2- Xếp loại:
Là nhạc khí bộ hơi, miệng thổi dăm đơn, có vai trò quan trọng trong dàn
nhạc Jazz.
3- Hình thức cấu tạo:
Soprano Saxophone làm bằng kim loại, hình dáng giống Clarinet bass,
thân kèn ở gần miệng cũng uốn cong như cổ ngỗng.
Saxophone chia làm 6 loại:
Saxopiccolo: Mi b hay Fa
Saxofono Sopranino: Si b
Saxo Alto: Mi b
Saxophone Tenor: Si b
Saxo Barytone: Mi b
Saxo Basso: Si b
4- Màu âm, tầm âm:
Soprano Saxophone có âm chất trung gian giữa kèn đồng và kèn gỗ
âm thanh hơi kích động, ngân rung, âm lượng lớn rất vang.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Soprano Saxophone được tạo âm bởi khối không khí chứa trong nhạc
cụ, Soprano Saxophone được sử dụng đệm trong dàn nhạc hoặc độc tấu.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Soprano Saxophone giữ vai trò quan trọng trong dàn nhạc Jazz.
64 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 585 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng môn học nhạc khí phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Đàn
Tam cỡ nhỏ và cỡ vừa có thể đánh giai điệu và hòa âm. Đàn Tam có thể diễn
tấu các bản nhạc có tốc độ nhanh, đánh láy đầu, láy đuôi hoặc biến tấu. Về
âm lượng Đàn Tam có thể vang bằng hai đàn dây gảy khác, loại Tam cỡ lớn
có thể tăng thêm âm trầm cho Dàn nhạc.
2- Xếp loại :
Đàn Tam là nhạc khí dây gảy loại có dọc (cần đàn), một số các nước
khác ở Châu Á cũng có. Đàn Tam được nhập vào Việt Nam với mặt đàn bịt
da, nó cùng loại với Banjo Châu Phi.
3- Hình thức cấu tạo :
Nhạc khí dây gảy có ba dây, ba cỡ: đại, trung và tiểu, loại tiểu là phổ
biến nhất.
4- Màu âm, tầm âm:
Màu âm Đàn Tam trong sáng mà lại ấm, vang, khoảng âm thấp hơi đục,
thích hợp với nhạc điệu sôi nổi, khoẻ khoắn và trầm hùng. Tầm âm: Đàn Tam
rộng gần 3 quãng tám. Tầm âm Đàn Tam nhỏ từ: Sol lên Sol3 (g lên g3), Tam
vừa từ: Sol-1 lên Sol2 (g-1 lên g2). Tầm âm Đàn Tam lớn từ: Sol-2 lên Sol1 (g-2
lên g1).
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Đàn Tam được tạo âm bởi sự rung của dây, kỹ thuật tay phải: nghệ
nhân để móng tay dài, sử dụng ngón cái và ngón trỏ để gảy, có người dùng
móng bằng sừng, bằng nhựa có vòng đeo chặt vào đầu ngón tay (như móng
gảy Đàn Tranh), hiện nay phổ biến nhất là sử dụng miếng gảy. Khi biểu diễn
Đàn Tam, sử dụng miếng gảy, móng tay hoặc móng đeo không khác biệt lắm.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Đàn Tam thường được sử dụng trong Phường Bát âm, Dàn nhạc Sân
khấu Chèo, ngày nay Đàn Tam đã được đưa vào Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp
hòa tấu gọi là Tam 1, có thêm một dây thành 4 dây, lên dây: Sol, Rê1, La1,
Mi2. Người ta còn sáng chế ra Đàn Tam 2 lên dây: Đô, Sol, Rê1, La1 và Đàn
Tam đại lên dây như Tam 2, nhưng thấp hơn một quãng 8.
V. ĐÀN GHI TA VIỆT NAM
1- Giới thiệu sơ lược :
Ghi-Ta Việt Nam còn được gọi là Ghi-Ta phím lõm hay Ghi-Ta Vọng
Cổ, Đàn Lục Huyền Cầm hoặc Ghi-Ta Cải lương rất thịnh hành tại Việt Nam.
Ghi-Ta Việt Nam là cây đàn được cải biến từ Đàn Guitare cổ điển, phát sinh
từ vùng đất Nam Bộ Việt Nam.
2- Xếp loại :
Ghi-ta là nhạc khí dây gảy loại có dọc (cần đàn), có nguồn gốc từ Tây
Ban Nha nhập vào Việt Nam và được người Việt cải tạo và trở thành nhạc khí
của Việt Nam.
3- Hình thức cấu tạo:
Ghi-Ta Việt nam là nhạc khí dây gảy, giống như loại Guitare phối hợp
tức là Guitare cổ điển nhưng thùng đàn dẹp và cần đàn hẹp hơn. Ghi-Ta Việt
Nam có bàn phím lõm khoét sâu vào dọc (cần đàn).
4- Màu âm, tầm âm:
Màu âm Đàn Ghi-Ta Việt Nam trong sáng mà lại ấm, vang.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Đàn Ghi-ta Việt Nam được tạo âm bởi sự rung của dây, kỹ thuật tay trái
có ngón láy, ngón luyến, ngón bật, ngón mổ, ngón bịt và đặc biệt là ngón vuốt
vì dọc (cần đàn) Ghi-ta Việt Nam có bàn phím lõm, ngón này thường kết hợp
với ngón vê của tay phải.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Đàn Ghi-ta Việt Nam chủ yếu được sử dụng trong các buổi đàn ca Tài
tử hoặc trong các Dàn nhạc Cải Lương (ghi-ta phím lõm điện).
VI. ĐÀN BẦU
1- Giới thiệu sơ lược :
Đàn Bầu (còn gọi là Đàn Độc huyền) là loại đàn một dây của dân tộc
Việt và một số dân tộc khác như Mường (Tàn Máng), dân tộc Chăm (Rabap
Katoh), theo sách Đại Nam Thực Lực Tiền Biên, trang 236, quyển 11 của Nhà
xuất bản Sử học- Hà Nội 1962- Đàn Bầu được chế tạo năm 1770.
2- Xếp loại :
Đàn Bầu là nhạc khí dây gảy loại không có dọc (cần đàn), do người Việt
Nam sáng tạo ra. Đàn Bầu là nhạc khí phổ biến tại Việt Nam.
3- Hình thức cấu tạo:
Đàn Bầu hình hộp dài, đầu đàn hơi cao và thuôn hẹp hơn cuối đàn. Mặt
đàn bằng gỗ hơi phồng lên, chung quanh thành đàn làm bằng gỗ cứng. Đáy
kín nhưng có khoét lỗ vuông ở cuối đàn, dùng để mắc dây và thoát âm.
4- Màu âm, tầm âm:
Tiếng Đàn Bầu rất đẹp vì âm thanh phát ra toàn là âm bồi, tiếng đàn
mềm mại, ngọt ngào, lắng sâu vào tình cảm của con người.
Tầm âm:
Đàn Bầu rộng 5 quãng tám từ La-2 đến Sol3 (a-2 đến g3), sử dụng âm
bồi nên màu âm của Đàn Bầu ngọt ngào, quyến rũ. Âm lượng của Đàn bầu
nhỏ để phục vụ được nhiều người, người ta đã khuyếch đại âm thanh bằng
cách điện tử hóa và đã đạt được thành công là âm thanh Đàn Bầu vang to mà
vẫn giữ được màu âm độc đáo.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Đàn Bầu được tạo âm bởi sự rung của dây, kỹ thuật tay phải: tay phải
hơi khum lại, ngón trỏ và ngón cái khép lại và kẹp một chiếc que gảy. Khi gảy
bàn tay mở ngược lên, lòng tay hướng lên trên, cạnh bàn tay tì nhẹ lên dây
đàn đúng vào vị trí các phím đàn. Sau khi gảy dây: bằng sự va chạm giữa dây
đàn và que gảy sẽ tạo nên một âm thanh, ngay khi đó bàn tay phải nhanh
chóng nhấc ngay lên. Vị trí nốt trên Đàn Bầu có thể được đánh dấu nhưng vì
dây đàn được mắc cao hơn thân đàn và chéo góc nên độ chính xác không
bằng các đàn có ngăn phím hẳn hoi. Như vậy người nghệ sĩ Đàn Bầu phải kết
hợp cả mắt và tai nghe nữa, nhất là khi diễn tấu tác phẩm có tốc độ nhanh thì
nhất thiết phải có sự kết hợp hài hòa và chính xác. Một điều nữa tay phải còn
phải điều chỉnh độ mạnh, nhẹ, âm thanh cứng hay mềm (đó là sự điều tiết
cường độ và sắc thái của tiếng đàn).
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Người Việt thường sử dụng Đàn Bầu để độc tấu, đệm cho ngâm thơ,
tham gia trong Ban nhạc Tài Tử, Ban nhạc Xẩm. Gần đây Đàn Bầu tham gia
trong Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp, Dàn nhạc Giao hưởng Dân tộc, Dàn nhạc
Sân khấu Chèo, Cải Lương. Đặc biệt đã có những tác phẩm viết cho Đàn Bầu
độc tấu cùng Dàn nhạc Giao hưởng.
