Bài giảng Pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Ngọc Ánh

1. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy NN XHCN 2. Pháp chế XHCN là nguyên tắc hoạt động của các TC CT-XH và các đoàn thể quần chúng 3. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xử sự của mọi công dân 4. Pháp chế XHCN có quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ XHCN5. Pháp chế XHCN luôn luôn quan hệ chặt chẽ gắn bó với pháp luật XHCN, muốn có pháp chế XHCN trước hết phải có pháp luật XHCN. Pháp luật XHCN và pháp chế XHCN là hai khái niệm rất gần nhau, nhưng không đồng nghĩa. Trong đó pháp luật là tiền đề, là cơ sở của pháp chế, sẽ không có pháp chế nếu không có một hệ thống các QPPL, còn pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải nghiêm chỉnh tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong hoạt động của đời sống xã hội.Định nghĩa pháp chế XHCN: Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan NN, thành viên các tổ chức CT-XH, đoàn thể và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách thường xuyên, nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác, đầy đủ và thống nhất. 7.2. NHƯNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA PHÁP CHẾ XHCN 7.2.1.Phải bảo đảm tính thống nhất trong xây dựng văn bản pháp luật và thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước. 7.2.2. Bảo đảm mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh t

pdf320 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Ngọc Ánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a công dân, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước và quy định những nguyên tắc về mối quan hệ giữa các cơ quan đó. 2. Luật (bộ luật, đạo luật) Luật, đạo luật hay bộ luật cũng là văn bản QPPL do Quốc hội giao cho Chính phủ hoặc những cơ quan chuyên trách soạn thảo và trình Quốc hội thông qua bằng biểu quyết. Sau khi được Quốc hội phê chuẩn sẽ được Chủ tịch nước ký lệnh công bố. Đạo luật có giá trị pháp lý thứ hai sau Hiến pháp.(không được trái Hiến pháp). 3.4.3.2. Văn bản dưới luật Văn bản dưới luật được ban hành nhằm cụ thể hoá và hướng dẩn thực hiện những quy định trong các đạo luật. Các loại văn bản dưới luật: 1.Pháp lệnh và nghị quyết của UBTVQH Các Pháp lệnh và Nghị quyết của UBTVQH là văn bản mang tính chất luật, có hiệu lực pháp lý thấp hơn Hiến pháp, các đạo luật, nghị quyết của Quốc hội, nhưng lại có giá trị pháp lý cao nhất trong các văn bản dưới luật. 2. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước 3. Nghị định của Chính phủ; Quyết định,Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ + Nghị định của Chính phủ: được ban hành để quy định chi tiết thi hành những văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nướcc; Quy định nhiệm vụ quyền hạn, tổ chức bộ máy trực thuộc Chính phủ và các biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Nghị định quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu càu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. + Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quyết định các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ TW đến cơ sở; quy định chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. + Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ: hướng dẫn thực hiện những quy định được luật, nghị quyết của QH, Pháp lệnh thuộc phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách. + Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao: được ban hành để hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử. + Thông tư của Chánh án TANDTC: để quản lý các TAND địa phương và TA quân sự về tổ chức, quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chánh án TANDTC. + Thông tư của VTVKSNDTC: quy định các biện pháp để bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VTVKSNDCC +Văn bản QPPL liên tịch giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. + VBQPPL liên tịch giữa TANDTC với VTVKSNTC, giữa TANDTC, VTVKSNDTC với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ + Văn bản QPPL liên tích giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức Chính trị - Xã hội. 3.5. HIỆU LỰC CỦA VBQPPL - Thời gian; - Không gian; - Đối tượng điều chỉnh. 3.5.1. Hiệu lực về thời gian KN: Hiệu lực về thời gian của VBQPPL được xác định từ thời điểm phát sinh cho đến khi chấm dứt sự tác động của văn bản đó. 1. Thời điểm có hiệu lực của VBQPPL: a. Luật, NQ của QH, pháp lệnh, NQ của UBTVQH có hiệu lực từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ trường hợp VB đó quy định ngày có hiệu lực. b. VBQPPL của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng Công báo, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác. c. VBQPPL của CP, TTgCP, BT, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán TANDTC, VTVKSNDTC và các VBQPPL liên tịch có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn nếu được quy định tại VB đó. Trừ các VB của CP, TTg CP quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, có hiệu lực sớm hơn. 2. Hiệu lực trở về trước của VBQPPL a. Chỉ trong những trường hợp cần thiết, VBQPPL mới được quy định. b. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau: - Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý. - Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn. 3. Những trường hợp ngưng hiệu lực VBQPPL a. VBQPPL bị đình chỉ thi hành, thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc: + Không bị huỷ bỏ thì VB tiếp tục có hiệu lực; + Bị huỷ bỏ thì VB hết hiệu lực. b. Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực của VB hoặt hết hiệu lực của VB phải được quy định rõ tại quyết định đình chỉ thi hành, quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. c. Quyết định đình chỉ, quyết định xử lý VBQPPL của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải đăng Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. 4. Những trường hợp VBQPPL hết hiệu lực: a. Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản đó. b. Được thay thế bằng VB mới của chính cơ quan ban hành VB đó; c. Bị huỷ bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; d. Văn bản quy định chi tiết,hướng dẫn thi hành của văn bản hết hiệu lực cũng đồng thời hết hiệu lực cùng với văn bản đó, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một phần vì còn phù hợp với các quy định của VBQPPL mới. 3.5.2. Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng VBQPPL có hiệu lực trên phạm vi cả nước hoặc phạm vi lãnh thổ nhất định (hiệu lực theo lãnh thổ) đối với mọi chủ thể hoặc một số chủ thể nhất định (theo đối tượng) 1. VBQPPL của các cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam trừ trường hợp văn bản có quy định khác. 2. VBQPPL của HĐND, UBND có hiệu lực trong phạm vi địa phương. 3. VBQPPL có hiệu lực đối với cơ quan, tổ chức, người nước ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có quy định khác. 3.5.3. Áp dụng VBQPPL 1. VBQPPL được áp dụng từ thời điểm có hiệu lực. VBQPPL được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó có hiệu lực. 2. Trong trường hợp các VBQPPL có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. 3. Trong trường hợp các VBQPPL về cùng một vấn đề do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau, thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau. 4. Trường hợp VBQPPL mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực, thì áp dụng văn bản mới. Chương 4: QUAN HỆ PHÁP LUẬT 4.1. KHÁI NIỆM Chỉ những quan hệ xã hội mà phát sinh, tồn tại, thay đổi và chấm dứt do các quy phạm pháp luật quy định mới gọi là quan hệ pháp luật. 4.1.1. Đặc tính của quan hệ pháp luật 1. Quan hệ pháp luật được quy định bởi cơ sở kinh tế của xã hội “Kiểu quan hệ sản xuất nhất định sẽ sản sinh ra kiểu quan hệ pháp luật tương ứng với nó”. C.Mac: “không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ trong những điều kiện sinh hoạt vật chất”. 2.Quan hệ pháp luật mang tính ý chí và tư tưởng - Quan hệ pháp luật được hình thành, thay đổi hay chấm dứt dựa trên cơ sở QPPL mà nội dung QPPL phản ánh ý chí của Nhà nước. Chỉ những quan hệ xã hội nào được điều chỉnh bởi ít nhất một QPPL mới được xem là QHPL. Cũng có những quan hệ pháp luật hình thành nhưng pháp luật chưa đề cập hoặc không đề cậpkhông là quan hệ pháp luật (chơi hụi). - Những bên quan hệ pháp luật thể hiện ý chí của mình khi thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý trong khuôn khổ ý chí của nhà nước (kết hôn, hợp đồng). - Quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt do có sự kiện pháp lý với tư cách là hành vi có ý chí của con người. Kết luận: QHPL là quan hệ mang tính ý chí, tư tưởng, nó thể hiện hoạt động có ý chí của con người. 3. Quan hệ pháp luật được hình thành do tác động điều chỉnh của QPPL Chỉ trong quan hệ pháp luật thì mỗi bên tham gia có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, mà việc thực hiện chúng được Nhà nước đảm bảo bằng sự cưỡng chế. 4. Quan hệ pháp luật thể hiện mối liên hệ về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa những bên tham gia quan hệ đó QHPL xuất hiện trên cơ sở QPPL. Chỉ thông qua QPPL mà quan hệ pháp luật được hình thành và ngược lại QHPL trở thành phương tiện để chuyển hoá, để biến quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỗi bên chủ thể thành hiện thực. 5. Quan hệ pháp luật có tính xác định Quan hệ pháp luật có tính xác định, cụ thể vì nó chỉ xuất hiện trên cơ sở QPPL, khi có những sự kiện pháp lý nhất định và những chủ thể pháp luật nhất định tham gia.Chủ thể của quan hệ pháp luật là những cá nhân, tổ chức cụ thể. 6. Quan hệ pháp luật được Nhà nước đảm bảo và bảo vệ Trong quan hệ pháp luật xác định rõ trách nhiệm pháp lý của các chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý hoặc ngăn cản sự thực hiện quyền chủ thể cơ quan chức năng của Nhà nước bảo đảm thực hiện những yêu cầu của PL và bảo vệ PL. 4.1.2. Phân loại các QHPL - Phân loại các quan hệ pháp luật tương ứng với các ngành luật: luật hành chính, dân sự - Căn cứ vào cách xác định quyền và nghĩa vụ giữa những bên tham gia: QH pháp luật đơn giản (1 bên có quyền và bên kia có nghĩa vụ), QHPL phức tạp (mỗi bên tham gia vừa có quyền và có nghĩa vụ). - Theo đặc trưng của sự tác động: +QHPL điều chỉnh: là tổ chức, triển khai, củng cố các quan hệ xã hội bằng cách trực tiếp điều chỉnh chúng. + QHPL bảo vệ: phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật. - Tính chất của những nghĩa vụ trao cho các bên tham gia: + Quan hệ pháp luật tích cực; + Quan hệ pháp luật thụ động. 4.2. THÀNH PHẦN CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT - Chủ thể; - Quyền và nghĩa vụ (nội dung của QHPL); - Khách thể.  Có sự xuất hiện của sự kiện pháp lý. 4.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật Muốn trở thành chủ thể quan hệ pháp luật thì trước hết phải là chủ thể pháp luật. Chủ thể pháp luật có thuộc tính đặc biệt do nhà nước trao cho là năng lực chủ thể tức là khả năng trở thành chủ thể quan hệ pháp luật. Năng lực chủ thể bao gồm: - Năng lực pháp luật; - Năng lực hành vi. - Năng lực pháp luật của chủ thể: là những khả năng của chủ thể được hưởng các quyền và phải gánh vác các nghĩa vụ mà Nhà nước quy định cho các chủ thể pháp luật trước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Đó là toàn bộ những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà chủ thể có thể có được theo quy định của pháp luật. - Năng lực hành vi của chủ thể: là khả năng của chủ thể được Nhà nước thừa nhận, bằng chính các hành vi của mình tham gia vào các quan hệ pháp luật và thực hiện các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý một cách độc lập, đồng thời tự mình gánh chịu hậu quả pháp lý. Chủ thể pháp luật mà chỉ có năng lực pháp luật mà không có năng lực hành vi thì không thể tham gia vào quan hệ pháp luật tức là không thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật cụ thể Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của chủ thể pháp luật không phải là thuộc tính tự nhiên của con người mà xuất hiện trên cơ sở pháp luật mỗi Nhà nước, phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Chủ thể của quan hệ pháp luật: cá nhân hoặc tổ chức. Điều 84- 99 Luật Dân sự 2005. 