tới nhiễm
trùng thì cần điều trị kháng sinh tại chỗ, toàn thân.
Đối với các biến chứng liên quan tới tắc mạch
do hyaluronic acid thì cần dùng thuốc giải làm
tiêu chất làm đầy, giải phóng mạch tắc.
Trong trường hợp bệnh nhân xuất hiện các
biến chứng nguy hiểm vượt quá khả năng xử trí
cần chuyển bệnh nhân tới chuyên khoa thích hợp
như chuyên khoa mắt, chuyên khoa thần kinh
càng sớm càng tốt [8].
Nếu tắc mạch do các chất làm đầy không phải
hyaluronic acid thì phải lấy chất làm đầy ra khỏi cơ
thể càng nhiều càng tốt, càng sớm càng tốt.
Bệnh nhân bị biến chứng sau tiêm filler,
do nhân viên spa tiêm
Hậu quả để lại sẹo biến dạng đầu mũi
4. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG BIẾN CHỨNG TRONG
TIÊM CHẤT LÀM ĐẦY
Người thực hiện thủ thuật tiêm chất làm đầy
phải là bác sĩ có kiến thức đầy đủ về giải phẫu,
được đào tạo về kỹ thuật tiêm và các xử lý các
biến chứng trước, trong và sau khi tiêm.
Sử dụng kim đầu tù canulla thay cho kim
nhọn để giảm nguy cơ làm tổn thương mạch máu.
Hút ngược trước khi tiêm để xem có chọc vào
mạch máu hay không. Tiêm dưới áp lực thấp.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Biến chứng sau tiêm chất làm đầy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
'IʁN Ĉ¬N
55Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
BIEÁN CHÖÙNG SAU TIEÂM CHAÁT LAØM ÑAÀY
Phạm Cao Kiêm*, Lê Thanh Hiền*
1. ĐẠI CƯƠNG VỀ CHẤT LÀM ĐẦY
Chất làm đầy (hay filler) hiện nay là một sản
phẩm được sử dụng khá nhiều trong ngành thẩm
mỹ, đặc biệt là thẩm mỹ vùng mặt với nhiều mục
đích khác nhau như trẻ hóa da hay độn cấu trúc.
Đa số các sản phẩm chất làm đầy có thể được
dung nạp tốt, nhưng chúng có thể gây các biến
chứng sau tiêm bao gồm các biến chứng gần và
biến chứng xa; biến chứng nhẹ, thoáng qua và
biến chứng nguy hiểm có thể để lại di chứng.
Trong đó các biến chứng nguy hiểm có thể kể
đến như tắc mạch, hoại tử, mù lòa và tắc mạch
não. Biến chứng hoại tử mũi chiếm 33,3%, hoại
tử rãnh mũi má 31,2%, Một nửa các biến chứng
mù mắt là do tiêm ở vùng giữa hai cung mày. Tuy
nhiên, tỷ lệ biến chứng nặng tương đối thấp chỉ
khoảng 0,0001% các trường hợp [1].
Để thực hiện an toàn thủ thuật tiêm chất làm
đầy bác sĩ cần phải nắm rất rõ giải phẫu vùng mặt
đặc biệt là giải phẫu mạch máu, nhận biết những
vùng nguy hiểm trước khi tiêm để có thể hạn chế
tối đa nguy cơ xuất hiện các biến chứng sau tiêm.
Đồng thời với việc am hiểu sâu sắc giải phẫu là
thực hiện kỹ thuật tiêm thuần thục và chuẩn xác.
Để thực hiện tốt các thủ thuật tiêm chất làm đầy
bác sĩ cần phải được đào tạo trong một khoảng
thời gian nhất định. Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng
như trên thế giới, thủ thuật tiêm chất làm đầy có
thể được thực hiện bởi những người không phải
bác sĩ, không được đào tạo. Hiện tượng này ngày
một trở nên phổ biến do nhu cầu làm đẹp tăng
lên và do cơ chế quản lý còn lỏng lẻo và do đó,
tỷ lệ gặp phải biến chứng sau tiêm chất làm đầy
cũng tăng theo.
2. BIẾN CHỨNG
Các biến chứng trong tiêm chất làm đầy
thường được phân thành các biến chứng sớm và
các biến chứng muộn nhằm lựa chọn cách xử trí
hợp lý [2].
Biến chứng sớm (vài ngày tới vài tuần) Biến chứng muộn (vài tuần tới vài năm)
Phản ứng tại chỗ tiêm: sưng, đỏ, bầm tím, đau, ngứa,
nhiễm trùng,
Phản ứng u hạt.
Khối hoặc cục dưới da do tiêm sai kỹ thuật. Dị vật.
Hiệu ứng Tyndall do tiêm thuốc quá nông. Chất làm đầy bị di chuyển khỏi vị trí ban đầu.
Hoại tử mô. Sẹo.
Biến chứng mắt: mù lòa, giảm thị lực, liệt mắt, lác mắt,
sụp mắt,
Màng sinh học.
