Bài giảng tài chính tiền tệ

ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ 1.1 BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ 1.1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá dẫn đến sự xuất hiện của những "vật ngang giá chung". Đó là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp với nhiều loại hàng hoá khác nhau. Đặc điểm của chúng là có giá trị sử dụng thiết thực, quý hiếm, dễ bảo quản, dễ vận chuyển và thường mang tính đặc thù của địa phương. Trải qua quá trình phát triển, những "vật ngang giá chung" được thay đổi và ngày càng hoàn thiện để có thể đáp ứng cho việc trao đổi thuận tiện hơn và phạm vi trao đổi rộng lớn hơn. Sau những thứ hàng hoá không phải tiền tệ là những kim loại. Kim loại là những "vật ngang giá chung" được sử dụng rộng rãi nhất. Đầu tiên là sắt, kẽm, rồi đến đồng và bạc . Đầu thế kỷ 19 thì vàng đóng vai trò "vật ngang giá chung" thay thế cho tất cả các "vật ngang giá chung" khác, kim loại này đã được gọi là ‘kim loại tiền tệ". Khi một khối vàng có trọng lượng và chất lượng nhất định được chế tác theo một hình dạng quy định nào đó thì được gọi là "tiền tệ". Vàng trở thành vật ngang giá chung độc tôn trong trao đổi mua bán thì cái tên " Vật ngang giá chung" được thay bằng cái tên là " tiền tệ. " Vì tiền tệ có thể trao đổi trực tiếp với mọi hàng hoá trong bất kỳ điều kiện nào cho nên nó có thể thoả mãn được rất nhiều nhu cầu của người sở hữu nó. Chính vì vậy vàng -tiền tệ được coi là một thứ hàng hoá đặc biệt Sau này, để đáp ứng nhu cầu của của nền sản xuất-trao đổi phát triển, tiền tệ được thay thế bằng tiền kim loại, tiền giấy, tiền ghi sổ, tiền điện tử và đây là những hình thái hiện đại của tiền tệ và hiện nay vẫn đang được sử dụng 1.1.2. BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ Qua xem xét sự ra đời và phát triển của tiền tệ, ta thấy bản chất của tiền tệ là: "Tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò là vật ngang giá chung để đo giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Tiền tệ ra đời, phát triển và tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định, đó là 2 tiền đề: nền sản xuất hàng hoá và nhà nước. Tiền tệ có thể thoả mãn nhiều nhu cầu của người sở hữu nó, tương ứng với lượng giá trị mà người đó tích luỹ được". Tiền tệ ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, tiền tệ bằng vàng dần dần được thay thế bằng hình thức khác với tư cách là những vật thay mặt cho vàng và được bảo đảm giá trị bởi người phát hành ra nó dưới sự bảo hộ của pháp luật. Những hình thức như vậy của tiền tệ đã mang lại nhiều thuận lợi hơn cho quá trình trao đổi hàng hoá vì vậy chúng ngày càng được sử dụng rộng rãi. Cho đến ngày nay thì quan niệm về tiền không còn bó hẹp là vàng với tư cách là hàng hoá đặc biệt nữa mà tiền bây giờ là bất cứ những phương tiện nào được luật pháp công nhận là vật đóng vai trò trung gian trao đổi, thậm chí đó chỉ là những tờ giấy được in ấn những hình ảnh và màu sắc theo quy định nào đó. Gồm 107 trang

doc107 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1934 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoản thường xuyên (1 +2 +3 +4 +5) -99 B. Tài khoản vốn 6. Vốn xuất ra -59 7. Vốn nhập vào +56 8. Sai lệnh thống kê +73 C. Số dư giao dịch dự trữ chính thức (1+2+3+4+5+6+7+8) -29 A.Tài khoản thường xuyên Tài khoản thường xuyên biểu hiện các giao dịch quốc tế có liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thường xuyên. Bảng đối chiếu so sánh giữa thu về xuất khẩu hàng hoá (mục 1) và chi về nhập khẩu hàng hoá (mục 2) gọi là cán cân thương mại. Khi chi về nhập khẩu hàng hoá lớn hơn thu về xuất khẩu hàng hoá thì có cán cân thương mại thiếu hụt - nhập siêu Nếu thu về xuất khẩu lớn hơn chi về nhập khẩu hàng hoá thì có cán cân thương mại dư thừa - xuất siêu. Ba mục tiếp theo trong tài khoản thường xuyên là những khoản thu và chi ròng về lợi nhuận đầu tư, dịch vụ và di chuyển một chiều (viện trợ, kiều hối, lương hưu, ...) Tổng các hạng mục từ (1) đến (5) là cán cân tài khoản thường xuyên, Cán cân tài khoản thường xuyên đóng vai trò quyết định trong cán cân thanh toán của một nước. Bởi vì:Tài khoản thường xuyên +tài khoản vốn = thay đổi trong tài sản dự trữ của nhà nước. Cho nên một sự dư thừa hay thiếu hụt trong cán cân tài khoản thường xuyên đều được cân bằng bởi các giao dịch tài khoản vốn (cho vay hoặc vay nước ngoài) hoặc bởi việc thay đổi các hạng mục có của dự trữ nhà nước. B. Tài khoản vốn Tài khoản vốn phản ánh các luồng di chuyển giữa nước này với các nước khác. Vốn xuất ra là các nguồn vốn của nước này đầu tư ra nước ngoài (một hạng mục chi). Vốn nhập vào là các nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào nước này (một hạng mục thu). Sai lệnh thống kê phản ánh những sai sót, nhầm lẫn trong việc đo lường các giao dịch trên cán cân thanh