4.2.1.1. Cá nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật Muốn được hưởng tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, đòi hỏi cá nhân phải có năng lực chủ thể. Theo HP 2013, chủ thể pháp luật là tất cả các cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể pháp luật, đó là những công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam. Năng lực chủ thể của công dân xuất hiện từ lúc sinh ra, vì thời điểm đó họ được công nhận là chủ thể của pháp luật. Năng lực pháp luật của công dân xuất hiện từ lúc sinh ra như lĩnh vực quan hệ dân sự. VD: Đ 33 HP 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà PL không cấm”. Năng lực hành vi xuất hiện dần từ đủ 6 tuổi đến 18 tuổi: năng lực hành vi đầy đủ. Tuy nhiên, năng lực hành vi còn phụ thuộc vào sức khoẻ, trình độ.... Hạn chế: người tâm thần, người mắc bệnh truyền nhiễm, người phạm tội Khác với năng lực pháp luật, năng lực hạnh vi chỉ xuất hiện khi công dân đã đạt đến những độ tuổi nhất định và đạt được những điều kiện nhất định (cần giám hộ). Việc xuất hiện năng lực hành vi ở các chủ thể của mỗi loại quan hệ pháp luật khác nhau, phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Ví dụ: đủ 18 tuổi có năng lực hành vi đầy đủ. Tuy nhiên, nam chưa tham gia được quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình. Tổng thể những quyền tự do và nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật tạo thành địa vị pháp lý của công dân trong xã hội (quy chế pháp lý của công dân). Cá nhân khi trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật được gọi là Thể nhân. Người nước ngoài và người không có quốc tịch có thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật theo các điều kiện áp dụng cho công dân Việt Nam. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực: bị hạn chế. 4.2.1.2. Pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật Trong nhiều quan hệ pháp luật, pháp nhân giữ vai trò là chủ thể. Với tư cách là một chủ thể, pháp nhân phải hội đủ những điều kiện do pháp luật quy định. Các loại pháp nhân (điều 100 LDS) 1.Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân. 2. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. 3. Tổ chức kinh tế. 4. Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. 5. Quỹ xã hội, quỹ từ thiện. 6. Tổ chức khác được quy định tại điều 84 LDS. Pháp nhân (điều 84) Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi thõa mãn các điều kiện sau đây: 1. Được thành lập hợp pháp; 2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. 3.Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự mình chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. 4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật. Năng lực dân sự của pháp nhân (điều 86 LDS) 1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình. 2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân thành lập và chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân. 3. Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân nhân dân pháp nhân trong các quan hệ dân sự. Cũng như cá nhân, không phải pháp nhân nào cũng có đủ tư cách làm chủ thể trong tất cả các quan hệ pháp luật. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm và nội dung của mình, mỗi nhóm quan hệ pháp luật chỉ thừa nhận một số chủ thể nhất định. Ví dụ: Pháp nhân không thể là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ hôn nhân gia đình. Ngoài thể nhân và pháp nhân còn có một số chủ thể khác: Hộ gia đình, Tổ hợp tác (không phải là pháp nhân). 4.2.1.3. Nhà nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp nhân Nhà nước là chủ thể của quan hệ Luật Quốc tế đồng thời cũng là chủ thể của ngành Luật Nhà nước. Theo quy định của pháp luật, Nhà nước là chủ sở hữu tối cao và duy nhất đối với đất đai, lòng đất, rừng và một vài khách thể khác. Nhà nước trực tiếp tham gia vào quan hệ pháp luật: phát hành trái phiếu quốc gia, thừa kế, công nợ Nhà nước là chủ thể đặc biệt và không thể là bên bị và tài sản Nhà nước không thể bị tịch thu. 4.2.2. Khách thể của quan hệ pháp luật Các chủ thể khi tham gia vào những quan hệ pháp luật nhằm: - Thoả mãn nhu cầu vật chất (tiền bạc, tài sản) - Nhu cầu phi vật chất: danh dự, uy tín, ngưỡng mộ - Nhu cầu hoạt động chính trị- xã hội: đình công, lập hội, bầu cử Vậy, mục tiêu mà chủ thể hướng tới khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó với tư cách là chủ thể chính thì khách thể của quan hệ pháp luật. Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, chính trị, tinh thần mà các công dân, tổ chức mong muốn đạt được nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật và thực hiện quyền chủ thể, nghĩa vụ pháp lý. Lưu ý: Phân biệt khách thể QHPL và khách thể của sự điều chỉnh pháp luật - Khách thể pháp luật là những lợi ích vật chất và phi vật chất mà các chủ thể pháp luật mong muốn đạt được khi tham gia các quan hệ PL. - Khác thể của sự điều chỉnh pháp luật là những QHXH mà pháp luật hướng tới, tác động tới. 4.2.3. Nội dung quan hệ pháp luật Nội dung của QHPL là những quyền (cho phép) mà chủ thể được hưởng và những nghĩa vụ (bắt buộc) mà chủ thể phải gánh vác. - Quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật: là khả năng xử sự của các cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ đó được quy định trước và được Nhà nước bảo vệ bằng sự cưỡng chế. Quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo những cách thức nhất định được pháp luật cho phép. Thể hiện: + Khả năng tự mình thực hiện các hành vi mà pháp luật cho phép; + Khả năng yêu cầu các chủ thể khác phải thực hiện các hành vi đáp ứng quyền của mình; + khả năng yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình. Ngoài ra, quyền chủ thể phụ thuộc vào loại QPPL làm cơ sở cho nó xuất hiện: a.Nếu quyền chủ thể xuất hiện trên cơ sở trao nghĩa vụ thì người ta gọi nó là quyền năng; b.Quyền chủ thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao quyền là những loại, những biện pháp thuộc khả năng xử sự của bản thân chủ thể được Nhà nước bảo vệ. - Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể: là cách xử sự bắt buộc được QPPL xác định trước mà chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng quyền của các chủ thể khác, được biểu hiện: + Là sự bắt buộc phải thực hiện hành vi nhất định do pháp luật quy định. + Hành vi đó có thể là chủ động hoặc xử sự thụ động nhằm đáp ứng quyền của chủ thể khác. + Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không xử sự. - Nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trên cơ sở QPPL trao nghĩa vụ: được thực hiện bằng hành động tích cực của bên có nghĩa vụ nhằm thực hiện quyền năng của bên kia. - Nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trên cơ sở quy phạm ngăn cấm: bên có nghĩa vụ phải kiềm chế mình không thực hiện những hành vi bị ngăn cấm. Tóm lại, quyền và nghĩa vụ pháp lý trong QHPL cụ thể luôn là một thể thống nhất. QHPL là một trong những mắt xích cơ bản của cơ chế điều chỉnh pháp luật, là một trong những phương tiện pháp lý cơ bản để trật tự hoá, kích thích và hỗ trợ các quan hệ xã hội phát triển. 