VII. ĐÀN TRANH
1- Giới thiệu sơ lược :
Đàn Tranh còn gọi là đàn thập lục, là nhạc khí dây gảy 16 dây phổ biến
trong dân tộc Việt. Theo sách Lê Quý Đôn đàn Tranh có từ đời Trần vào
khoảng thế kỷ XII-XIII.
2- Xếp loại :
Đàn Tranh là nhạc khí dây gảy loại không có dọc (cần đàn). Đàn Tranh
rất phổ biến tại Việt Nam đồng thời một số nước khác ở Châu Á cũng có. Đàn
Tranh được nhập vào Việt Nam và trở thành đàn Việt Nam, nhiều tác giả cho
rằng Đàn Tranh Việt Nam là từ cây Zheng (Trung Quốc) nhập vào.
3- Hình thức cấu tạo:
Thùng đàn: hình hộp dài, chiều dài khoảng 110 cm, đầu đàn hẹp
khoảng 13cm, cuối đàn rộng khoảng 20cm.
4- Màu âm, tầm âm :
Đàn Tranh có âm cao, màu âm vui tươi, trong sáng, Tầm âm Đàn Tranh
tùy số lượng dây gồm 3 quãng 8 từ Đô lên Đô3 (C đến C3).
Khoảng âm dưới: âm thanh không được trong trẻo, thường dùng để
đánh đệm.
Khoảng âm giữa: âm thanh trong sáng, giàu sức diễn tả, vui tươi.
Khoảng âm cao: âm thanh hơi gắt, thường dùng để đánh ngón Á.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Đàn Tranh được tạo âm bởi sự rung của dây, tư thế ngồi và cách gảy
đàn: ngồi chiếu: nghệ nhân ngồi trên sàn diễn, xếp chân trên chiếu. Ngồi ghế:
nghệ nhân ngồi thẳng trên ghế, vắt chân trên ghế, đầu đàn đặt trên đùi, một
đầu gác trên giá hoặc đôn hoặc nghệ nhân ngồi trên ghế đàn được đặt trên
giá cao ngang tầm tay. Đứng: nghệ nhân đàn với tư thế đứng và đàn được
đặt trên giá cao ngang bằng tầm tay (khi đứng).
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Đàn Tranh thường được sử dụng để đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia
trong các Dàn nhạc Tài tử, Phường Bát âm, Dàn Nhã nhạc (khi sử dụng trong
Tế lễ), Dàn nhạc Sân khấu Chèo, Cải lương. Ngày nay đàn Tranh được sử
dụng rộng rãi như: độc tấu, song tấu, tam tấu, Đàn Tranh còn được đưa vào
Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp hòa tấu và đặc biệt đàn Tranh còn được đưa vào
độc tấu cùng với Dàn nhạc Giao hưởng (Concerto cho Đàn Tranh và Dàn
nhạc Giao hưởng)...
BÀI 6. BỘ DÂY KÉO – NHẠC KHÍ DÂY KÉO (Cung vĩ)
Nhạc khí dây kéo (cung vĩ) đã xuất hiện từ bao giờ? “Những đường
diễu trên những bệ đá kê chân một số cột ở Chùa Phật tích (Hà Bắc), nếu giá
trị phản ánh hiện thực lịch sử của nó có thể tin cậy được, sẽ cho phép ta
khẳng định là ít ra từ thế kỷ thứ X, ở Việt Nam đã có cây Hồ là một loại đàn
Vĩ” (GS.Tô Vũ - Nhạc khí với tính Dân tộc và tính Hiện đại- Tạp chí Nghiên
cứu Nghệ thuật số 2-1974). Cây Đàn Hồ trên bệ đá Chùa Phật Tích "có nguồn
gốc từ Trung Á phải chăng đã biến dạng qua Trung Hoa trước khi vào Việt
Nam" (PGS.TS Thụy Loan - Suy nghĩ về sức sống Việt Nam qua những
chặng đường sử nhạc- Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 1 - 1979). Đàn Hồ
và Nhị đã quen thuộc với người Việt từ lâu, được sử dụng trong Dàn nhạc và
ngoài dân gian, trong Dàn nhạc Cung đình, Dàn nhạc Tuồng, Chèo. Đàn Cò
(Nhị) gọi là Đàn Cò vì đầu cán Đàn Cò có hình vòng như cổ Cò, Đàn Cò (Nhị)
được phổ biến nhất. Đàn Gáo (Đàn Hồ) là loại đàn có bầu đàn làm bằng nửa
quả bầu giống hình cái Gáo, đàn Hồ thực tế là loại Đàn Cò (Nhị) trung âm,
Đàn Gáo thường hòa tấu chung Cò (Nhị) hoặc đệm cho hát. Trong hòa tấu
thính phòng Nam Bộ có Đàn Cò (Nhị) Cò Líu, Cò Lòn, Đàn Gáo. Những nhạc
khí dây kéo (cung vĩ) này tương đối đồng nhất về mặt màu âm, có khả năng
diễn tấu, thể hiện các phần giai điệu, hòa âm, sắc thái và dễ dàng dung hòa
với các nhạc khí khác trong dàn nhạc. Đây là Bộ Dây kéo (cung vĩ) tương đối
hoàn chỉnh giữ vai trò quan trọng trong Dàn nhạc Dân tộc.
I. ĐÀN CÒ (NHỊ)
1- Giới thiệu sơ lược :
Đàn Cò (còn gọi là Đàn Nhị) là nhạc khí dây kéo (bằng cung vĩ) có ở
Việt Nam hàng ngàn năm nay. Đàn Cò (Nhị) là nhạc khí phổ biến của Dân tộc
Việt và nhiều dân tộc khác như Dân tộc Mường (Cò ke), Tày (Cửa), Thái
(Xixơló), Giẻ-Triêng (Oong eng), Khmer (T'rôchéi) ... Ở mỗi dân tộc, Đàn Cò
(Nhị) được gọi bằng các tên khác và hình thức, kích thước, chất liệu cũng có
thay đổi, chút ít.
2- Xếp loại :
Đàn Cò (Nhị) là nhạc khí dây kéo (cung vĩ) ở một số nước Châu Á cũng
có, Đàn Cò (Nhị) nhập vào Việt Nam và trở thành đàn Việt Nam.
3- Hình thức cấu tạo:
Bầu cộng hưởng là bầu vang, hình hoa muống rỗng lòng, làm bằng gỗ
cứng, dài khoảng 13,8cm, một đầu bịt da Trăn hay da Kỳ đà. Đường kính
vòng ngoài khoảng 6,8cm, chỗ uốn cong của bầu có chu vi khoảng 13,4cm.
4- Màu âm, tầm âm :
Tầm âm của Đàn Cò (Nhị) rộng hơn hai quãng tám. Trong trường hợp
độc tấu có thể đánh tới những âm cao (nếu là Đàn Cò tốt) nhưng trong dàn
nhạc hòa tấu, chỉ nên dùng những âm trong vòng hai quãng tám tính từ âm
thấp nhất: âm thanh tốt, diễn tấu ít khó khăn.
Tầm âm của Đàn Cò (Nhị) có thể chia ra 4 khoảng âm với đặc tính như
sau: Khoảng âm dưới và khoảng âm giữa: tiếng đẹp, rõ ràng, đều đặn.
Khoảng âm cao và khoảng âm siêu cao: tiếng đàn trong sáng, những âm cao
quá tiếng đàn đanh, gay gắt, có thể sạn tiếng. Diễn tấu những âm này trong
nét nhạc nhanh tốt hơn để ngân dài hay đánh chậm và chỉ nên dùng trong
độc tấu.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Đàn Cò Nhị được tạo âm bởi sự rung của dây, âm thanh Đàn Cò (Nhị)
rất đẹp, gần giống như tiếng người do những ngón vuốt, ngón nhấn, những
thủ pháp cung vĩ liền, cung vĩ ngắt, ...tạo nên. Do thay đổi sắc thái, do mạnh
nhẹ tương đối dễ dàng nên Đàn Cò (Nhị) có nhiều khả năng diễn tả các mặt
tình cảm trữ tình, sâu lắng hoặc sinh động... Đàn Cò (Nhị) còn có thể mô
phỏng tiếng gió rít, tiếng chim hót. . . .
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Đàn Cò (Nhị) tham gia nhiều tổ chức Dàn nhạc như: Phường Bát âm,
Dàn Nhã nhạc, Ban nhạc Tài Tử, Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp. Các Dàn nhạc
Ca kịch dân tộc như Tuồng, Chèo, Cải Lương... Đàn Cò (Nhị) có thể độc tấu,
song tấu, hòa tấu. . . và đã được công nhận là nhạc khí có tác dụng quan
trọng trong Dàn nhạc, đặc biệt trong Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp.
Bộ Hơi (Aérophone): là nhạc khí được tạo âm bởi sự rung của khối không khí
chứa trong nhạc cụ. Trong kho tàng nhạc khí dân tộc Việt Nam, nhạc khí hơi
rất phong phú và độc đáo không kém các nhạc khí Dây Gảy hoặc Dây Kéo.