toán. Đó là các giao dịch không được ghi chép đầy đủ như buôn lậu và các nguồn vốn khác. Khoản sai lệnh thống kê mà làm cho các tài khoản của cán cân thanh toán được cân bằng, ở đây là +73 tỷ USD. Các nhà kinh tế cho rằng, sai lệnh thống kê chủ yếu là do kết quả của những luồng vốn lớn di chuyển giữa các nước mà không kiểm soát được. Và như vậy, hạng mục này đã được đặt vào mục tài khoản vốn của cán cân thanh toán. C. Cán cân giao dịch dự trữ chính thức Tổng các hạng mục từ (1) đến (8). nghĩa là Cân bằng A và B Vì cán cân thanh toán phải được cân bằng, nên cán cân giao dịch dự trữ chính thức cho biết số dự trữ quốc tế ròng phải di chuyển giữa các ngân hàng trung ương để tài trợ cho các giao dịch quốc tế. ( Theo ví dụ trên, khoản thiếu hụt của giao dịch dự trữ chính thức là 29 tỷ USD.) 10.1.3. CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH CÁN CÂN THANH TOÁN Khi cán cân thanh toán quốc tế của một nước dư thừa ( chuyển vào nhiều hơn chuyển ra) nước đó có thể tăng cường đầu tư trong nước, chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp, bổ sùng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, ... Khi cán cân thanh toán thiếu hụt, phải áp dụng các biện pháp để cân bằng cán cân thanh toán của nước mình như : Thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, NHTW các nước thường nâng lãi suất chiết khấu nhằm tăng lãi suất thị trường, làm hấp dẫn hơn các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Ngoài ra tìm cách vay nợ hoặc tìm kiếm các nguồn viện trợ quốc tế để tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Sử dụng chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Các nước thường giảm giá đồng nội tệ so với ngoại tệ, nhằm kích thích xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, hạn chế nhập khẩu để tiết kiệm chi tiêu bằng ngoại tệ. Chính sách bảo hộ mậu dịch. Thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, đồng thời sử dụng hàng rào thuế quan để hạn chế nhập khẩu, giảm chi tiêu ngoại tệ. Xuất vàng để trả nợ. ( ở đây cần có sự phân biệt xuất vàng để cân bằng cán cân thanh toán quốc tế khi thiếu hụt với xuất khầu vàng như một hàng hoá thông thường trong thương mại, ... ) 10.2. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 10.2.1. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI Hầu hết các nước trên thế giới đều có đồng tiền của riêng mình. Quan hệ thương mại, dịch vụ, ... giữa các nước dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền khác nhau (thông dụng hơn cả là tiền gửi ngân hàng ghi bằng các đồng tiền khác nhau), đồng tiền này đổi lấy đồng tiền khác. Việc mua bán tiền và tiền gửi ngân hàng ghi bằng những đồng tiền riêng biệt được tiến hành tại thị trường ngoại hối. Việc mua bán các đồng tiền không được diễn ra tại các sở giao dịch như thị trường giao dịch chứng khoán. Thị trường ngoại hối được các nhà kinh doanh (đa số là các ngân hàng) mua và bán các khoản tiền gửi ghi bằng ngoại tệ. Bởi vì, những nhà kinh doanh này thường xuyên tiếp xúc với nhau bằng điện thoại và máy tính, nên thị trường này rất sôi động. Thực sự nó hoạt động không khác một thị trường tập trung. Khi các ngân hàng, các công ty, chính phủ mua bán tiền trên thị trường ngoại hối, không phải là họ cầm một nắm giấy bạc của mình và bán để lấy ngoại tệ, mà phần lớn giao dịch là mua và bán tiền gửi ngân hàng ghi bằng đồng tiền nước khác. Như vậy, khi chúng ta nói một ngân hàng mua hay bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, đó chính là ngân hàng mua, bán tiền gửi ghi bằng ngoại tệ. Việc mua bán trên thị trường ngoại hối được tiến hành thông qua một số nghiệp vụ chủ yếu như: Chuyển đổi ác-bít (arbitrage), mua bán ngoại tệ có kỳ hạn Soáp (swap), ... Thị trường ngoại hối cũng như nhiều thị trường khác, thường phải chịu sự can thiệp của Chính phủ. Nói chung, ở các nước hiện nay đều thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước, tức là một chế độ trong đó tỷ giá biến động hàng ngày, nhưng các ngân hàng tung ương can thiệp đến tỷ giá của đồng tiền nước mình bằng cách mua và bán trên thị trường ngoại hối một số tài sản của mình được ghi bằng ngoại tệ (gọi là dự trữ quốc tế). Việc mua bán này làm thay đổi cơ số tiền tệ, qua đó làm thay đổi tỷ giá và sự ổn định giá trị của đồng bản tệ. 10.2.2. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI a. Khái niệm : Tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước này sang thành những đơn vị tiền tệ nước khác. b. Phương pháp biểu hiện Phương pháp biểu hiện trực tiếp Đây là phương pháp biểu thị một đơn vị ngoại tệ bằng bao nhiêu đơn vị tiền tệ của nước mình. Ví dụ, Việt nam người ta niêm yết USD/VND = 15.000. Điều đó có nghĩa là 1 USD = 15000 đồng VN Theo phương pháp này, ngoại tệ là đồng tiền yết giá, còn tiền trong nước là đồng tiền định giá. Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều sử dụng phương pháp biểu hiện tỷ giá trực tiếp. Phương pháp biểu hiện gián tiếp Đây là phương pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ trong nước bằng bao nhiêu đơn vị ngoại tệ. (Theo tập quán, nước Anh và một số nước thuộc liên hiệp Anh thường sử dụng phương pháp này. ) Theo phương pháp gián tiếp thì tiền trong nước là đồng tiền yết giá, ngoại tệ là đồng tiền định giá. c. Vai trò Trong quan hệ so sánh giữa các đồng tiền thì, khi giá trị một đồng tiền tăng lên so với giá trị đồng tiền khác, có nghĩa là nó tăng giá ( và ngược lại) Tỷ giá có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, bởi vì nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài. Qua đó, nó tác động đến tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá và sự cạnh tranh hàng hoá giữa các nước với nhau trên thị trường quốc tế. Ví dụ, Tại Mỹ, một người mua một chai rượu vang của Pháp Nếu giá của chai rượu vang đó là 2000 Frăng và tỷ giá là 0,17748 Đôla Mỹ mỗi Frăng, thì người Mỹ đó phải mất 355 Đôla= (2000 x 0,17748). Nhưng nếu sau đó, tỷ giá Frăng Pháp đã tăng lên 0,20 Đôla mỗi Frăng, giá nội địa của chai rượu vang đó vẫn 2000 Frăng, thì giá của nó bằng đồng Đôla Mỹ bây giờ sẽ là 400 Đôla =(2000 x 0,20). Mặt khác, cùng với sự tăng giá của Frăng Pháp như vậy làm cho giá hàng Mỹ bán tại Pháp rẻ hơn. Với tỷ giá 0,17748 Đôla mỗi Frăng thì một máy tính của Mỹ trị giá 2000 Đôla được bán tại Pháp với giá 11269 Frăng (2000/0,17748), nếu tỷ giá lên 0,20 Đôla mỗi Frăng thì giá máy tính đó chỉ là 10000 Frăng (2000/0,20). Như thế, một sự tăng giá của Frăng Pháp so với Đôla Mỹ thì giá hàng của Pháp tại Mỹ tăng lên và làm giảm giá hàng Mỹ tại Pháp. Khi đồng tiền của một nước tăng giá thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó rẻ hơn (giá nội địa hai nước đó không đổi). Điều này làm cho những nhà sản xuất trong nước đó khó khăn hơn trong việc bán hàng của họ ở nước ngoài. Hạn chế xuất khẩu Ngược lại, một sự giảm giá của đồng tiền có thể làm cho những nhà sản xuất nước đó có ưu thế cạnh tranh trong việc bán hàng của họ ở nước ngoài, đồng thời hạn chế nhập khẩu. Kich thích xuất khẩu Trong điều kiện lưu thông tiền đúc bằng kim loại (vàng, bạc) thì cơ sở của việc hình thành tỷ giá là trọng lượng kim loại của các đồng tiền được so sánh, còn gọi là "ngang giá vàng". Chuyển sang chế độ tiền giấy được tự do chuyển đổi ra vàng thì cơ sở của việc hình thành tỷ giá là trọng lượng vàng theo luật định của các đồng tiền được so sánh với nhau. Ví dụ, trước năm 1970, nội dung vàng của một đồng bảng Anh (GBP) là 2,488281 gram vàng nguyên chất, của một USD là 0,888671 gram vàng nguyên chất. Như vậy 1 GBP = 2,80 USD (2,488281/0,888671). Ngày nay giấy bạc ngân hàng của các nước không được tự do chuyển đổi ra vàng và có xu thế thoát ly khỏi vàng, thì cơ sở chủ yếu để xác định tỷ giá hối đoái là sức mua của các đồng tiền, còn gọi là "ngang giá sức mua". Học thuyết ngang sức giá mua cho rằng, tỷ giá giữa hai đồng tiền của 2 nước sẽ được điều chỉnh để phản ánh những thay đổi trong mức giá cả của hai nước. Cũng như giá cả mọi hàng hoá trên thị trường tự do, tỷ giá được xác định bởi quan hệ cung -cầu và theo quy luật một giá. Và đây là thị trường quốc tế, cho nên nếu hai nước sản xuất một mặt hàng như nhau thì giá cả của hàng hoá đó như nhau trên toàn thế giới, không phân biệt nước nào sản xuất ra nó. Giả định, thép của Mỹ và thép của Nhật giống như nhau, thép của Mỹ giá 100 Đôla mỗi tấn và thép Nhật giá 10.000 Yên mỗi tấn. Quy luật một giá chỉ ra rằng, tỷ giá giữa Yên và Đôla phải là 100 Yên mỗi Đôla để cho một tấn thép Mỹ bán được với giá 10.000 Yên tại Nhật và một tấn thép Nhật bán được với giá 100 Đôla tại Mỹ. Giả định tỷ giá là 200 Yên Nhật mỗi đôla Mỹ Thép Nhật phải bán với giá 50 Đôla mỗi tấn ở Mỹ và thép Mỹ sẽ bán với giá 20.000 Yên mỗi tấn tại Nhật. Vậy thép Mỹ bán đắt hơn thép Nhật tại cả hai nước. Quy luật một giá đòi hỏi thép Mỹ giảm xuống cho đến khi nào tỷ giá sụt xuống bằng 10.000 Yên tại nhật, làm cho giá thép Mỹ ngang với giá thép Nhật tại cả hai nước. d. Phân loại Tuỳ vào mục đích sử dụng, tỷ giá có thể được phân chia theo các tiêu thức khác nhau: +Nếu dựa vào phương tiện chuyển hối, thì có: -Tỷ giá điện hối là tỷ giá mua bán ngoại tệ, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ được chuyển bằng điện -Tỷ giá thư hối là tỷ giá mua bán ngoại tệ, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ được chuyển bằng thư +Nếu dựa vào phương tiện thanh toán quốc tế, thì có: -Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ghi bằng ngoại tệ -Tỷ giá hối phiếu là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu ghi bằng ngoại tệ. Nếu hối phiếu trả tiền ngay thì gọi là tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay. Nếu là hối phiếu có kỳ hạn thì gọi là tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn +Nếu căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại tệ, thì có: -Tỷ giá mở cửa là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán món ngoại tệ đầu tiên trong ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái -Tỷ giá đóng cửa là tỷ giá áp dụng cho mua bán món ngoại tệ cuối cùng trong ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái +Nếu căn cứ vào phương thức mua bán, giao nhận ngoại tệ, thì có: -Tỷ giá giao nhận ngay là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng sẽ được thực hiện chậm nhất sau hai ngày làm việc -Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định +Nếu căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, thì có: -Tỷ giá hối đoái chính thức là tỷ giá hối đoái do nhà nước công bố (thường là ngân hàng trung ương) -Tỷ giá tự do là tỷ giá được hình thành tự phát và diễn biến theo quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường e. Chính sách quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái của ngân hàng trung ương - Chính sách chiết khấu. Ngân hàng trung ương bằng cách thay đổi lãi suất cho vay chiết khấu của mình để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi muốn cho tỷ giá hối đoái của mình giảm xuống, ngân hàng trung ương nâng cao lãi suất chiết khấu, làm cho lãi suất trên thị trường nâng lên, kết quả là làm cho các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường quốc tế chạy vào nước mình để thu lợi tức cao. Lượng vốn nước ngoài chạy vào sẽ góp phần làm dịu sự căng thẳng của cầu vượt cung ngoại hối, do đó lại làm cho tỷ giá giảm xuống. - Chính sách hối đoái. Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua bán ngoại tệ trên thị trường. Khi tỷ giá lên cao, ngân hàng trung ương tăng cường bán ngoại tệ ra thị trường để kéo tỷ giá ngoại hối tụt xuống. Song vấn đề quan trọng ở đây là ngân hàng trung ương phải có dự trữ ngoại tệ lớn, nếu cán cân thanh toán của một nước bị thiếu hụt thường xuyên thì khó có đủ số ngoại tệ để thực hiện phương pháp này. - Phá giá tiền tệ. Đây là sự nâng cao một cách chính thức tỷ giá hối đoái hay nói khác đi đó là việc nhà nước chính thức hạ thấp sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ. Nghĩa là tự phá giá đồng bản tệ. Phá giá tiền tệ làm cho giá trị đồng bản tệ giảm, tỷ giá giảm có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và hạn chế nhập khẩu hàng hoá, do vậy nó đã góp phần cải thiện cán cân thương mại, làm cho tỷ giá hối đoái bớt căng thẳng. Ví dụ tháng 12/1971, chính phủ Mỹ chính thức phá giá đồng Đôla với mức 7,89% tức là giá của 1 GBP tăng từ 2,40 USD lên 2,605 USD, hay mức mua của 1 Đôla giảm từ 0,416 GBP xuống 0,383 GBP. 10.3. THANH TOÁN QUỐC TẾ 10.3.1. CÁC PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN QUỐC TẾ a. Hối phiếu Hối phiếu là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhận được nó phải trả ngay hoặc phải trả vào một ngày xác định trong tương lai một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc trả cho người cầm hối phiếu theo lệnh của người ký phát hối phiếu Các tính chất của hối phiếu +Tính trừu tượng: Trên hối phiếu người ta không ghi nguyên nhân phát sinh hối phiếu mà chỉ ghi số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả số tiền đó mà thôi. Tính pháp lý của hối phiếu không bị chi phối bởi các nguyên nhân phát sinh hối phiếu. +Tính bắt buộc phải trả tiền của hối phiếu: Người phải trả tiền ghi trên hối phiếu bắt buộc phải trả đủ số tiền của hối phiếu cho người được hưởng, đúng thời hạn, mà không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì. +Tính lưu thông: Hối phiếu trong thời gian còn hiệu lực thì nó có thể lưu thông, tức được chuyển từ người thụ hưởng này sang người thụ hưởng khác. Phân loại + Căn cứ vào thời hạn trả tiền: -Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhận được hối phiếu do người cầm hối phiếu đưa đến thì phải trả tiền ngay cho họ -Hối phiếu có kỳ hạn: người có nghĩa vụ trả tiền phải trả số tiền ghi trên hối phiếu sau một thời gian nhất định, kể từ ngày người đó chấp nhận trả tiền trên hối phiếu, hoặc kể từ ngày phát hành ra hối phiếu đó. +Căn cứ vào hối phiếu có kèm chứng từ hay không -Hối phiếu trơn: loại hối phiếu này được gửi đến cho nhà nhập khẩu để đòi tiền, nhưng không kèm theo các chứng từ về hàng hoá. Trong thanh toán quốc tế, hối phiếu này được dùng để trả tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, tiền bồi thường, cá khoản phí và lệ phí -Hối phiếu kèm chứng từ: loại hối phiếu này được chuyển đến cho người nhập khẩu để đòi tiền, nhưng phải kèm theo các chứng từ về hàng hoá. Hối phiếu này có hai loại: hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay và hối phiếu kèm chứng từ có chấp nhận +Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng,: -Hối phiếu