4.3. CÁC CĂN CỨ LÀM PHÁT SINH, THAY ĐỔI, CHẤM DỨT QUAN HỆ PHÁP LuẬT – SỰ KiỆN PHÁP LÝ Việc thừa nhận những điều kiện, hoàn cảnh đời sống là sự kiện pháp lý do Nhà nước thực hiện và thường ghi nhận trong phần giả định của QPPL. Sự kiện pháp lý là những hoàn cảnh, điều kiện của đời sống thực tế, thường được ghi nhận trong phần giả định của QPPL, mà nhà làm luật gắn sự xuất hiện, biến đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật với nó. Sự kiện pháp lý:là những sự kiện xảy ra trong thực tế mà pháp luật dự liệu, quy định làm phát sinh các hậu quả pháp lý (có thể làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự). Một sự kiện xảy ra trong thực tế có thể làm phát sinh nhiều hậu quả pháp lý. Ví dụ: Một người chết làm chấm dứt tư cách chủ thể của họ, đồng thời làm phát sinh quan hệ thừa kế. Có thể nhiều sự kiện pháp lý làm phát sinh một hậu quả pháp lý, như một người chết có di sản thừa kế, có di chúc hợp pháp để lại làm phát sinh thừa kế theo di chúc. Nếu cái chết đó do một hành vi phạm tội thì sẽ làm phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. QHPL luôn phát triển khi xã hội ngày càng phát triển. Tuy nhiên, do các đặc tính của các QHPL nên muốn làm phát sinh QHPL trước hết phải có luật để tác động, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặt khác, trong thực tiễn xã hội, có những quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trước khi Nhà nước ban hành QPPL đặt ra QPPL để điều chỉnh (nếu cần). Khi có QHPL thì điều kiện cần thiết thực hiện các QH đó là chủ thể có năng lực pháp lý. Kết luận: QPPL và chủ thể có năng lực pháp lý là những yếu tố quan trọng cho việc hình thành, thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt QHPL. Nhưng, cho dù đã có các yếu tố trên, QHPL vẫn chưa thể phát sinh trong thực tế, đòi hỏi chủ thể tự mình hoặc cùng chủ thể khác hành động, hay không hành động như luật định mới làm phát sinh QHPL. Hành vi của chủ thể dẫn đến hậu quả pháp lý. sự kiện pháp lý, nhờ nó mà các QPPL đang có hiệu lực thi hành phát sinh trong các quan hệ xã hội cụ thể, biến chúng thành quan hệ pháp luật. Như vậy, sự kiện pháp lý là những điều kiện hoàn cảnh, tình huống, sự kiện xảy ra trong đời sống thực tế mà sự xuất hiện hay mất đi của nó gắn liền với việc hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật. Phân loại: + Căn cứ vào hậu quả pháp lý có 3 loại: phát sinh, thay đổi, chấm dứt QHPL. + Căn cứ vào yếu tố dấu hiệu ý chí của chủ thể: sự biến và hành vi. 4.3.1. Sự biến Là những sự kiện pháp lý xuất hiện không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể, nhưng trong những trường hợp nhất định, sự hiện diện của chúng đem đến cho chủ thể pháp luật những hậu quả pháp lý nhất định. Ví dụ: Sinh, lão, bệnh, tử, hoặc do thiên tai mà hợp đồng kinh tế không thực hiện được. Ngoài ra, sự biến pháp lý cũng do con người gây ra hoặc phát sinh từ một văn bản pháp lý. 4.3.2. Hành vi Hành vi (có thể là hành động hoặc không hành động) là loại sự kiện pháp lý xuất hiện phụ thuộc vào ý chí của chủ thể do quy phạm pháp luật điều chỉnh và sự hiện diện của chúng đưa đến những hậu quả pháp lý nhất định. Gồm 2 loại: Hành vi hợp pháp và HVVPPL. - Hành vi hợp pháp: là những sự kiện pháp lý phù hợp với trật tự pháp luật, mà sự xuất hiện của chúng dẫn đến sự hình thành, thay đổi hay chấm dứt ở chủ thể những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Ví dụ: ký hợp đồng, ký đăng ký kết hôn - Hành vi vi phạm pháp luật: là hành vi có lỗi, trái pháp luật (như trộm cắp, cướp của, không tố giác tội phạm, không cứu người bị nạn) do những người có khả năng nhận thức được hành vi của mình và đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật gây ra. Những hành vi vi phạm pháp luật trên dẫn đến sự xuất hiện quan hệ pháp luật bảo vệ quan hệ pháp luật về trách nhiệm pháp lý. Hành vi vi phạm pháp luật gồm: hành vi tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật hành chính, hành vi vi phạm kỷ luật, hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Tóm lại, quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội xuất hiện dưới tác động điều chỉnh của quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý. Chương 5: THỰC HiỆN PHÁP LuẬT, VI PHẠM PHÁP LuẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 5.1. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích của Nhà nước nhằm bảo đảm làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống của con người và đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn khách quan trong từng giai đoạn phát triển lịch sử xã hội đặt ra. Khoa học pháp lý đã chia những hình thức thực hiện pháp luật thành: 5.1.1. Tuân thủ pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật theo đó đòi hỏi các chủ thể pháp luật phải tự kiềm chế để không thực hiện những hành vi hoặc tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Vì vậy, khi một chủ thể không tìm cách trốn tránh trách nhiệm của mình trong việc thực hiện những điều mà pháp luật buộc phải làm hoặc làm điều mà pháp luật cấm chính là sự tuân thủ pháp luật. VD: Tất cả phương tiện cơ giới đang lưu thông trên đường phải dừng lại trước tín hiệu giao đèn giao thông màu đỏ. 5.1.2. Thi hành pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể luôn luôn quan tâm đến việc thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động tích cực, có ý thức và tự giác. Vd: 5.1.3. Sử dụng pháp luật Là một hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình trong việc thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép. Ví dụ: khiếu nại tố cáo, chọn quyền 5.1.4. Áp dụng pháp luật 5.1.4.1. Khái niệm Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó, Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách (như Toà án, VKS,..) để quyết định theo quy định của pháp luật những việc mà chủ thể phải hoặc không được làm. (các chủ chủ thực hiện PL có NN can thiệp). Mục đích trực tiếp của áp dụng pháp luật là đảm bảo những quy phạm pháp luật được thực hiện một cách triệt để, đồng thời, đảm bảo trong mọi trường hợp các quy phạm pháp luật phát huy được hiệu lực cao nhất. Trong thực tế, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì quy phạm pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng. VD: TA xét xử và ra bản án áp dụng hình phạt chung thân cho một người phạm tội giết người được quy định trong LHS. Áp dụng pháp luật được thực hiện trong các trường hợp sau: - Khi cần thiết phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế do các chế tài pháp luật quy định để xử lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm PL. - Khi quan hệ pháp luật cũng như quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của chủ thể không tự nó phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. - Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không thể tự giải quyết được. Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật đã phát sinh, nhưng quyền và nghĩa vụ của các bên không được phân định do tranh chấp. - Trong một số QHPL, Nhà nước phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia quan hệ đó: xác nhận di chúc 5.1.4.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật 1. Áp dụng pháp luật là một hoạt động mang tính tổ chức thể hiện quyền lực Nhà nước: - Do cơ quan NN có thẩm quyền tiến hành. - Theo ý chí đơn phương của các cơ quan NN. - Tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và chủ thể liên quan. - Có thể áp dụng cưỡng chế. 2. Áp dụng pháp luật là hoạt động theo hình thức thủ tục do pháp luật quy định 3. Áp dụng PL là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các QHPL. 4. Áp dụng pháp luật có tính sáng tạo Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, quyền lực của NN được thông qua những cơ quan NN, người có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được NN trao quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm cá biệt hoá các QPPL vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. 5.1.4.3. Văn bản áp dụng pháp luật Đặc điểm: 1. Là yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp. Ví dụ: tuyên bố mất tích, chết 2. Do những cơ quan NN có thẩm quyền, các tổ chức xã hội được trao quyền áp dụng pháp luật ban hành và bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế NN. 3. Có tính chất cá biệt, một lần đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể trong trường hợp xác định. 4. Hợp pháp và phù hợp với thực tế. 5. Hình thức pháp lý xác định: bản án, quyết định, chỉ thị Văn bản áp dụng pháp luật bao gồm: - Văn bản áp dụng pháp luật tạo ra quyền và nghĩa vụ pháp lý: là văn bản xác định của thể ai mang quyền chủ thể, ai mang nghĩa vụ pháp lý bằng con đường cá biệt hoá phần quy định của QPPL. - Văn bản pháp lý mang tính bảo vệ pháp luật: là văn bản chứa đựng những biện pháp trừng phạt, cưỡng chế nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật. Như vậy, “văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt, có đặc trưng quyền lực, do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội được trao quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ chức hoặc những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm pháp luật”. 5.1.4.4. Những giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật. Xem sách 5.1.5. Áp dụng pháp luật tương tự 5.1.5.1. Khái niệm Áp dụng pháp luật tương tự là biện pháp mang tính tạm thời nhằm khắc phục những lỗ hỏng của pháp luật. Gồm 2 loại: - Áp dụng tương tự QPPL: là sự giải quyết những vụ việc pháp lý cụ thể trên cơ sở QPPL không phải được tính cho trường hợp này mà cho một trường hợp tương tự. - Áp dụng tương tự pháp luật: là sự giải quyết một vụ việc pháp lý cụ thể dựa trên nguyên tắc chung của pháp luật và ý thức pháp luật XHCN. 5.1.5.2. Các điều kiện chung khi áp dụng pháp luật tương tự. 5.1.5.3. Các điều kiện riêng cho mỗi loại áp dụng pháp luật tương tự. Xem sách. 5.2.VI PHẠM PHÁP LuẬT 5.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật Hành vi hợp pháp là những hành vi (hành động) của con người tạo hậu quả pháp lý mang tính tích cực, có ích cho xã hội, và hợp quy luật xã hội cũng như phù hợp (đúng với) nhưng quy định của PL; hoặc là sự kiềm chế khỏi hành động (không hành động) vi phạm pháp luật. Ngược lại, là hành vi bất hợp pháp (VPPL). Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý, là những chứng cứ pháp lý, gây nên những hậu quả pháp lý nhất định. Nó có thể dẫn đến việc làm xuất hiện, thay đổi, hoặc đình chỉ những quan hệ pháp luật nhất định. 5.2.2. Những dấu hiệu cơ bản của hành vi vi phạm pháp luật: 4 yếu tố 5.2.2.1. Hành vi vi phạm pháp luật luôn luôn là hành vi xác định của con người: được thể hiện qua hành động hoặc không qua hành động thông qua hành vi có ý thực hoặc không có ý thực của con người.  Ý nghĩ, ý niệm: không điều chỉnh 5.2.2.2. Tính trái pháp luật của hành vi Một hành vi của con người chỉ trở thành vi phạm pháp luật khi nó trái với quy định của PL, xâm hại tới các quan hệ XH đã được QPPL bảo vệ. HVi trái đạo đức nhưng không bị PL cấm không phải là Hvi VPPL. 5.2.2.3. Tính có lỗi của hành vi Lỗi: là trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi trái pháp luật gây nguy hại cho xã hội, Nhà nước hoặc những người khác tại thời điểm thực hiện hành vi và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi là yếu tố và là căn cứ không thể thiếu để xác định hành vi vi phạm pháp luật. 2 hình thức:Lỗi cố ý và lỗi vô ý - Lỗi cố ý: + Cố ý trực tiếp: là trường hợp người thực hiện hành vi trái pháp luật đã nhìn thấy trước tính nguy hại cho xã hội của hành vi và thấy được hậu quả của hành vi, nhưng mong muốn thực hiện hành vi và đạt được hậu quả của hành vi. + Cố ý gián tiếp: là trường hợp thực hiện hành vi trái pháp luật, tuy nhiên thấy trước tính nguy hại cho xã hội của hành vi và thấy được hậu quả của hành vi, tuy không mong muốn đạt được hậu quả của hành vi nhưng để mặc cho hậu quả đó xảy. - Lỗi vô ý: + Vô ý quá tin: là trường hợp người thực hiện hành vi trái pháp luật nhìn thấy trước tính nguy hại cho xã hội của hành vi nhưng cho rằng có thể khắc phục được hậu quả đó. + Vô ý do cẩu thả: là trường hợp khi người thực hiện hành vi trái pháp luật không nhìn thấy trước những hậu quả của hành vi do mình gây nên. 5.2.2.4. Chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phải có năng lực trách nhiệm pháp lý: gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật của họ gây nên. Tóm lại, “vi phạm PL là hành vi (hành động hay không hành động) trái pháp luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, gây xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Vi phạm pháp luật là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý”. 