Nhạc khí Hơi đã có một lịch sử rất lâu đời, trên tang Trống Đồng ngày xưa
cách đây vài ba nghìn năm lịch sử, đã có chạm khắc những hình người thổi
khèn. Điều đó cho thấy ngay từ thời gian ấy đã có những chiếc Khèn, một
nhạc khí thổi hơi đa thanh do nhiều ống ghép lại, Khèn có thể thổi giai điệu và
những hòa thanh nhất định. Các nhạc khí thổi hơi khác như ống Sáo, Tiêu...
qua các hiện vật, tài liệu để lại chúng ta đã thấy những nhạc khí Hơi này đã
xuất hiện tại Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ X. Trong các di vật khảo cổ thuộc
Thời kỳ Hùng Vương, chúng ta đã nhìn thấy những nhạc cụ hơi như Khèn,
Sáo Trên bệ đá chân cột Chùa Phật Tích người ta đã thấy ống Tiêu trong Dàn
nhạc tám cây, Tiêu đã được tham gia ở Đường thượng Chi nhạc và nhóm
Nhạc Huyền ở các triều Hậu Lê và Nguyễn (Tô Vũ - Nhạc khí tính dân tộc và
hiện đại- Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 2- 1974). Nhạc khí dân tộc thổi
hơi có từ ống Sáo ngang, ống Tiêu đến cây Kèn, các nhạc khí Hơi phát huy
ưu thế về độ vang thể hiện màu sắc âm thanh phong phú, từ sắc thái nhẹ êm
đến hùng mạnh thể hiện rõ nét tính dân tộc trong cách phát âm, luyến tiếng...
Nhạc khí hơi đã có tác dụng nhất định trong đời sống xã hội người Việt Nam,
là nhạc khí rất quen thuộc và gần gũi trong nhiều sinh hoạt của người Việt
như Tục ngữ có câu: “Sống dầu đèn, chết Kèn trống”. Người Kinh thường sử
dụng Kèn Bầu (còn gọi là Kèn Bóp, Kèn Loa) cho việc cúng tế ở đình chùa,
ma chay nên còn gọi Kèn Bầu là Kèn đám ma. Qua quá trình phát triển, các
nhạc khí Hơi Việt Nam đã khẳng định vai trò và vị trí của mình: được sử dụng
trong các thể loại từ độc tấu đến hòa tấu với dàn nhạc, đặc biệt trong các Dàn
nhạc Dân tộc Tổng hợp, Dàn nhạc Giao hưởng Dân tộc và các Dàn nhạc Sân
khấu hay Dàn nhạc chuyên về Bộ Hơi, Bộ Màng rung và Tự thân vang.
II. SÁO NGANG
1- Giới thiệu sơ lược :
Sáo ngang là Sáo để ngang khi thổi, là nhạc khí hơi của Dân tộc Việt và
nhiều Dân tộc khác. Sáo ngang dễ làm, dễ thổi, rất thông dụng được phổ biến
rộng rãi trong đời sống hằng ngày.
2- Xếp loại :
Sáo ngang là nhạc khí hơi phổ biến tại Việt Nam, đồng thời một số
nước khác ở Châu Á cũng có. Sáo ngang là nhạc khí hơi lỗ thổi. Sáo ngang
được nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc thì có tên là ống Địch.
3- Hình thức cấu tạo:
Sáo ngang được làm bằng ống trúc hoặc ống nứa, nên chọn cây sáo
lóng thẳng, làm bằng loại trúc già, một đầu có mấu hoặc được bịt kín. Sáo
ngang có 1 huyệt thổi hình bầu dục (nếu khoét thêm 1 lỗ dán màng bằng
màng ruột tre mỏng cạnh huyệt thổi thì là ống Địch). Ống Địch có lỗ màng và
6 huyệt bấm hình tròn với khoảng cách đều nhau, để có thể phát ra các âm
theo thang âm 7 cung chia đều. Ngày nay để biểu diễn các bản nhạc mới
người ta khoét dựa theo thang âm bình quân. Sáo ngang có nhiều loại mà tên
gọi căn cứ vào âm thấp nhất như: Sáo Đô, Sáo Sol... dễ sử dụng thích hợp
tùy theo giọng từng bản nhạc. Sáo Đô (bịt hết 6 huyệt bấm, huyệt định âm
phát ra nốt Đô), các huyệt bấm được khoét theo âm giai Đô trưởng (C dur).
4- Màu âm, tầm âm:
Màu âm Sáo ngang vui tươi, mượt mà, trong sáng, âm thanh khỏe,
vang xa. Tầm âm Sáo ngang rộng trên hai quãng tám.
Sáo Đô: từ Đô1 lên Đô3 (c1 lên c3)
Sáo Sol thấp: từ Sol lên Sol2 (g lên g2)
Sáo Sol Cao: từ Sol lên Sol3 (g1 lên g3)
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Sáo ngang được tạo âm bởi sự rung của khối không khí chứa trong
nhạc cụ, tư thế thổi sáo: tư thế cơ bản: người đứng thẳng, thoải mái, Sáo đặt
ngang, vuông góc với thân đứng. Lỗ thổi đặt chính giữa môi, môi hơi mím khi
thổi. Các ngón tay bịt các huyệt theo thứ tự sau:
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Các lễ hội thanh niên thích thổi Sáo. Sáo ngang đệm cho ngâm thơ,
độc tấu tham gia các Dàn nhạc Dân tộc và là một nhạc cụ không thể thiếu.
Sáo ngang cải tiến từ 6 đến 10 huyệt có thể thổi được nhiều giọng.
III. TIÊU
1- Giới thiệu sơ lược :
Tiêu là nhạc khí thổi dọc trung âm, không đáy của Dân tộc Việt và một
số Dân tộc Mường( Ống ối), Thái (Píthiu), Êđê (Đinh klia), Vân Kiều (Cơlui).
Riêng người Khơ mú (Cam rưng) có các ống đáy kín (theo nguyên tắc Sáo
Nai của Rumani và Sáo Tomarong của thổ dân da đỏ- theo GSTS. Tô Ngọc
Thanh). Tiêu đã có ở Việt Nam hàng nghìn năm nay, trên hình chính ở bệ cột
đá Chùa Phật Tích từ thế kỷ XI ta thấy hình người thổi Tiêu với các nghệ
nhân khác cùng diễn tấu.
2- Xếp loại :
Tiêu là nhạc khí hơi lỗ thổi phổ biến tại Việt Nam, đồng thời một số
nước khác ở Châu Á cũng có. Tiêu được nhập vào Việt Nam và trở thành
nhạc khí Việt Nam.
3- Hình thức cấu tạo:
Tiêu làm bằng ống nứa rỗng hai đầu, đường kính khoảng 2cm, dài
khoảng 45cm. Người ta khoét hai bên gờ miệng ống một lỗ hình bán nguyệt
để thổi. Trong trường hợp này phải tì đầu ống Tiêu có lỗ thổi vào cằm để bịt
đầu ống. Có nơi làm bằng ống nứa một đầu có mấu, để không phải tì cằm.
Tiêu có 6 lỗ bấm hình tròn nằm dọc theo lỗ thổi và một lỗ bên dưới. Ngày xưa
Tiêu được khoét các lỗ theo thang âm bảy cung chia đều, nay khoét theo
thang âm bình quân luật. Có nhiều loại Tiêu mà tên gọi căn cứ vào âm thấp
nhất: Tiêu Đô; Tiêu Rê; Tiêu Mi... để sử dụng tùy theo giọng của từng bản
nhạc.
4- Màu âm, tầm âm:
Màu âm của Tiêu trầm ấm, du dương, trữ tình phù hợp với tình cảm
sâu lắng, êm dịu. Tiếng Tiêu nghe gần tưởng như nhỏ, nhưng thật ra vang rất
xa. Tầm âm Tiêu rộng hai quãng tám từ: Đô1 lên Đô3 (c1- c3). Khoảng âm
dưới: kém vang, diễn tả tình cảm sâu lắng. Khoảng âm giữa: tiếng đầy đặn,
thể hiện tình cảm sâu sắc. Khoảng âm cao: thường lẫn với âm thanh Sáo
ngang.
5- Kỹ thuật diễn tấu :
Tiêu được tạo âm bởi sự rung của khối không khí chứa trong nhạc cụ,
Tiêu có các kỹ thuật thổi: rung, luyến hơi; các kỹ thuật bấm: ngón vuốt, ngón
láy... Vuốt: là đưa ngón tay lần lượt mở từ một nốt thấp lên cao hoặc từ cao
xuống thấp sẽ tạo cho người nghe một âm thanh lả lướt.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Tiêu tham gia trong Dàn nhạc Tài tử, Ban nhạc Tang lễ, Phường Bát
âm, Dàn nhạc Sân khấu Chèo, Tuồng, Cải lương. Ngày nay Tiêu đã được
đưa vào Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp hòa tấu, giữ phần hòa âm hoặc độc tấu
các giai điệu đẹp và trữ tình. Tiêu cũng được sử dụng độc tấu. Tiêu cải tiến
bằng cách khoét thêm một số lỗ để thổi được bán âm.