đích danh: là loại hối phiếu ghi rõ tên người thụ hưởng. Hối phiếu này không được tự do chuyển nhượng cho người khác -Hối phiếu theo lệnh: là loại hối phiếu trả tiền theo lệnh của người hưởng lợi hối phiếu. Loại hối phiếu này được tự do chuyển nhượng cho người khác thông qua thủ tục ký hậu. Đây là loại hối phiếu được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. b. Séc Séc là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện của người chủ tài khoản tiền gửi, ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người có tên trên séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định. Séc thường được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế về hàng hoá, cung cấp dịch vụ, du lịch, ... Séc có những loại sau: +Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng: Có 3 loại -Séc ghi tên: là loại séc ghi rõ tên người được hưởng lợi. Loại séc này không được chuyển nhượng, cho có người hưởng lợi được ghi trên tờ séc mới được nhận tiền ở ngân hàng -Séc vô danh: là loại séc không ghi tên người được hưởng lợi, mà chỉ ghi là "trả cho người cầm séc". Do vậy bất cứ ai cầm séc này cũng có thể nhận được số tiền trên tờ séc ở ngân hàng. Loại séc này được tự do chuyển nhượng cho người khác bằng hình thức trao tay. -Séc theo lệnh: là loại séc ghi trả theo lệnh của người hưởng lợi ghi trên tờ séc đó. Loại séc này được chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu +Căn cứ vào đặc điểm sử dụng thì có: - Séc tiền mặt: là loại séc dùng để rút tiền mặt ở ngân hàng trả tiền - Séc chuyển khoản: là loại séc mà người ký phát ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình chuyển sang một tài khoản khác. Séc chuyển khoản không thể chuyển nhượng và không thể rút ra bằng tiền mặt. - Séc du lịch: là loại séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại bất cứ một chi nhánh hay một đại lý nào của ngân hàng đó. ngân hàng phát séc cũng là ngân hàng trả tiền. Người hưởng lợi là khách du lịch có tiền tại ngân hàng phát séc. Trên séc du lịch phải có chữ ký của người hưởng lợi. Khi lĩnh tiền mặt người lĩnh tiền phải ký tên tại chỗ đển ngân hàng kiểm tra -Séc xác nhận: là séc được ngân hàng xác nhận việc trả tiền, loại séc này khả năng chi trả được bảo đảm chắc chắn 10.3.2. CÁC ĐIỀU KIỆN THANH TOÁN QUỐC TẾ a. Điều kiện về tiền tệ Trong thanh toán quốc tế, các bên phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của một nước nào đó. Bởi vậy, trong các hiệp định và trong các hợp đồng giao dịch đều phải thống nhất về đơn vị tiền tệ. Điều kiện tiền tệ cần làm rõ việc sử dụng loại tiền tệ nào để tính toán và thanh toán. ( Tiền tệ tính toán là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả và tính toán tổng giá trị hợp đồng. Tiền tệ thanh toán là tiền tệ được dùng để thanh toán nợ nần trong các giao dịch mua bán. ) b. Điều kiện về địa điểm thanh toán Địa điểm thanh toán có thể ở ngân hàng của nước xuất khẩu hoặc ngân hàng nước nhập khẩu, hoặc ngân hàng ở nước thứ ba nào đó. Thông thường các nước xuất khẩu, nhập khẩu đều muốn tiền được thanh toán tại ngân hàng nước mình. Do vậy, trong các hợp đồng mua bán, các hiệp định thanh toán phải quy định rõ địa điểm thanh toán. c. Điều kiện về thời gian thanh toán Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của bên mua và bên bán mà hai bên thoả thuận thời gian trả tiền cho thích hợp. Có các thời hạn trả tiền sau: +Trả tiền trước: là hình thức mà người nhập khẩu phải trả toàn bộ hay một phần số tiền hàng cho bên xuất khẩu ngay sau khi ký hợp đồng mua bán hay sau khi bên xuất khẩu chấp nhận đơn đặt hàng của bên nhập khẩu. Đây thực chất là người nhập khẩu cấp tín dụng cho người xuất khẩu. +Trả tiền ngay: Trả tiền khi người nhập khẩu nhận được điện báo của người xuất khẩu là hàng đã sẵn sàng bốc lên tàu và chuyển đi; Người nhập khẩu nhận được điện báo của trưởng tàu là hàng đã bốc xong lên tàu để chở đi; Khi người nhập khẩu nhận được bộ chứng từ hàng hoá đã gửi hoặc khi người nhập khẩu nhận được hàng hoá tại cảng đến, ... +Trả tiền sau: Trả tiền sau một thời gian nhất định, thời gian dài hay ngắn là do sự thoả thuận của hai bên mua bán. Trả tiền sau thực chất là nhà xuất khẩu cho vay đối với nhà nhập khẩu d. Điều kiện về phương thức thanh toán Quy định rõ người bán hàng bằng cách nào để thu tiền về và người mua bằng cách nào để trả tiền. Trong thực tế có phương thức thanh toán có lợi cho người mua, có phương thức thanh toán có lợi cho người bán. Do vậy, việc sử dụng phương thức thanh toán nào là do hai bên mua và bán thoả thuận với nhau. Thông thường hiện nay có mấy loại phương thức thanh toán sau: Phương thức thanh toán chuyển tiền, phương thức thanh toán nhờ thu và phương thức thanh toán thư tín dụng 10.3.3. CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ a. Phương thức thanh toán chuyển tiền Phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức thanh toán mà người mua (nhà nhập khẩu) thông qua ngân hàng chuyển tiền trả cho người bán (nhà xuất khẩu). Phương thức này không bảo đảm quyền lợi chắc chắn cho bên bán, vì việc trả tiền còn phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Do vậy, phương thức thanh toán chuyển tiền ít được sử dụng trong thanh toán ngoại thương. Nó thường được sử dụng trong việc ứng trước tiền hàng, trả tiền phạt, trả tiền hoa hồng. Nội dung phương thức thanh toán chuyển tiền được thể hiện qua trình tự sau đây: (1): Người trả tiền yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người được hưởng ở nước ngoài (2): Ngân hàng phục vụ người trả tiền thực hiện yêu cầu của người trả tiền, làm thủ tục và chuyển tiền ra nước ngoài, đến ngân hàng đã được chỉ định (3): Ngân hàng người nhận tiền sau khi đã nhận được tiền chuyển đến, thực hiện trả tiền cho người nhận b. Phương thức thanh toán nhờ thu Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán quốc tế mà người bán (nhà xuất khẩu ) sau khi giao hàng cho người mua (nhà nhập khẩu) thì ký phát hối phiếu đòi tiền ở người mua, rồi đến ngân hàng nhờ thu hộ số tiền trên hối phiếu đó. Nhờ thu có thể thực hiện bằng hai cách: +Nhờ thu phiếu trơn (Clean Collection) là người bán nhờ ngân hàng thu hộ tiền của hối phiếu ở người mua mà không kèm theo các chứng từ về hàng hoá. Người bán gửi hàng hoá cho người mua, đồng thời gửi bộ chứng từ hàng hoá cho người mua đi nhận hàng. (Phương thức này ít được sử dụng trong thanh toán tiền hàng hoá xuất nhập khẩu, vì nó không bảo đảm chắc chắn cho người bán nhận được tiền). Phương thức này thường được sử dụng để thu tiền cước phí vận tải, phí bảo hiểm, lệ phí, hoa hồng, ... +Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection) là người bán chuyển cho ngân hàng hối phiếu cùng với bộ chứng từ về hàng hoá để nhờ ngân hàng thu tiền ở người mua, với điều kiện người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới giao bộ chứng từ để đi nhận hàng. So với phương thức chuyển tiền thì phương thức nhờ thu kèm chứng từ bảo đảm hơn đối với người bán hàng, vì người bán đã có ngân hàng thay họ khống chế các chứng từ hàng hoá để đi nhận hàng. Nội dung phương thức thanh toán nhờ thu được thể hiện qua trình tự sau: (1): Căn cứ hợp đồng thương mại được ký kết, nhà xuất khẩu gửi hàng hoá cho nhà nhập khẩu (2): Ngay sau khi gửi hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ, phát hành hối phiếu và gửi cho ngân hàng phục vụ mình để nhờ ngân hàng thu hộ tiền (3): Khi nhận được bộ chứng từ, hối phiếu do người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng phục vụ người xuất khẩu kiểm tra lại chứng từ, hối phiếu và lập thư uỷ nhiệm, gửi các chứng từ ấy sang ngân hàng nước người nhập khẩu (4): Nhận được chứng từ, hối phiếu do ngân hàng người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng nước người nhập khẩu kiểm tra lại chúng, rồi thông báo cho người nhập khẩu biết (5): Nhận được bộ chứng từ do người xuất khẩu chuyển tới, nếu thấy hợp lệ thì người nhập khẩu trả tiền ngay hoặc chấp nhận trả tiền cho hối phiếu đó (6): Sau khi người nhập khẩu trả tiền, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu làm thủ tục chuyển trả số tiền ấy cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng người xuất khẩu. (7): Nhận được tiền do người nhập khẩu chuyển đến, ngân hàng người xuất khẩu trả số tiền đó cho người xuất khẩu và thông báo cho người xuất khẩu biết c. Phương thức thanh toán tín dụng thư Theo bản "Điều lệ và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ" của phòng thương mại quốc tế, thì thư tín dụng là một sự thoả thuận trong thanh toán, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của người nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến cho chi nhánh hay đại lý của ngân hàng này ở nước ngoài (ngân hàng thông báo thư tín dụng) một thư tín dụng để trả cho người được hưởng (người XK) một số tiền nhất định, trong phạm vi và thời gian xác định, với điều kiện người được hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những nội dung đã ghi trong thư tín dụng. Nội dung phương thức thanh toán bằng thư tín dụng được thể hiện qua trình tự sau đây: (1): Người nhập khẩu dựa vào hợp đồng thương mại đã ký kết với người xuất khẩu để làm thu tục xin mở L/C tại ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng mở L/C) cho người xuất khẩu hưởng (2): Theo yêu cầu của người nhập khẩu, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng. Ngân hàng này chuyển bản chính L/C cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng nước xuất khẩu ( Ngân hàng thông báo) (3): Ngân hàng xuất khẩu xác nhận L/C bằng văn bản và gửi bản chính L/C cho người xuất khẩu (4): Căn cứ vào L/C nhận được, nếu thấy phù hợp thì người xuất khẩu thực hiện hợp đồng thương