5.2.3. Phân loại hành vi VPPL: 4 loại 1. Vi phạm hình sự (tội phạm) Là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, nguy hại cho xã hội được quy định trong Bộ Luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh của Tổ quốc, xâm hại đến chế độ Nhà nước XHCN, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền tự do tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm đến những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN. (điều 8- BLHS). Tội phạm là vi phạm hình sự. Tội phạm là hành vi nguy hại cho xã hội ở mức độ nặng hơn so với những hành vi vi phạm pháp luật khác. Chủ thể chỉ là cá nhân. 2. Vi phạm hành chính Là những hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện trái pháp luật, xâm phạm tới quy tắc quản lý nhà nước, nhưng sự nguy hại cho xã hội chưa đến mức độ bị coi là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Quy tắc quản lý nhà nước: quản lý trật tư an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông, trật tự quản lý văn hoá, giáo dục, đất đai, tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Chủ thể vi phạm hành chính: cá nhân và tổ chức. 3. Vi phạm pháp luật dân sự Là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, gây nguy hại cho xã hội, làm xâm hại tới các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản, quan hệ nhân thân phi tài sản và các quyền công dân. Trách nhiệm dân sự nhằm phục hồi lại những quan hệ đã bị vi phạm hoặc thực hiện những nghĩa vụ chưa được thực hiện. Chủ thể: cá nhân và tổ chức. 4. Vi phạm nội quy, kỷ luật Là những hành vi có lỗi, xâm hại tới các chế độ, quy tắc tổ chức, quy định khiển trách, cảnh cáo, bồi thường.. cán bộ, viên chức NN 5.3. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 5.3.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm pháp lý được hiểu là trách nhiệm mà người có hành vi VPPL, có năng lực gánh chịu đối với những hậu quả do hành vi VPPL gây ra. Trách nhiệm pháp lý có cơ sở là VPPL, là QHPL đặc thù giữa NN thông qua các cơ quan có thẩm quyền (nhà chức trách hoặc những tổ chức xã hội được NN trao quyền) và chủ thể VPPL, trong đó, người VPPL phải chịu sự tác động của các biện pháp cưỡng chế NN đã được quy định ở chế tài của các QPPL. 5.3.2. Cơ sở xác định và truy cứu trách nhiệm pháp lý Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật. Không có VPPL thì không có trách nhiệm pháp lý. Vì vậy, để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi VPPL phải xác định được sự tồn tại của các yếu tố cấu thành VPPL (4 yếu tố). 1. Mặt khách quan của VPPL (là biểu hiện bên ngoài của HVVPPL) - Có hành vi vi phạm pháp luật; - Hậu quả gây ra thiệt hại hoặc có nguy cơ gây ra thiệt hại về vật chất và tinh thần mà XH gánh chịu; - Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội; - Phương tiện, công cụ, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm, thời gian VPPL. 2. Mặt chủ quan của VPPL là trạng thái tâm lý, ý chí của người thực hiện hành vi VPPL tại thời điểm thực hiện hành vi và đối với hậu qủa của hành vi đó. Nó bao gồm: lỗi (cố ý hay vô ý); mục đích và động cơ VPPL. 3. Chủ thể của VPPL là người thực hiện HVVPL (khi thực hiện HVVPL họ đã đạt mức tuổi do PL quy định và có năng lực trách nhiệm pháp lý) hoặc là tổ chức, pháp nhân. 4. Khách thể của hành vi VPPL là những quan hệ xã hội (quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, trật tự pháp luật xã hộ, trật tự quản lý, quyền tự do của công dân) được NN bảo vệ nhưng bị hành vi đó xâm hại tới. Như vậy, trách nhiệm pháp lý chỉ nảy khi có đầy đủ 4 yếu tố cấu thành nói trên, nếu thiếu bất kỳ một trong 4 yếu tố đó sẽ không có trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý ở trạng thái động qua các giai đoạn: - Xuất hiện trách nhiệm pháp lý; - Phát hiện trách nhiệm pháp lý; - Đánh giá chính thức của các cơ quan có thẩm quyền về trách nhiệm pháp lý; - Thực hiện trách nhiệm pháp lý. 5.3.3. Mục đích của trách nhiệm pháp lý Mọi hành vi vi phám pháp luật đều nguy hại cho xã hội và phá vỡ trật tự pháp luậ, vì nó trực tiếp xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại đến những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần và những quyền tự do hợp pháp của công dân, xâm hại đến những lợi ích của xã hội của Nhà nước được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người VPPL nhằm bảo vệ chế độ, tăng cường, củng cố trật tự đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ xã hội chủ nghĩa phát triển, pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện trách nhiệm pháp lý tại Việt Nam theo những nguyên tắc sau: - Chỉ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi, không truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tư tưởng; - Truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi trái pháp luật chỉ khi hành vi đó có lỗi; - Nguyên tắc pháp chế, công bằng, công khai, nhanh chóng, kịp thời. 5.3.4. Các loại trách nhiệm pháp lý Căn cứ vào mối quan hệ trách nhiệm pháp với các ngành luật: 5 loại 1. Trách nhiệm hình sự: chỉ do Toà án áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội được. 2. Trách nhiệm hành chính: chủ yếu do các cơ quan quản lý NN áp dụng đối với mọi người, tổ chức khi vi phạm pháp luật hành chính. 3. Trách nhiệm dân sự: Do toà án áp dụng đối với mọi chủ thể, chủ yếu là bồi thường. 4. Trách nhiệm kỷ luật: do thủ trưởng cơ quan, tổ chức áp dụng đối với thành viên khi họ vi phạm. 5. Trách nhiệm vật chất: biện pháp buộc bên vi phạm phải gánh chịu hậu quả vật chất. Chương 6: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 6.1. KHÁI NiỆM VÀ CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH HỆ THỐNG PHÁP LuẬT. 6.1.1. Khái niệm về hệ thống pháp luật Hệ thống pháp luật là tổng thể các QPPL có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật và các ngành luật độc lập, thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do NN ban hành theo một hình thức, trình tự và thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Hệ thống pháp luật được hiểu là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm cả cấu trúc bên trong (hệ thống cấu trúc, nội dung bên trong) và hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật (là hình thức biểu hiện bên ngoài của hệ thống đó). 