IV. NHẠC KHÍ HƠI DĂM KÉP - KÈN BẦU (GIÀ NAM HAY KÈN LOA)
1- Giới thiệu sơ lược :
Kèn Bầu là nhạc khí hơi, sử dụng dăm kép (còn gọi là Kèn Già Nam,
Kèn Loa, Kèn Bóp, Kèn Bát). Kèn Bầu là nhạc khí hơi rất phổ biến trong Dân
tộc Việt và một số Dân tộc như Thái, Chăm. Các Dân tộc nói ngôn ngữ Tày-
Thái (Xaranai) trong đó có Nùng, Giáy đều gọi nhạc khí Hơi bằng một mạo từ
"Pí" và họ cũng gọi là Pí Lè.
2- Xếp loại :
Kèn Bầu là nhạc khí hơi dăm kép phổ biến tại Việt Nam, đồng thời một
số nước khác ở Châu Á cũng có. Kèn Bầu được nhập vào Việt Nam và trở
thành nhạc khí Việt Nam.
3- Hình thức cấu tạo:
Kèn Bầu có nhiều cỡ to, nhỏ khác nhau, chia làm 3 loại : Loại âm cao:
Kèn Tiểu, Kèn Vắt, Kèn Củn. Loại âm trung (sử dụng nhiều): Kèn Trung pha,
Kèn Trung đục, Kèn Nàm. Loại âm trầm: Kèn Đại, Kèn Đại trường, Kèn Quá
khổ.
4- Màu âm, tầm âm:
Âm thanh Kèn Bầu khỏe, vang, hơi chói tai (ở âm cao) thích hợp nhạc
điệu mạnh, chân thực, đồng thời có khả năng thể hiện tình cảm, đôi khi ảm
đạm và có màu bi thảm. Muốn thay đổi màu âm có thể dùng bộ phận hãm
tiếng, âm thanh sẽ giảm đi nhưng có phần mờ đục.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Kèn Bầu được tạo âm bởi sự rung của khối không khí chứa trong nhạc
cụ, kèn Bầu có các kỹ thuật thổi: rung hơi, luyến hơi, đánh lưỡi, vuốt hơi,
nghệ nhân có thể thổi liên tục hàng giờ không cần ngắt hơi, các kỹ thuật bấm:
ngón láy, ngón vuốt...
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Kèn Bầu được sử dụng trong các Dàn nhạc Cung Đình, Dàn Đại nhạc,
trong Ban nhạc đám ma, đám rước, Dàn nhạc Tuồng và gần đây tham gia
Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp.
BÀI 7. BỘ MÀNG RUNG VÀ BỘ TỰ THÂN VANG
Bộ màng (Membranophone): là nhạc khí được tạo âm bởi sự rung
của một màng căng. Trong kho tàng nhạc khí Việt Nam, nhạc khí màng rung
còn lại khá nhiều: Nhạc khí bằng mặt da (các loại Trống): Trống da có nhiều
loại từ trống lớn nhất đến trống nhỏ nhất (Trống Sấm, Trống Đại, Trống Cái,
Trống Bản, Trống Mảnh ...) được bịt bằng da như da trâu, da bò. Trong nghệ
thuật Hát Tuồng (Hát Bội) ra đời từ bao đời trước, Trống Chiến đã xuất hiện
cùng với nghệ thuật sân khấu này, "Trống Chiến là người bạn đường luôn
luôn sát cánh với diễn viên sân khấu (Trương Đình Quang - Hát Bội - tư liệu
đánh máy -Viện Nghiên cứu âm nhạc). Trống Chầu: trong Hát Bội, người cầm
Chầu phải tinh thông cả nghệ thuật Hát Bội, lại nắm được nguyên tắc đánh
trống để thưởng phạt diễn viên. Không phải là nhạc công cũng không phải là
diễn viên nhưng người cầm Chầu thay mặt khán giả khen chê một cách kịp
thời và tài tình. Người đánh Trống Chầu hay được xem như một nghệ sĩ, một
nhà phê bình Hát Bội tại chỗ không cần phải trên giấy bút. Trống Đại, Trống
Chiến... được sử dụng rộng rãi trong nhiều trường hợp: thông báo sự kiện
cho dân làng, cầm Chầu trong Tuồng, Chèo, hòa tấu với Dàn nhạc...
Trống Cái: xuất hiện từ thế kỷ XV, XVI, Trống Cái tham gia Dàn nhạc
Triều đình, về sau tham gia các Dàn nhạc sân khấu Ca kịch Dân tộc.
Trống Đế : sử dụng chủ yếu cho Dàn nhạc Chèo với nhiệm vụ đế cho
diễn viên hát, Trống Đế là nhạc khí gõ âm cao.
Trống hai mặt :
I. TRỐNG CHẦU
1- Giới thiệu sơ lược:
Trống Chầu là nhạc khí màng rung gõ không định âm của Dân tộc Việt
và nhiều Dân tộc Việt Nam. Trống Chầu còn được gọi là Trống Đại cổ, được
sử dụng để mở màn một xuất hát trong điệu khai tràng của Hát Bội, hoặc thi
vỡ nước của Hát Chèo. Trống Chầu cũng dùng để thưởng cho những câu hát
êm tai, điệu múa đẹp mắt hoặc cách diễn nhập thần.
2- Xếp loại:
Trống Chầu là nhạc khí màng rung gõ do người Việt Nam sáng tạo.
3- Hình thức cấu tạo :
Trống Chầu tương tự Trống Cái nhưng được làm công phu hơn. Trống
Chầu là loại trống được bịt da trâu hai mặt, đường kính khoảng 50cm. Tang
trống bằng gỗ mít cao khoảng 50cm. Trống Chầu trong Hát Ca Trù tương tự
như Trống Đế: trống có hai mặt đường kính khoảng 15cm, được bịt bằng da
nách trâu nạo mỏng, tang trống làm bằng một khúc gỗ mít khoét rỗng ruột cao
khoảng 18cm, dùi trống còn gọi là roi Chầu được làm bằng gỗ nguyệt quý
hoặc gỗ găng. Trống Chầu chỉ đánh một dùi, âm thanh Trống Chầu của Hát
Ca Trù cao, trong sáng.
4- Màu âm, tầm âm :
Tiếng Trống Chầu to, trầm và vang xa.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Trống Chầu được tạo âm bởi sự rung của một màng căng, người ta
đánh Trống Chầu bằng dùi gỗ găng và chỉ đánh một dùi. Trong Hát Tuồng,
Trống Chầu điểm câu và đặc biệt là để khen, chê bằng một số âm thanh qui
định: 1 tiếng là điểm câu; 2 tiếng là khen nghệ sĩ; 3 tiếng là rất khen; 1 tiếng
tịch, (một dùi chặn, một dùi đánh) là chê; 1 tiếng cắc (đánh vào tang) là góp ý
thầy tuồng. Trong hát Chèo, cũng có qui định riêng. Cầm chầu trong sân khấu
Tuồng hoặc Chèo đòi hỏi trình độ hiểu biết cao về mỗi loại nghệ thuật biểu
diễn này.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Trống Chầu tham gia các Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Sân khấu Chèo
trong Hát Ca Trù.
II. TRỐNG CHIẾN
1- Giới thiệu sơ lược:
Trống Chiến là nhạc khí màng rung gõ của Dân tộc Việt, Trống Chiến
còn gọi là Trống trận dùng để chấm câu nói lối hoặc mở đầu những câu Hát
Khách, Hát Nam hay đánh những điệu đâm bang xuất trận trong Hát Bội.
Nghệ thuật Hát Tuồng (Hát Bội) ra đời từ bao đời trước thì Trống Chiến cũng
đã xuất hiện theo thời gian trên.
2- Xếp loại:
Trống Chiến là nhạc khí màng rung gõ do người Việt Nam sáng tạo.
3- Hình thức cấu tạo:
Trống Chiến hình dáng tương tự như Trống Cái nhưng nhỏ hơn. Trống
Chiến là loại trống được bịt da hai mặt, đường kính khoảng 36cm, chiều cao
của tang trống khoảng 38cm.
4- Màu âm, tầm âm :
Trống Chiến rộn ràng, khỏe, vang xa.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Trống Chiến được tạo âm bởi sự rung của một màng căng, người ta
đánh trống bằng dùi gỗ găng. Trống Chiến là trụ cột trong dàn nhạc Sân khấu
Tuồng, đánh chấm câu, mở câu, thôi thúc nhịp điệu, xuất trận, tạo nên tiết tấu
múa Hát Tuồng, nghệ nhân có thể đánh ra nhiều âm khác nhau trên nhiều
điểm ở trống.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Trung Bộ và Nam Bộ, Trống Chiến tham gia trong Dàn nhạc Lễ hòa tấu
cùng nhiều nhạc khí khác. Sử dụng trong cúng tế, ma chay hoặc trong sinh
hoạt đình đám, Trống Chiến là "Phó sư" của Dàn nhạc Tuồng.
III. TRỐNG ĐẾ
1 - Giới thiệu sơ lược:
Trống Đế là nhạc khí màng rung gõ của Dân tộc Việt, là loại trống phụ
họa các điệu Hát Chèo.
2- Xếp loại:
Trống Đế là nhạc khí màng rung gõ do người Việt Nam sáng tạo.