Tai biến mạch máu não. Rối loạn sắc tố.
Phản biện khoa học: PGS.TS. Phạm Thị Lan
*Bệnh viện Da liễu Trung ương
'IʁN Ĉ¬N
56 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
Hiệu ứng Tyndall: hiệu ứng Tyndall là do tiêm
chất làm đầy quá gần với bề mặt da dẫn đến hiện
tượng tại vùng tiêm da chuyển sang màu tím [3].
Ngoài ra, biến chứng trong tiêm chất làm
đầy có thể được phân loại theo nguyên nhân bao
gồm: tiêm sai vị trí, kỹ thuật tiêm không đúng,
phản ứng dị ứng quá mẫn với chất làm đầy và các
biến chứng liên quan tới mạch máu.
Trong các biến chứng sau tiêm chất làm đầy
thì biến chứng tắc mạch là biến chứng nguy hiểm
nhất. Tắc động mạch tại chỗ theo hai cơ chế là cơ
chế chèn ép và cơ chế huyết khối dẫn tới hoại tử
mô với biểu hiện da tái nhợt và rất đau ngay sau khi
tiêm, nếu bệnh nhân đến muộn sẽ có các biểu hiện
là đỏ da hình mạng lưới, xuất huyết, loét và sẹo.
Biến chứng tắc động mạch biểu hiện sớm
ngay sau khi tiêm với biểu hiện đau, da vùng chi
phối bởi động mạch tái nhợt do thiếu máu nuôi
dưỡng. Dần dần da chuyển sang đỏ hình mạng
lưới, xuất huyết, loét và cuối cùng để lại sẹo.
Tắc tĩnh mạch là do tiêm trực tiếp vào tĩnh
mạch hoặc tiêm một lượng lớn chất làm đầy vào
vùng hạn chế khối tổ chức tự nhiên. Biểu hiện lâm
sàng thường muộn, đau âm ỉ, phù nề, tím hình
mạng lưới [4].
Biến chứng tắc động mạch mắt dẫn tới mù
lòa là biến chứng nguy hiểm nhất và cũng được
quan tâm nhiều nhất. Biến chứng này có thể diễn
ra theo hai cơ chế là cơ chế xuôi chiều và cơ chế
ngược chiều. Để hạn chế tối đa biến chứng này,
bác sĩ cần phải nắm rõ giải phẫu mạch máu vùng
mặt và cần phải tránh những vùng nguy hiểm
trong khi thực hiện thủ thuật tiêm chất làm đầy.
Vùng nguy hiểm trong tiêm chất làm đầy vùng
mặt gồm 4 vùng:
- Vùng cánh mũi và lưng mũi (vùng phân bố
của động mạch cánh mũi bên, động mạch lưng
mũi và động mạch góc).
- Vùng giữa hai lông mày (vùng phân bố của
động mạch trên ổ mắt và động mạch trên ròng rọc)
- Vùng má - rãnh mũi má (vùng phân bố của
động mạch mặt, động mạch góc và động mạch
dưới ổ mắt) [5].
- Vùng nguy hiểm là vùng cần tránh khi thực
hiện thủ thuật vì nguy cơ chạm mạch máu cao
hơn, nguy cơ gây tắc động mạch mắt cao hơn.
Trong đó, vùng giữa hai lông mày là vùng có tỷ lệ
gặp biến chứng tắc động mạch mắt cao nhất, tiếp
đến là vùng rãnh mũi má và cuối cùng là vùng
cánh mũi - thân mũi.
Trong các sản phẩm chất làm đầy được sử
dụng thì mỡ tự thân có tỷ lệ gây tắc động mạch
mắt cao nhất (chiếm 50%), tiếp đến là hyaluronic
acid, collagen,...[6]. Trong đó, chỉ có hyaluronic
acid là có thuốc giải hyaluronidase còn những
chất làm đầy khác thì không có. Do đó, khi gặp
phải biến chứng tắc mạch do các chất làm đầy
không phải hyaluronic acid thì việc xử lý là rất khó.
Tổng kết 8 bệnh nhân bị biến chứng sau tiêm
filler năm 2018 tại Bệnh viện Da liễu Trung ương
chúng tôi thấy:
- Người tiêm: 75% người tiêm là nhân viên
chăm sóc da tại các spa, thẩm mỹ viện. Họ không
phải là bác sĩ, không được đào tạo bài bản về giải
phẫu, kỹ thuật tiêm, không được phép hành nghề
tiêm filler nhưng bệnh nhân vẫn để họ tiêm. Số
người tiêm gây biến chứng còn lại là bác sĩ và
điều dưỡng.
- Vị trí tiêm: mũi 100%.
- Kim tiêm: Kim nhọn 87,5%, kim tù 12,5%.
'IʁN Ĉ¬N
57Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
- Dung tích filler: 0,9 - 1,5 ml, trung bình 1,19
± 0,26 ml.
- Hậu quả: một bệnh nhân bị mù mắt vĩnh
viễn, hai bệnh nhân để lại sẹo biến dạng vùng
mũi, các bệnh nhân còn lại da trở về bình thường.
3. XỬ LÝ BIẾN CHỨNG TRONG TIÊM CHẤT
LÀM ĐẦY
Tùy vào từng loại biến chứng mà bác sĩ có thể
lựa chọn cách xử lý thích hợp. Điều cần lưu ý là
thời gian có vai trò quan trọng số 1 trong việc xử
lý biến chứng do tiêm chất làm đầy, đặc biệt là
các biến chứng liên quan tới tắc mạch máu (như
tắc động mạch mắt và tắc động mạch não). Đối
với tắc động mạch võng mạc thì thời gian vàng
để cứu mắt khỏi bị mù là chỉ từ 60 - 90 phút sau
tiêm [7].
Đối với các biến chứng liên quan tới nhiễm
trùng thì cần điều trị kháng sinh tại chỗ, toàn thân.
Đối với các biến chứng liên quan tới tắc mạch
do hyaluronic acid thì cần dùng thuốc giải làm
tiêu chất làm đầy, giải phóng mạch tắc.
Trong trường hợp bệnh nhân xuất hiện các
biến chứng nguy hiểm vượt quá khả năng xử trí
cần chuyển bệnh nhân tới chuyên khoa thích hợp
như chuyên khoa mắt, chuyên khoa thần kinh
càng sớm càng tốt [8].
Nếu tắc mạch do các chất làm đầy không phải
hyaluronic acid thì phải lấy chất làm đầy ra khỏi cơ
thể càng nhiều càng tốt, càng sớm càng tốt.
Bệnh nhân bị biến chứng sau tiêm filler,
do nhân viên spa tiêm
Hậu quả để lại sẹo biến dạng đầu mũi
4. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG BIẾN CHỨNG TRONG
TIÊM CHẤT LÀM ĐẦY
Người thực hiện thủ thuật tiêm chất làm đầy
phải là bác sĩ có kiến thức đầy đủ về giải phẫu,
được đào tạo về kỹ thuật tiêm và các xử lý các
biến chứng trước, trong và sau khi tiêm.
Sử dụng kim đầu tù canulla thay cho kim
nhọn để giảm nguy cơ làm tổn thương mạch máu.
Hút ngược trước khi tiêm để xem có chọc vào
mạch máu hay không. Tiêm dưới áp lực thấp.
'IʁN Ĉ¬N
58 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
Tiêm lượng chất làm đầy ít, lượng nhỏ 0,1 ml/
lần để tránh nguy cơ gây tắc mạch do chèn ép.
Tránh những vùng nguy hiểm trong khi thực
hiện tiêm chất làm đầy.
Hạn chế tối đa việc tiêm chất làm đầy vào vị
trí có sẹo cứng, co kéo vì dễ tiêm vào mạch máu.
Chỉ sử dụng các loại filler không phải
hyaluronic acid (như mỡ tự thân, collagen,
calcium hydroxylapatite) khi thật sự cần thiết.
Sau khi tiêm chất làm đầy bệnh nhân cần
được theo dõi để có thể phát hiện sớm và xử lý
kịp thời các biến chứng có thể xảy ra [5].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cemile Nurdan Ozturk, Rebecca Tung,
Lydia Parker, Melissa Peck Piliang, and James
E. Zins (2013), Complications Following Injection
of Soft-Tissue Fillers. Aesthetic Surgery Journal,
33(6): 862 - 877.
2. Fernando Urdiales-Galvez, N.E.D.,
Vitor Figueiredo (2018), Treatment of Soft
Tissue Filler Complications: Expert Consensus
Recommendations. Aesth Plast Surg, 42: 498 - 510.
3. Claudio DeLorenzi (2013), Complications
of Injectable Fillers, Part I. Aesthetic Surgery Journal,
33(4): 561 - 575.
4. Mohammed H. Abduljabbar (2016),
Complications of hyaluronic acid fillers and
their managements. Journal of Dermatology &
Dermatologic Surgery, 20: 100 - 106.
5. Claudio DeLorenzi (2014), Complications
of Injectable Fillers, Part 2: Vascular Complications.
Aesthetic Surgery Journal, 34(4): 584 - 600.
6. Sung Wook Park, S.J.W., Kyo Hyung
Park, Jang Won Huh et al (2012), , Iatrogenic
Retinal Artery Occlusion Caused by Cosmetic Facial
Filler Injections. Am J Ophthalmol, 154: 653 - 662.
7. Lee Walker (2017), Visual Loss Secondary
to Cosmetic Filler Injection. Managing. Aesthetic
Complications Expert Group, 2 - 9.
8. Kwok Thye David Loh, Hung Ming Lee,
Joyce Teng-Ee Lim, Gerard Chuah, Benjamin
Yim, Boon Kwang Puah (2016), Prevention and
management of vision loss relating to facial filler
injections. Singapore Med J, 57(8): 438 - 443.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bai_giang_bien_chung_sau_tiem_chat_lam_day.pdf