6.1.2. Các bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật 6.1.2.1. Quy phạm pháp luật Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất (tế bào) trong hệ thống cấu trúc của pháp luật, nó vừa mang tính khái quát, vừa mang tính cụ thể. Tất cả các bộ phận cấu thành khác của hệ thống pháp luật đều được hình thành do sự kết hợp của những QPPL. 6.1.2.2. Chế định pháp luật Chế định pháp luật là thành tố ở cấp độ thứ hai của hệ thống cấu trúc của pháp luật. Chế độ pháp luật là một nhóm những QPPL có những điểm chung giống nhau, được NN ban hành nhằm điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội tương ứng và nó mang tính chất đặc thù của nhóm quan hệ mà nó điều chỉnh. Ví dụ: Chế định tài chính về đất đai, chế định về phương thức kinh doanh. Mặc dù chế định có tính đặc thù riêng, nhưng chúng có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau (chịu ảnh hưởng và tác động của các chế định khác) trong hệ thống pháp luật. 6.1.2.3. Ngành luật Ngành luật là thành tố ở cấp độ thứ ba tạo nên hệ thống pháp luật; được xác lập trên cơ sở phân chia các quy phạm pháp luật theo từng loại. Mỗi ngành luật trong hệ thống pháp luật đều mang tính độc lập, có đối tượng, phạm vi và phương pháp điều chỉnh riêng. Tuy nhiên, nó không hoan toàn biệt lập và đối kháng với các ngành luật khác. Tóm lại, nếu coi hệ thống pháp luật là cấu trúc bên trong của pháp luật và theo các cấp độ cấu trúc từ nhỏ đến lớn, ta có một trật tự: + Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự điều chỉnh một quan hệ xã hội chung. + Chế định pháp luật là một nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội tương ứng. + Ngành luật là tập hợp nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực nhất định. + Hệ thống pháp luật là tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh hầu hết những quan hệ xã hội quan trọng. 6.1.3. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật - Văn bản QPPL là hình thức (nguồn) cơ bản thể hiện bên ngoài của pháp luật NN VN. - Văn bản QPPL có tên gọi khác nhau, giá trị pháp lý khác nhau do các cơ quan khác nhau ban hành nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau; hệ thống văn bản QPPL mang tính chất thứ bậc. 6.3. CÁC NGÀNH LuẬT TRONG HTPLVN (xem sách) 6.4.NGÀNH LuẬT QuỐC TẾ TRONG HTPLVN 6.4.1. Công pháp quốc tế Công pháp quốc tế là tổng hợp hệ thống các nguyên tắc, những chế định, quy phạm do các quốc gia và các chủ thể khác của Công pháp quốc tế xây dựng nên hoặc công nhận trên cơ sở thoả thuận, tự nguyện, bình đẳng và bảo đảm thi hành để điều chỉnh các quan hệ quốc tế mà chủ yếu là quan hệ giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong các lĩnh vực như điều ước quốc tế, ngoại giao và lãnh sự, dân sự, biển và đại dương, lãnh thổ quốc gia và quốc tế,ngăn ngừa và loại trừ vũ trang, đấu tranh vì hoà bình cùng - Điều ước quốc tế: là nguồn thành văn của Luật Quốc tế, là văn kiện pháp lý quốc tế được thoả thuận giữa các chủ thể của Luật Quốc tế, trước hết và chủ yếu là các quốc gia, trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ quốc tế đối với nhau. (song phương, đa phương, có tính chất khu vực hoặc toàn cầu). + Hiến chương: là một loại điều ước quốc tế nhiều bên, trong đó ấn định những nguyên tắc lớn trong quan hệ giữa nhiều quốc gia với nhau (như hiến chương Liên Hiệp Quốc). + Hiệp ước: là tên gọi những văn kiện ấn định những vấn đề ý nghĩa lớn về mặt chính trị trong quan hệ giữa hai hay nhiều nước về vấn đề lãnh thổ, biên giới, thành lập liên minh chính trị, quân sự, kinh tế + Công ước: là danh từ dùng để chỉ những điều ước quốc tế có tính chất chuyên môn như: Công ước Vien về quan hệ ngoại giao 1961, Công ước Gionevo 1949 về bảo hộ nạn nhân chiến tranh. Cả 3 loại điều ước trên đòi hỏi phải thông qua thủ tục phê chuẩn của cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền của các quốc gia tham gia ký kết với có hiệu lực. + Hiệp định, là loại điều ước ấn định những nguyên tắc và những biện pháp chính nhằm giải quyết một quan hệ cụ thể nào đó giữa hai hay nhiều nước. + Nghị định thư, là văn kiện để giải thích, bổ sung, sửa đổi một điều ước quốc tế mà đã được ký kết hoặc ấn định những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện một Hiệp ước, Hiệp định nào đó, Ví dụ: Nghị định thư về trao đổi nhân viên quân sự bị bắt, thường dân nước ngoài bị bắt và nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt, giam giữ của Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam. + Tuyên bố chung, là văn kiện ghi nhận những điều thoả thuận giữa hai hay nhiều nước về những nguyên tắc hoặc phương hướng hành động chung đối với những vấn đề quốc tế nào đó + Công hàm, để trao đổi, là văn bản thoả thuận đối với những vấn đề không quan trọng hoặc cụ thể nào đó, chỉ trao đổi đơn giản mà không cần thiết tiến hành đàm phán. - Tập quán quốc tế là nguồn không thành văn của Luật Quốc tế, là những quy tắc xử sự do một số quốc gia áp dụng trong quan hệ quốc tế, dần dần được các quốc gia khác chấp nhận và áp dụng như một quy phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, không phải tất cả tập quán quốc tế đều được công nhận là nguồn của Luật Quốc tế bởi vì trong thực tiễn quan hệ quốc tế có những tập quán chỉ áp dụng trong quan hệ giữa hai hay một nhóm quốc gia. - Chủ thể cơ bản của công pháp quốc tế gồm: + Các quốc gia có chủ quyền; + Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập (những dân tộc này đang đấu tranh để trở thành quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền, có nghĩa là họ đang trở thành chủ thể cơ bản trong tương lại); + Các tổ chức quốc tế liên quốc gia (như khối ASEAN) + Các thực thể mang tính độc lập đặc biệt như thành phố độc lập: Vatican - Đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế giữa các chủ thể của hệ thống thế giới, trong đó chủ yếu là các quan hệ chính trị, kinh tế giữa các chủ thể này với nhau, nhưng không phải mọi quan hệ quốc tế đều là quan hệ pháp luật quốc tế Vì vậy, quốc gia này không có quyền đặt ra pháp luật bắt buộc quốc gia khác nhau tuân theo. Các quốc gia phải cùng nhau thoả thuận, xây dựng các nguyên tắc và quy phạm luật quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện. Các tập quán quốc tế chỉ được áp dụng như các quy phạm pháp luật của Luật Quốc tế nếu các quốc gia tự nguyện cùng chấp nhận và áp dụng. - Các nguyên tắc cơ bản trong Luật Quốc tế: + Tôn trọng chủ quyền quốc gia. Bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; + Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ bằng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập chính trị của các nước, hoặc nhằm mục đích khác với Hiến chương của Liên Hiệp Quốc; + Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình; + Không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; + Các dân tộc có quyền bình đẳng