3- Hình thức cấu tạo:
Mặt trống Đế được bịt da hai mặt, hình ống, hai đầu hơi múp, đường
kính hai mặt trống như nhau khoảng từ 15cm đến 20cm. Mặt trống thường bịt
bằng da nách trâu đã nạo mỏng (rất dai và bền, đủ sức chịu đựng độ căng
trên mặt trống). Đường viền da bịt mặt trống chùm xuống khoảng 3cm và
được đóng bằng đinh tre. Mặt trống rất căng nhưng phải bảo đảm một định
âm cần thiết phù hợp với giọng hát của diễn viên. Theo (GS.NS. Tô Vũ - Sức
sống của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam-Nhà xuất bản âm nhạc-Hà Nội
1996-trang 354 dòng 23): Trống Đế có chiều cao là 25cm, đường kính mặt
trống chừng 20cm, theo (PGS-PTS Nguyễn Thị Nhung-nhạc khí Gõ và Trống
Đế trong Chèo truyền thống -Viện âm nhạc- Nhà xuất bản âm nhạc- Hà Nội-
1998 -trang 39 dòng 7): Trống Đế của Nhà hát Chèo Trung ương có chiều
cao 18cm, đường kính 17cm và dùi gõ dài 25cm.
Tang trống: (hộp cộng hưởng của nhạc khí) thường dùng nguyên thân
của ống cây tức là một khúc thân cây bằng gỗ mít, cao từ 18cm đến 25cm,
khoét sâu thân cây (gọi là tang liền) để có hình dáng và màu âm đẹp nhưng
gỗ dễ bị nứt, hoặc có thể chắp vá các gỗ mít lại làm tang Trống Đế.
Dùi trống: làm bằng gỗ cứng dài từ 25cm đến 30cm, một đầu to, một
đầu nhỏ (hay tre vót tròn, nhẵn dài nặng vừa tầm tay) phía tay cầm là đầu to,
phía gõ là đầu nhỏ.
4- Màu âm, tầm âm:
Trống Đế đanh, cao, gọn tiếng và ít vang, Trống Đế có âm sắc của da
và gỗ, do cách đánh thay đổi: khi đánh vào mặt trống, khi đánh vào tang
trống, âm thanh Trống Đế tạo hiệu quả nghe vui lúc rộn ràng, lúc sâu sắc, nói
chung màu âm Trống Đế nặng về thể hiện tình cảm trong sáng, vui tươi.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Trống Đế được tạo âm bởi sự rung của một màng căng, khi sử dụng,
người ta đặt một mặt trống xuống sàn, đối diện với người ngồi xếp bằng.
Trống Đế phải đánh bằng hai dùi. Trống Đế không chỉ đánh trên mặt trống ở
nhiều vị trí mà còn kết hợp đánh vào tang trống làm cho âm thanh và tiết tấu
thêm phong phú. Trên mặt Trống Đế, có thể đánh vào giữa mặt trống lại có
thể đánh vào cạnh mặt trống, đánh vào mặt trống người ta đánh bằng đầu
dùi, tiếng trống nghe vang, dòn. Đây là cách đánh bình thường, gõ vào mặt
trống và ngắt dùi ngay. Nếu gõ vào mặt trống nhưng vẫn giữ nguyên dùi ở
trên mặt trống âm thanh sẽ không vang mà lại khô, xỉn. Đánh vào cạnh mặt
trống, phải đánh bạt sang bên. Trường hợp này có kết hợp bịt một phần mặt
trống bằng tay kia, tiếng trống nghe đanh gọn, như tiếng phách. Trống Đế sử
dụng hai dùi đánh thay đổi lần lượt và cũng có khi đánh cả hai dùi một lúc
(nhất là khi gõ vào tang trống), cũng có lúc dùng một dùi để điểm xuyết nhẹ
nhàng cho người hát.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Trống Đế tham gia Dàn nhạc Chèo là nhạc khí chính trong Dàn nhạc
truyền thống,
Bộ Tự thân vang (Idiophone): Nhạc khí tự thân vang gõ là nhạc khí
được tạo âm bởi sự rung của toàn bộ nhạc cụ.
IV. CỒNG-CHIÊNG
1- Giới thiệu sơ lược:
Cồng, Chiêng là nhạc khí tự thân vang, loại nhạc khí có định âm thuộc
chi gõ và chi đấm của Dân tộc Việt và nhiều Dân tộc Việt Nam. Cồng, Chiêng
có mặt trong âm nhạc của hầu hết các Dân tộc Việt Nam, Cồng, Chiêng xuất
hiện trong nghệ thuật dân gian từ những thời xa xưa nhất và vẫn tiếp tục cho
đến ngày nay. Cồng có khả năng đã xuất hiện trước hoặc cùng thời với Trống
Đồng vì trong các hoa văn Trống Đồng đã có khắc họa hình một dàn Cồng,
Chiêng. "Cồng" để chỉ loại có núm, và "Chiêng" để chỉ loại không núm, tuy
nhiên trong dân gian không có sự phân biệt rõ ràng, đồng bào cho rằng Cồng
(có núm) có tuổi đời xưa hơn là Chiêng (không có núm) vì nếu so sánh Cồng
với mặt Trống Đồng thì Trống Đồng có hình dáng như một cái Cồng lớn, với
giả thiết Cồng ra đời trước Chiêng mặt dù về mặt kỹ thuật thì đúc Cồng khó
hơn đúc Chiêng. Nghệ thuật Cồng, Chiêng ở Việt Nam đã gắn chặt với nền
văn hóa cổ truyền của dân tộc (lễ nghi, phong tục và tín ngưỡng) và mỗi dân
tộc đều sử dụng Cồng, Chiêng theo những hình thức khác nhau về loại hình
và biên chế.
2- Xếp loại:
Công, Chiêng là nhạc khí tự thân vang gõ phổ biến tại Việt Nam, đồng
thời ở một số nước khác ở Châu Á cũng có.
3- Hình thức cấu tạo:
Cồng, Chiêng làm bằng đồng thau hoặc hợp kim đồng thiếc, với tỉ lệ
của các hợp kim rất khác nhau tùy theo nơi đúc, hình tròn ở giữa hơi phồng
lên, chung quanh có bờ gọi là thành. Cồng luôn luôn có núm ở giữa, Chiêng
có hai loại: Chiêng có núm ở giữa gọi là Chiêng núm và Chiêng không có núm
gọi là Chiêng bằng. Cồng, Chiêng có nhiều cỡ to nhỏ, dày mỏng khác nhau,
có loại đường kính rộng 90cm, phải treo lên giá đỡ, khi đánh lên tiếng ngân
rền như sấm, có loại nhỏ đường kính chỉ 15cm, tiếng cao, trong trẻo.
4- Màu âm, tầm âm:
Cồng, Chiêng huyền bí, âm u, mang đậm sắc núi rừng, âm thanh to,
vang xa.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Cồng Chiêng được tạo âm bởi sự rung của toàn bộ nhạc cụ. Người Việt
đánh Cồng Chiêng bằng dùi gỗ bọc vải hoặc da thú mềm hay mủ cao su, chỉ
có người dân tộc M’Nông đánh bằng nắm tay nghe to, nhưng kém vang.
Cồng hay Chiêng đánh tiếng ấm vang. Chiêng bằng thì đánh vào mặt Chiêng.
Cồng, Chiêng được nhiều dân tộc sử dụng với những biên chế rất khác nhau.
Ở người Việt (Kinh) thường chỉ thấy sử dụng một Cồng đi với một Trống Cái,
đánh giữ nhịp cho người chủ tế vái lạy trong các đình làng, hồi Chiêng trống
"tùng-bili" được coi là hồi âm thanh bi thảm.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Dàn Cồng của người Mường từ 5 đến 20 cái do mỗi người cầm một
cái. Sự kết hợp giữa Trống Cái và Chiêng Cồng là công thức cổ xưa nhất có
ở nhiều Dân tộc và Dàn nhạc Chiêng, Cồng. Ở Tây Nguyên, nơi mà Chiêng,
Cồng phát huy tính âm nhạc cao nhất, nếu ở các Dân tộc Việt, Thái, Tày, Khơ
Mú, Cồng, Chiêng: mới chỉ được sử dụng như các nhạc cụ nhịp điệu, thì ở
Dân tộc Mường và các Dân tộc Tây nguyên Cồng, Chiêng: được tổ chức
thành dàn nhạc, diễn tấu những bản nhạc đa âm (multiphony) với các hình
thức chủ điệu (homophony), đa điệu (heterophony), hòa điệu (harmony) khác
nhau. Đây chính là giá trị quý báu của nghệ thuật âm nhạc Cồng, Chiêng của
các Dân tộc Việt Nam (Tô Ngọc Thanh- Giới thiệu một số Nhạc cụ Dân tộc
thiểu số việt Nam - Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc TP.HCM- 1995). Nghệ
thuật Cồng, Chiêng rất đa dạng phong phú về mặt tiết tấu mà còn ở giai điệu,
hòa âm và nghệ thuật trình diễn kết hợp với múa dân gian. Cồng, Chiêng do
một nhóm người đồng diễn, mỗi người chỉ sử dụng một Cồng hoặc một
Chiêng, bộ Cồng, Chiêng này thường diễn tấu độc lập ít khi có các nhạc khí
khác phụ họa hoặc nếu có chỉ với một hai trống da hoặc bộ Lục lạc cũng bằng
đồng.
V. TRỐNG ĐỒNG
1- Giới thiệu sơ lược:
Trống Đồng là nhạc khí tự thân vang thuộc Chi gõ (hoặc giã) của Dân
tộc Việt và nhiều Dân tộc khác. Trống Đồng là hiện vật nổi tiếng của nền Văn
hóa Đồng thau Đông Sơn. Niên đại những Trống Đồng sớm được xác định ít
ra vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Đối với nền âm nhạc truyền
thống Việt Nam, các hình khắc trên mặt trống Đồng Ngọc Lũ I và Hoàng Hạ là
một trong những chứng cớ chứng minh nền âm nhạc Dân tộc Việt Nam đã có
một lịch sử lâu dài. Trên các hình khắc đó, từ rất xa xưa chúng ta đã có:
Trống Đồng, Chiêng, Cồng, Chuông đồng, Trống mặt da, Khèn, Đuống và cả
Hát Rí Ren.
2- Xếp loại:
Trống Đồng là nhạc khí tự thân vang cổ do người Việt Nam sáng tạo.
Theo GSTS Trần Văn Khê các loại Trống Đồng khi khai quật từ lòng đất Việt
Nam, cùng có các di vật đồ như đồ gốm... kèm theo. Căn cứ vào các hình
khắc, hoa văn, họa tiết được khắc trên Trống Đồng thì đồng thời các hoa văn,
họa tiết ấy cũng được tìm thấy trong các cổ vật đồ gốm được chôn theo, cả
hai đều đúng niên kỹ chế tác. Điểm đặc biệt là các cổ vật đồ gốm ấy do người
Việt Nam sáng tạo, điều đó đã chứng minh được rằng các Trống Đồng là của
người Việt Nam và tại Việt Nam đã có kỹ thuật đúc Trống Đồng rất lâu đời,
ngày nay tại Việt Nam số lượng Trống Đồng được khai quật ngày càng nhiều.
Trống Đồng cũng được tìm thấy rãi rác ở các quốc gia khác của Châu Á, cũng
theo ý kiến của GSTS Trần Văn Khê, các loại Trống Đồng ấy, có nhiều khả
năng xuất xứ tại Việt Nam và theo con đường mua bán, trao đổi thương mại.
3- Hình thức cấu tạo:
Loại H1 : là loại Trống Đồng lớn, cổ xưa nhất. Ngôi sao giữa mặt trống
thường có 12 cánh. Một số trống có 4 tượng cóc ở mép mặt trống. Thân trống
phần trên phình ra, phần giữa thắt lại và phần dưới choãi ra, có 4 quai,
Loại H2: có cả loại lớn và vừa. Ngôi sao ở giữa mặt trống thường có 8
cánh. Mặt trống chờm ra khỏi tang. Rìa mặt trống thường có 4 - 8 tượng cóc.
Thân trống chia 3 phần nhưng không rõ, có 2 quai. Trang trí hoa văn hình hoa
lá đối xứng hoặc hình học.
Loại H3: thường là loại vừa và nhỏ. Ngôi sao có 12 hoặc 8 cánh, có 4
tượng cóc ở mép trống, thân trống phần trên và dưới hình viên trụ, phần giữa
thon lại, quai nhỏ. Hoa văn trang trí được cách điệu cao.
Loại H4: thường là loại vừa và nhỏ, trống có kích thước trung bình:
đường kính mặt trống khoảng 50cm, cao từ 45cm đến 50cm, mặt trống phủ
vừa sát đến thành thân trống, ngôi sao giữa mặt trống có 12 cánh. Thân trống
chia ra 2 phần: phần trên phình ra đỡ lấy mặt trống, phần dưới hình viên trụ
tròn có 4 quai. Hoa văn trang trí là hình động vật: Rồng, Khỉ, không có tượng
cóc trên rìa mặt trống. Trống được đúc bằng hợp kim đồng, nhưng tiếng
không trong, không vang xa như Trống Đồng loại F.Héger I.
4- Màu âm, tầm âm:
Tiếng Trống Đồng âm vang khỏe, hùng tráng, nói lên uy quyền của một
triều đại lịch sử, sức mạnh của một dân tộc đang vươn lên.
5- Kỹ thuật diễn tấu :
Trống Đồng được tạo âm bởi sự rung của toàn bộ nhạc cụ. Trống Đồng
được gõ bằng dùi có mấu hay bọc vải da hoặc giã bằng thanh gỗ dài như
chày, hoặc dùng những bó que nhỏ dài bằng sắt hay gỗ thả xuống mặt trống.
Người đánh trống tay phải cầm dùi đánh vào mặt trống, tay trái cầm một
thanh tre gõ vào tang Trống. Trống Đồng được sử dụng trong các Lễ hội lớn,
quan trọng do triều đình đứng ra tổ chức. Trống Đồng thường đánh xen kẽ
với trống lớn. Thời Hậu Lê, trong lễ cứu nhật thực, nguyệt thực, người ta
đánh 3 tiếng trống lớn rồi 3 tiếng Trống Đồng cùng tiếng chuông đáp lại.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Trống Đồng được sử dụng tham gia: Đường Thượng Chi Nhạc (thời
Hậu Lê), Nhã nhạc thế kỷ XV, XVI, dàn Nhạc Lễ thế kỷ XVIII. Hiện nay chỉ còn
thấy trong đời sống văn hóa các Dân tộc Khơ Mú, Lôlô và Dân tộc Mường sử
dụng trống Đồng với tư cách là một nhạc cụ trong tang lễ, người Mường vùng
Vang -Vó huyện Lạc Sơn huyện Hòa Bình đặt úp trống trên mặt đất hay trên
sàn nhà, sử dụng một cái dùi mỏ khoắm, đầu khoắm được bọc vải để gõ,
tham gia trong dàn nhạc tang lễ cùng với Sáo ngang, Nhị, Cồng, Thanh la,
Kèn đám ma, Trống bịt da dê. Dàn nhạc này được người Mường gọi là "Cò
Ke-Ôổng Khảo- Clôổng Tôông" để phân biệt với dàn nhạc Lễ thức, không có
Trống Đồng gọi là "Cò Ke-Ôổng Khảo". Người Khơ Mú sử dụng dùi thẳng,
đầu gõ được bọc vải phía trong, khi sử dụng Trống Đồng người Khơ Mú cũng
úp trống xuống mặt đất hay xuống sàn nhà mà gõ vào núm trên của mặt
Trống cùng với 3 cái Cồng và một Trống Cái hai mặt bịt da trâu. Người LôLô
sử dụng hai Trống Đồng, đặt hoặc treo ở tư thế nằm nghiêng, mặt trống Đồng
hướng đối diện vào nhau. Dùi trống của người LôLô cũng cấu tạo tương tự
như dùi trống của người Khơ Mú, một người phụ nữ cầm dùi gõ theo nhịp vào
núm Trống (Tô Ngọc Thanh- Giới thiệu một số nhạc cụ dân tộc thiểu số Việt
Nam- Nhà xuất bản Văn nghệ, Trung tâm Văn hóa Dân tộc TP. Hồ Chí Minh -
1995). Ở ba Dân tộc trên, Trống Đồng được coi là tượng trưng cho mặt trời,
tiếng trống tượng trưng cho tiếng của trời (tức tiếng sấm), tiếng trống sẽ dẫn
dắt linh hồn của người chết biết đường đi về thế giới tổ tiên. Đặc biệt trong
các Lễ hội lớn của Dân tộc Việt như Lễ Giỗ tổ Hùng Vương tại đền Hùng Phú
Thọ ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, các nghệ nhân người Mường đã biểu
diễn Trống Đồng, gần đây trong Lễ hội mừng sinh nhật 300 năm Sài gòn
Thành phố Hồ Chí Minh, tại thành phố Hồ Chí Minh có sử dụng Trống Đồng
do các nghệ nhân người Mường cùng các nghệ nhân của Nhà Văn hóa thuộc
Sở Thông tin Văn hóa Tỉnh Phú Thọ trình bày và giới thiệu cách sử dụng
Trống Đồng. Viện Bảo Tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh có trưng bày,
triển lãm các loại Trống Đồng và Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại
Thành phố Hồ Chí Minh cũng có các Trống Đồng.
Nhạc khí gõ bằng đồng: Trống Đồng là biểu tượng rực rỡ của nền
Văn hóa đồ đồng thời Hùng Vương đã từng được coi là hiện vật mẫu mực
của nền văn hóa dân tộc trong xa xưa (Lê Văn Hậu - Trống Đồng Thanh
Sơn), qua sự phát hiện và nghiên cứu Trống Đồng, ta có thêm nhiều bằng
chứng để khẳng định lịch sử của dân tộc "... mảnh đất tiêu biểu của nền văn
minh sông Hồng với bao truyền thuyết, bao hiện vật khảo cổ đã chứng minh
về Thời kỳ các Vua Hùng dựng nước là có thật trong lịch sử dân tộc" (Ngô
Quang Nam - Trống Đồng Thanh Sơn). Tỉnh Vĩnh Phú: cái nôi của tổ tiên ta
từ thuở Hùng Vương dựng nước, ngày nay còn lại đền thờ các Vua Hùng và
hàng trăm truyền thuyết dân gian. Với hơn 40 Trống Đồng được phát hiện ở
Thanh Sơn và các vùng phụ cận có trống có xuất xứ rất xa xưa nhưng cũng
có trống được đúc cách đây vài trăm năm và đang được nhân dân sử dụng
(Lưu Hữu Phước - Trống Đồng Thanh Sơn), hiện nay đồng bào Mường vẫn
đang đánh Trống Đồng "Trống Đồng được dùng trong sinh hoạt hội hè bên
cạnh các hình thức văn nghệ dân gian khác, nhưng Trống Đồng vẫn sống độc
lập theo những bài bản riêng của nó" (Trịnh Lại - Trống Đồng Thanh Sơn), về
nhịp điệu và tiết tấu thì Trống Đồng có mối liên quan rất chặt chẽ đến các
nhạc khí khác như Cồng, Chiêng.