và tự quyết; + Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau; + Tự nguyện thực hiện những cam kết quốc tế và cùng tồn tại hoà bình. 6.4.2. Tư pháp quốc tế Tư pháp quốc tế là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản có tính chất quốc tế phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, hôn nhân và gia đình, tố tụng dân sự. Đó là quan hệ: về địa vị pháp lý của người nước ngoài, quan hệ tài sản, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ lao động có nhân tố quốc tế; nghĩa vụ theo các hợp đồng dân sự quốc tế, quyền tác giả, phát minh, sáng chế có yếu tố quốc tế cũng như tố tụng dân sự quốc tế. Ngành Luật Quốc tế, vì vậy có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Nó góp phần to lớn và quyết định đối với việc thực hiện các đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và NN ta trong việc đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ quốc tế. Chương 7: PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 7.1.KHÁI NiỆM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 7.1.1. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tôn trọng và chấp hành pháp luật một cách thường xuyên, chính xác, đầy đủ và thống nhất của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, các nhà nước chức trách và của mọi công dân. Điều 12 Hiến pháp 1992: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. “Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu trạnh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”. “Mọi hành đồng xâm phạm lợi ích của NN, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của nhân dân đều bị xử lý theo pháp luật”. Nhà nước sử dụng pháp luật làm phương tiện để quản lý xã hội theo những định hướng chính trị, kinh tế, văn hoá và đảm bảo cho các thể chế chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội và quyền tự do cũng như lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân. Lưu ý, mức độ chi phối của pháp luật đối với các mặt của đời sống xã hội tuỳ thuộc rất nhiều vào nguyên tắc, phương pháp mà NN áp dụng để quản lý xã hội. 1. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy NN XHCN 2. Pháp chế XHCN là nguyên tắc hoạt động của các TC CT-XH và các đoàn thể quần chúng 3. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xử sự của mọi công dân 4. Pháp chế XHCN có quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ XHCN 5. Pháp chế XHCN luôn luôn quan hệ chặt chẽ gắn bó với pháp luật XHCN, muốn có pháp chế XHCN trước hết phải có pháp luật XHCN. Pháp luật XHCN và pháp chế XHCN là hai khái niệm rất gần nhau, nhưng không đồng nghĩa. Trong đó pháp luật là tiền đề, là cơ sở của pháp chế, sẽ không có pháp chế nếu không có một hệ thống các QPPL, còn pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải nghiêm chỉnh tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong hoạt động của đời sống xã hội. Định nghĩa pháp chế XHCN: Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan NN, thành viên các tổ chức CT-XH, đoàn thể và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách thường xuyên, nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác, đầy đủ và thống nhất. 7.2. NHƯNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA PHÁP CHẾ XHCN 7.2.1.Phải bảo đảm tính thống nhất trong xây dựng văn bản pháp luật và thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước. 7.2.2. Bảo đảm mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật 7.2.3. Mọi chủ thể pháp luật phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. 7.2.4. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật về quyền lợi cũng như về trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật. 7.2.5. Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đã được pháp luật quy định. 7.2.6. Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả. Mọi vi phạm pháp luật phải được ngăn chặn và xử lý công minh. 7.3. NHỮNG BẢO ĐẢM ĐỐI VỚI PHÁP CHẾ XHCN (xem sách) 7.3.1. Những đảm bảo kinh tế. 7.3.2. Những bảo đảm chính trị. 7.3.3. Những bảo đảm pháp lý đối với pháp chế và trật tự pháp luật. 7.3.4. Những bảo đảm tư tưởng đối với pháp chế. 7.3.5. Những bảo đảm xã hội đối với pháp chế. 7.4. CÁC BiỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XHCN 7.4.1. Đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế. 7.4.2. Tăng cường công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN 7.4.3. Tăng cường công tác tổ chức, thực hiện và áp dụng pháp luật 7.4.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật. 7.4.5. Kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước và tư pháp 7.7. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VN (tự nghiên cứu) 7.7.1. Nhà nước pháp quyền là gì? Thứ nhất, NN pháp quyền không phải là một kiểu NN. Nói pháp quyền là nhấn mạnh tính pháp lý của NN. Thứ hai, Nhà nước pháp quyền là NN mà ở đó vai trò của pháp luật được đề cao; đảm bảo tính tối cao của các đạo luật, thể hiện sự ngự trị của pháp luật, sự ràng buộc bởi pháp luật đối với NN và tất cả những thành viên khác của xã hội. Thứ ba, NN phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Với tư cách là một bộ phận của xã hội, NN cũng phải tuân thủ và chấp hành pháp luật. Mọi vấn đề về tổ chức và hoạt động của NN phải được pháp luật quy định. Thứ tư, có sự phân định chức năng, nhiệm vụ giữa 3 cơ quan thực hiện 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lực NN là thống nhất, chỉ có sự phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan NN trên cơ sở pháp luật, chứ không có sự phân chia quyền lực. Tóm lại, NN pháp quyền VN là NN mà ở đó các quyền tự do, dân chủ của công dân luôn được tôn trọng và bảo vệ. NN được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; NN quản lý xã hội bằng pháp luật; quyền lực NN là thống nhất nhưng có phân công và phối hợp trong việc thực hiện quyền lực NN về lập pháp, hành pháp và tư pháp. 7.7.2. Một số nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng NN pháp quyền VN; 1. Tất cả quyền lực NN thuộc về nhân dân. 2. Quyền con người được tôn trọng và bảo vệ. 3. Các quan hệ xã hội căn bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật. 4. Thiết lập một cơ chế thực hiện pháp luật có hiệu lực, hiệu quả, có uy quyền thực sự. 7.7.3. Cải các bộ máy NN theo hướng xây dựng NN pháp quyền VN (xem sách)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_giang_phap_luat_dai_cuong_nguyen_thi_ngoc_anh.pdf
Tài liệu liên quan