Nhạc khí gõ bằng gỗ như Sênh tiền làm bằng tre hoặc gỗ dùng để
đệm cho Nói Vè và nhiều thể loại ca hát khác để tăng thêm tính tiết tấu, Sênh
tiền sử dụng trong Phường Bát âm, theo (Phạm Đình Hổ - Vũ trung Tùy bút):
"những cái như Long sinh, Long phách và cái Trống Mảnh một mặt, cái trống
tang mỏng sơn son thếp vàng, cái phách xâu tiền, ngoài một số được dùng
trong dân gian, đều được sử dụng từ thời Quang Hưng trở về sau trong hai
Bộ Đồng Văn và Nhã Nhạc”.
VI. NHẠC KHÍ TỰ THÂN VANG GÕ, QUẸT, LẮC - SÊNH TIỀN
1- Giới thiệu sơ lược:
Sênh Tiền là nhạc khí tự thân vang của Dân tộc Việt. Sênh là phách,
tiền là đồng tiền chính, do đó còn gọi là phách sâu tiền (Quán tiền phách).
2- Xếp loại:
Sênh tiền là nhạc khí tự thân vang gõ, quẹt, lắc do người Việt Nam
sáng tạo.
3- Hình thức cấu tạo:
Sênh Tiền làm bằng ba thanh gỗ tốt, thường là gỗ trắc hay gỗ cẩm lai,
chiều dài khoảng 25cm, chiều ngang khoảng 3cm và dày khoảng 0,6cm.
Thanh gỗ thứ nhất và thanh gỗ thứ hai được nối liền bằng một sợi dây da
ngắn, trên mặt gỗ trừ đoạn tay cầm, đều có khứa những đường rãnh ngang.
Ở cuối có đóng một hoặc hai cái đinh có xâu một số đồng tiền. Thanh thứ ba
ngắn hơn một ít, có khứa răng cưa bên cạnh, cạnh trái khứa từ đầu đến giữa,
cạnh phải từ đầu đến cuối.
4- Màu âm, tầm âm :
Âm thanh Sênh Tiền vui, rộn ràng, khoẻ, phong phú.
5- Kỹ thuật diễn tấu :
Sênh Tiền được tạo âm bởi sự rung của toàn bộ nhạc cụ. Khi biểu diễn,
nghệ nhân cầm hai thanh một và hai, chồng so le nhau, để các cọc tiền liền
nhau, ngón cái ở bên trên. Với những động tác điêu luyện của các ngón tay,
hai thanh một và hai được mở ra, kẹp vào tạo nên tiếng phách gỗ chắc nịch
(giống như tiếng Song lang hoặc Phách Huế) hòa lẫn tiếng rung của kim khí
rộn ràng của đồng tiền (do đồng tiền nhảy lên). Có lúc tay trái đưa lên cao lắc
nhanh liên tục, các đồng tiền va chạm vào nhau, reo lên một cách rộn rã, tạo
âm thanh vòng lắc. Tay phải cầm ở giữa thanh thứ ba, sấp bàn tay xuống
quẹt răng cưa ở cạnh trái, ngửa bàn tay lên quẹt răng cưa ở cạnh phải vào
những cạnh của hai thanh kia tạo nên chuỗi âm thanh lắc cắc của nhạc khí
quẹt. Có lúc luồng thanh này vào giữa hai thanh kia, dùng cổ tay lắc đều
nhanh tạo âm thanh vê dòn. Sênh tiền là nhạc khí rất độc đáo của Việt Nam
được sử dụng để đệm đàn hay ca, từng tiết tấu có thể kết hợp một lúc 3 nhạc
khí gõ: phách, quẹt và vòng lắc. Cuối một bản nhạc hay cuối một nửa đoạn
thường sử dụng kỹ thuật lắc giữa hai thanh phách tiền.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Sênh Tiền được sử dụng trong Dàn nhạc Đại nhạc, Dàn Bát âm, trong
Hát Cửa Đình, Dàn nhạc Sân khấu Chèo và đệm cho Hát Sắc Bùa.
Các tổ chức dàn nhạc Việt Nam
a- Dàn nhạc Tuồng (Hát Bội)
b- Dàn nhạc Chèo
c- Dàn nhạc Cải Lương
PHẦN 3 – NHẠC NHẸ
BÀI 8. GIỚI THIỆU CÁC HÌNH THỨC CỦA DÀN NHẠC NHẸ
Giới thiệu các hình thức của Dàn nhạc nhẹ, ban nhạc Rock, ban nhạc
Jazz . . .Tính năng kỹ thuật và biên chế của dàn nhạc nhẹ gồm có: Guitar
solo, Guitar bass, trống Drum Kit (trống jazz), trống Conga, Electric Keyboard,
kèn Saxophone, Trumpet. . . .
Ban nhạc Rock (Heavy Metal Band): thuộc nhóm tạp kỹ được biểu
diễn đầu tiên từ năm 1950, bằng nhiều kỹ thuật phức tạp và điêu luyện ban
nhạc Rock ngày nay có 5 thành viên, bao gồm người chỉ đạo chương trình có
thể là ca sĩ, Guitar solo, Led Paul electric Guitar, Guitar bass và trống. Ban
nhạc Rock với tiết tấu mạnh mẽ, nền bass cứng cáp cùng với tiếng trống nổi
bật bên cạnh tiếng Guitar nguyên thủy cùng với bộ phá tiếng, đó là những đặc
điểm chính của ban nhạc Rock tất cả được điều khiển thật hiệu quả bởi một
dàn âm thanh điện tử cực kỳ hiện đại.
Ban nhạc Jazz: “Những giai điệu phức tạp là bản chất của phong cách
Jazz”, Ban nhạc Jazz gồm bộ kèn hơi: Trumpet và Saxophone cùng biểu diễn
với Piano đệm, Guitar solo và Guitar bass. Trong giai điệu nhạc Jazz có sự
rút bỏ nốt ở giữa tạo để tiết tấu Syncop, đặc điểm chính của Jazz là sự ứng
biến với tình huống, mỗi nghệ sĩ sẽ ứng tác thêm vào giai điệu chính bằng
những giai điệu của riêng mình, mỗi thành viên ban nhạc Jazz đều là những
nghệ sĩ tuyệt vời với khả năng biểu diễn ứng xử ngay lập tức tạo ra một tác
phẩm có màu sắc và phong cách rất riêng. Ở mỗi tác phẩm Jazz, mặc dù
không được sắp xếp trước nhưng mỗi nghệ sĩ đều có thể biểu diễn tốt phần
ứng tác của mình cho nên Jazz luôn tạo cho công chúng thưởng thức một sự
xúc động và hồi hộp thật sự.
I. GUITAR
1- Giới thiệu sơ lược :
Guitar tiếng Ý là Chitara, tiếng Pháp là Guitare, Guitar gồm có các loại
như: Guitar espagnol, Guitar Hawienne và Guitar điện (Electric Guitar). Guitar
điện đầu tiên được chế tạo tại Hoa Kỳ vào năm 1920- 1930, sau đó được sản
xuất bởi công ty Rickenbacker năm 1932.
2- Xếp loại:
Guitar thuộc bộ dây gảy.
3- Hình thức cấu tạo:
Guitar được chế tạo gồm các thành phần như gỗ, kim khí và nhựa tổng
hợp, Guitar có 6 dây đàn (Mi-La-Rê-Sol-Si-Mi), chiều dài đàn từ 97cm đến
102cm, Guitar điện được sử dụng cùng với bộ khuyếch đại âm thanh (Ampli
điện).
4- Màu âm, tầm âm:
Guitar hơn 4 quãng 8, nghe trữ tình, gợi cảm.
5- Kỹ thuật diễn tấu :
Guitar được tạo âm bởi sự rung của dây, Guitar được gảy bằng móng
tay hoặc bằng phím (mediato).
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc :
Guitar được sử dụng trong dàn nhạc nhẹ, ban nhạc Rock, ban nhạc
Jazz...
II. GUITAR BASS
1- Giới thiệu sơ lược:
Guitar bass có tầm âm thấp, Guitar bass được phát minh tại Hoa Kỳ do
Leo Fender và được giới thiệu đầu tiên vào năm 1951, Guitar bass là nhạc khí
rất phổ biến ở nhiều nước đặc biệt là miền viễn tây của Hoa Kỳ.
2- Xếp loại:
Guitar thuộc bộ dây gảy.
3- Hình thức cấu tạo:
Guitar bass được chế tạo gồm các thành phần như: gỗ, kim khí và
nhựa tổng hợp, chiều dài Guitar bass là 1.1m, gồm có 4 dây (Mi-La-Rê-Sol),
Guitar bass được sử dụng với Ampli nhằm khuyếch đại âm thanh.
4- Màu âm, tầm âm :
Guitar bass gồm 3 quãng 8.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Guitar bass được tạo âm bởi sự rung của dây, Guitar được gảy bằng
ngón tay hoặc bằng phím (mediato) để đệm cho ban nhạc, Guitar bass đảm
nhận phần nền bass.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Guitar bass được sử dụng trong các dàn nhạc nhẹ, ban nhạc Jazz, ban
nhạc Rock là nhạc khí không thể thiếu được, Guitar bass có khả năng tạo
nền hòa âm cho tác phẩm.
III. ĐÀN PHÍM ĐIỆN TỬ KEYBOARD
1- Giới thiệu sơ lược:
Đàn phím điện tử được thiết kế để sử dụng cho gia đình trong nhà, đây
là nhạc khí với các công cụ có thể bắt chước được tiếng đàn của nhiều nhạc
khí khác, mặc dù chỉ có một đàn nhưng hiệu quả biểu diễn có thể xem như
một dàn nhạc nhỏ.
2- Xếp loại:
Đàn phím điện tử thuộc loại nhạc cụ điện tử, đàn phím điện tử đầu tiên
được chế tạo và giới thiệu vào năm 1940.
3- Hình thức cấu tạo.
Đàn phím điện tử có dàn phím đàn bằng nhựa, khung đàn làm bằng
hợp kim sắt và bộ phận cấu thành gồm hệ thống bo mạch bán dẫn điện tử.
Kích cỡ đàn có thể thay đổi từ 30cm đến 1.5m.
4- Màu âm, tầm âm:
Màu âm gồm nhiều loại tiếng đàn khác nhau, tầm âm rất rộng gần với
Piano. Đàn phím điện tử gồm có 4 âm thanh cơ bản như sau:
Giai điệu
Hòa âm (đệm đàn)
Bè trầm bass (nền)
Nhịp điệu ( tiết tấu trống)
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Nghệ sĩ có thể biểu diễn cùng thể hiện nhiều thứ tiếng của các nhạc khí
khác, hệ thống các công cụ và chức năng điện tử trên Keyboard có thể giúp
cho người biểu diễn dễ dàng mà không đòi hỏi phải am tường nhiều kiến thức
về kỹ thuật.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Đàn phím điện tử được sử dụng trong dàn nhạc nhẹ, Jazz, Rock. . .
IV. TRỐNG DRUM KIT
1- Giới thiệu sơ lược:
Drum Kit là loại trống có định âm gồm tổng hợp nhiều loại trống có âm
thanh khác nhau kết hợp với tiếng rung của kim loại, bộ trống Drum kit với âm
thanh thật, khác với tiếng của trống điện tử (electronic drum kit). Trống Drum
Kit là nhạc khí cỗ được chế tạo từ năm 1930 gồm những chiếc trống với
nhiều màu âm khác nhau và được sử dụng phát triển cho đến ngày nay.
2- Xếp loại:
Trống Drum Kit thuộc bộ gõ.
3- Hình thức cấu tạo:
Trống Drum Kit được cấu tạo bao gồm nhiều thành phần như gỗ, khung
nhôm, khung hợp kim dẽo, trống da. . . Trống Drum Kit được thiết kế gồm các
trống và cymbal như sau:
Crash cymbal (Cymbal được đặt bên tay trái)
Hi Hat (Cymbal được sử dụng bởi chân trái)
Snare drum (trống được căng lên bằng dây căng, được đặt bên trái) .
Rack toms (hai trống Tom được đặt ở giữa trước mặt)
Ride Cymbal (Cymbal có kích cỡ lớn nhất được đặt bên tay mặt phía
trước)
Floor Tom (trống lớn cao đặt bên tay mặt)
Bass drum (trống bass, được điều khiển bằng chân mặt giữ nhịp tiết
tấu)
4- Màu âm, tầm âm:
Trống Drum Kit là nhạc khí trống định âm được điều chỉnh bởi sự
trương nở của mặt da.
5- Kỹ thuật diễn tấu :
Trống Drum Kit được tạo âm bởi sự rung của màng căng của da, cùng
với tiếng rung của kim loại, trống do một người đánh bằng hai dùi cùng kết
hợp với hai chân (mặt và trái) nhằm giữ nhịp và tiết tấu.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Trống Drum Kit là loại trống được sử dụng trong dàn nhạc nhẹ, ban
nhạc Jazz, ban nhạc Rock
V. TRỐNG CONGAS
1- Giới thiệu sơ lược:
Trống Congas là loại trống tiêu biểu của nền âm nhạc Mỹ La tinh nhưng
trống Conga lại có xuất xứ từ Châu Phi.
2- Xếp loại:
Trống Conga thuộc bộ màng rung vỗ.
3- Hình thức cấu tạo:
Hai mặt trống mặt da và có lỗ mở ở đáy trống, đường kính trống từ
23cm đến 36cm, chiều cao 90cm, bộ khung tròn giữ mặt trống có chỗ lên dây
bằng ngón tay.
4- Màu âm, tầm âm:
Màu âm của trống Congas rất khác nhau có thể điều chỉnh mặt căng
của da để đạt đúng cao độ mong muốn.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Trống Congas được tạo âm bởi sự rung của màng da, trống Conga
thường được sử dụng trong nhóm thường có 2 hoặc 3 trống và đánh bằng
bàn tay, được sử dụng trong dàn nhạc Mỹ La tinh gồm Guitar, Guitar bass
cùng các nhạc khí trong bộ tự thân vang tạo tiết tấu và đệm cho hát. . .
VI. KÈN SOPRANO SAXOPHONE
1- Giới thiệu sơ lược:
Saxophone tiếng Ý là Saxofono là nhạc khí thuộc bộ hơi miệng thổi
dăm đơn, tương tự Clarinete có âm chất trung gian giữa kèn đồng và kèn gỗ,
Soprano Saxophone sáng chế năm 1840.
2- Xếp loại:
Là nhạc khí bộ hơi, miệng thổi dăm đơn, có vai trò quan trọng trong dàn
nhạc Jazz.
3- Hình thức cấu tạo:
Soprano Saxophone làm bằng kim loại, hình dáng giống Clarinet bass,
thân kèn ở gần miệng cũng uốn cong như cổ ngỗng.
Saxophone chia làm 6 loại:
Saxopiccolo: Mi b hay Fa
Saxofono Sopranino: Si b
Saxo Alto: Mi b
Saxophone Tenor: Si b
Saxo Barytone: Mi b
Saxo Basso: Si b
4- Màu âm, tầm âm:
Soprano Saxophone có âm chất trung gian giữa kèn đồng và kèn gỗ
âm thanh hơi kích động, ngân rung, âm lượng lớn rất vang.
5- Kỹ thuật diễn tấu:
Soprano Saxophone được tạo âm bởi khối không khí chứa trong nhạc
cụ, Soprano Saxophone được sử dụng đệm trong dàn nhạc hoặc độc tấu.
6- Vị trí nhạc khí trong dàn nhạc:
Soprano Saxophone giữ vai trò quan trọng trong dàn nhạc Jazz.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1 - Sách: "Các nhạc khí trong dàn nhạc Giao hưởng"- Tác giả HỒNG
ĐĂNG - Nhà xuất bản Văn hóa - 1983.
2- Sách: “Nhạc khí Dân tộc Việt” - Tác giả VÕ THANH TÙNG - Nhà
xuất bản Âm Nhạc - 2001.
3- Sách: "Viết nhạc trên máy vi tính với Final 98" - Tác giả: NGUYỄN
HẠNH – NGUYỄN ĐÌNH PHƯƠNG - Nhà xuất bản Thanh Niên – 1999.
4- CD-Rom: "Nhạc khí Dân tộc Việt" - Tác giả VÕ THANH TÙNG -
Nhà xuất bản âm Nhạc - 2001.
5- CD-Rom: "Nhạc khí Quốc tế - Microsoft Musical Instruments” -
1994 và các phiên bản cập nhật mới nhất.
MỤC LỤC
Phần 1: Nhạc khí trong dàn nhạc giao hưởng
Bài 1. Đại cương về nghiên cứu các nhạc khí
Bài 2. Các nhạc khí thuộc bộ gỗ
Bài 3. Bộ đồng - các nhạc khí bộ đồng
Bài 4: Các dàn nhạc giao hưởng:
Phần 2. Nhạc khí Việt Nam
Bài 5. Nhạc khí dây gảy
Bài 6. Bộ dây kéo – nhạc khí dây kéo (cung vĩ)
Bài 7. Bộ màng rung và bộ tự thân vang
Phần 3. Nhạc nhẹ
Bài 8. Giới thiệu các hình thức của dàn nhạc nhẹ
---//---
Bài giảng môn học
NHẠC KHÍ PHỔ THÔNG
ThS. VÕ THANH TÙNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VÀ DU LỊCH
TP. HỒ CHÍ MINH - 2012
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_mon_hoc_nhac_khi_pho_thong.pdf