mại cho người nhập khẩu, nếu không chấp nhận thì người xuất khẩu yêu cầu người nhập khẩu sửa đổi hoặc bổ sung lại L/C (5): Ngay sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo đúng yêu cầu của L/C xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh toán (6): Sau khi nhận được bộ chứng từ, ngân hàng mở L/C kiểm tra kỹ các chứng từ đó, nếu thấy phù hợp thì thanh toán tiền cho bộ chứng từ đó (7): Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền hay chấp nhận thanh toán (8): Người nhập khẩu sau khi nhận được bộ chứng từ do ngân hàng người xuất khẩu chuyển đến, kiểm tra kỹ các chứng từ, nếu thấy phù hợp thì chuyển tiền trả cho ngân hàng mở L/C Phân loại L/C +L/C có thể huỷ bỏ: là loại L/C mà ngân hàng và người mua lúc nào cũng có thể tự ý thay đổi, huỷ bỏ nó không cần báo trước cho người bán biết. Trong trường hợp có thêm ngân hàng đại lý tham gia thì việc sửa đổi hay huỷ bỏ chỉ có hiệu lực sau khi ngân hàng ký phát L/C đồng ý. Loại L/C này ít được sử dụng, vì nó không bảo đảm quyền lợi chắc chắn cho người bán +L/C không thể huỷ bỏ: là L/C mà khi ngân hàng đã mở L/C phải chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán trong thời hạn hiệu lực của L/C, họ không có quyền sửa đổi hay huỷ bỏ nó khi chưa có sự đồng ý của người bán. Loại L/C này bảo đảm quyền lợi cho người bán, nên trong thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi +L/C không thể huỷ bỏ có xác nhận: là loại L/C không thể huỷ bỏ nhưng được một ngân hàng khác bảo đảm trả tiền cho L/C theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. ngân hàng này xác nhận có trách nhiệm trả tiền cho người bán, nếu ngân hàng mở L/C không trả được tiền. Loại L/C này bảo đảm quyền lợi chắc chắn cho người bán hơn nên nó cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. 10. 4. TÍN DỤNG QUỐC TẾ 10.4.1. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI Tín dụng thương mại là hình thức tín dụng giữa ngưòi mua và người bán trong việc mua bán chịu hàng hoá. Tín dụng thương mại quốc tế được hình thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá giữa các nhà xuất nhập khẩu với nhau. Tín dụng thương mại quốc tế có hai loại chủ yếu: a. Tín dụng cấp cho nhà nhập khẩu Đây là loại tín dụng cho nhà xuất khẩu cấp cho nhà nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá nên còn gọi là tín dụng xuất khẩu. Có thể hiểu là nhà nhập khẩu (người mua) được nhà xuất khẩu (người bán ) cho chịu tiền hàng. Có hai cách để nhà xuất khẩu cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu: + Cấp tín dụng bằng cách chấp nhận hối phiếu. Người nhập khẩu ký chấp nhận trả tiền vào hối phiếu do người xuất khẩu ký phát cho họ. Khi người nhập khẩu chấp nhận trả tiền vào hối phiếu thì nhà xuất khẩu mới trao cho nhà nhập khẩu bộ chứng từ hàng hoá (Qua ngân hàng hoặc trực tiếp gửi cho nhà nhập khẩu. ) + Cấp tín dụng bằng cách mở tài khoản. Người xuất khẩu và người nhập khẩu ký với nhau hợp đồng mua bán hàng hoá, trong đó quy định quyền bên bán được mở một tài khoản để ghi nợ bên mua sau mỗi lần giao hàng. Theo kỳ hạn nhất định đã ký kết trong hợp đồng (tháng, quý, năm) người mua phải thanh toán số nợ đó cho bên bán. b. Tín dụng cấp cho nhà xuất khẩu Đây là loại tín dụng do người nhập khẩu cấp cho người xuất khẩu để nhập khẩu hàng hoá được thuận lợi, hay còn gọi là tín dụng nhập khẩu. ( người mua ứng trước tiền cho người bán) Người nhập khẩu ứng trước tiền hàng cho người xuất khẩu để nhập khẩu hàng hoá. ứng trước tiền hàng có thể vì lý do: +Ứng trước tiền hàng có tính chất tín dụng, trong trường hợp người xuất khẩu thiếu vốn để thực hiện hợp đồng cung cấp hàng hoá cho người nhập khẩu. +Ứng trước tiền hàng có tính chất như một khoản tiền đặt cọc, nhằm bắt buộc người nhập khẩu phải thực hiện đầy đủ các nội dung theo hợp đồng thương mại đã ký kết. 10.4.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG a. Tín dụng ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu Ngân hàng cho người xuất khẩu vay bằng cách chiết khấu hối phiếu chưa đến hạn trả tiền. Số tiền được vay bằng số tiền ghi trên hối phiếu trừ đi phần lợi tức chiết khấu .Thời hạn cho vay của loại này bằng thời hạn còn lại chưa đến hạn trả tiền của hối phiếu. Người trả tiền vay của loại cho vay này là người có nghĩa vụ trả tiền cho hối phiếu. Ngân hàng cũng có thể cho người xuất khẩu vay căn cứ vào số hàng hoá chuẩn bị xuất khẩu hay chứng từ hàng hoá đang trên đường đi. Ví dụ, một hối phiếu có kỳ hạn 90 ngày, số tiền ghi trên hối phiếu là 100.000 USD, nếu chiết khấu tại ngân hàng với lãi suất chiết khấu là 4%/năm thì người hưởng lợi hối phiếu sẽ được ngân hàng trả cho số tiền là: 100.000 USD -(100.000 * 4% * 90/360)=99.000 USD b. Tín dụng ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu Ngân hàng cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu chủ yếu bằng cách chấp nhận hối phiếu của nhà xuất khẩu. Có nghĩa là ngân hàng nhận trả tiền thay cho nhà nhập khẩu. Để bảo đảm chắc chắn khả năng chi trả hối phiếu, người xuất khẩu thường yêu cầu người nhập khẩu phải dùng một ngân hàng chấp nhận hối phiếu do họ ký phát. Trong trường hợp này, người xuất khẩu chuyển thẳng hối phiếu đến ngân hàng cấp tín dụng cho người nhập khẩu để chấp nhận trả tiền mà không phải chuyển cho người nhập khẩu. Nghiệp vụ chấp nhận này của ngân hàng là một nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng sẽ phải sử dụng vốn của mình, chịu mọi rủi ro của hối phiếu. Để ngân hàng làm việc này thì người nhập khẩu phải chịu chi phí. Nếu người nhập khẩu chuyển vốn đến cho ngân hàng để chấp nhận hối phiếu thì họ chỉ phải trả phí chấp nhận. Nếu ngân hàng dùng vốn của ngân hàng để chấp nhận hối phiếu thì người nhập khẩu phải trả phí chấp nhận và lợi tức vốn vay cho ngân hàng 10.4.3. TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC Đây là loại tín dụng giữa chính phủ các nước, tiến hành trên cơ sở các hiệp định vay vốn đã ký kết. Hiệp định vay vốn thường được ký tiếp sau các hiệp định về kinh tế giữa các nước. Loại tín dụng này thường có thời hạn dài, lãi suất ưu đãi. 10.4.4.TÍN DỤNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đây là loại tín dụng mà các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF, ADB, ...) cho vay đối với các nước thành viên, nhằm khắc phục khó khăn tạm thời về tài chính, hoặc tài trợ cho các chương trình, các dự án phát triển kinh tế xã hội. Loại tín dụng này thường có thời hạn dài, lãi suất ưu đãi, và các khoản vay thường phải đi liền với các dự án phát triển kinh tế xã hội của các nước thành viên. CHƯƠNG 11. LẠM PHÁT TIỀN TỆ 11.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI 11.1. 1. KHÁI NIỆM +Theo Các Mác: lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng lạm phát là "bạn đường" của chủ nghĩa tư bản. Ngoài việc bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống. +Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá cả chung. Theo ông "lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng -". +Còn Milton Friedman thì quan niệm: "lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài". Ông cho rằng: "lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ". 11.1.2. CÁCH XÁC ĐỊNH Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả. +Chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI (CoNgân sách Nhà nướcumer Price Index). CPI tính giá cả của một nhóm hàng tiêu dùng trên thị trường, đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư y tế. Chỉ số giá tiêu dùng được tính như lý thuyết thống kê CPI = 100 S1/iP*d1 +Chỉ giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index) Đây là chỉ số giá bán buôn. giá cả trong lần bán đầu tiên được người sản xuất ấn định. Số các mặt hàng được tính nhiều hơn Cách tính cũng theo lý thuyết thống kê +Chỉ số giảm phát GDP (I GDP) I GDP = GDP danh nghĩa GDP thực tế Chỉ số này toàn diện hơn CPI vì nó bao gồm giá của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ trong GDP. 11.1.3. PHÂN LOẠI LẠM PHÁT Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau. 11.1.3.1. Xét về mặt định lượng Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia lạm phát ra thành: +Lạm phát một con số mỗi năm: ( lạm phát vừa phải). Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể. Nếu không chấp nhận một tỷ lệ lạm phát thì phải chụi một tỷ lệ thất nghiệp nhất định +Lạm phát hai con số mỗi năm: (Lạm phát phi mã) . đây là loại lạm phát ở mức thấp ( )%/năm, nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền kinh tế có thể vẫn chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là không nhỏ. Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế. +Siêu lạm phát: Nhiều người coi các loại lạm phát này là siêu lạm phát vì nó có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh tế trở nên nghiêm trọng, kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh. 11.1.3.2. Xét về mặt định tính +Cách 1 chia thành -Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động. -Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất. +Cách 2 chia thành -Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này. -Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền tương lai. 11.2. NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT 11.2.1. CUNG ỨNG TIỀN TỆ Khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát. *Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng đạt ở mức sản lượng tự nhiên Yn và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P1 -điểm giao nhau của đường tổng cung AS1 và đường tổng cầu AD1. *Khi cung tiền tệ tăng lên thì tổng cầu tăng và +Đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. +Giao điểm đường tổng cung và tổng cầu chuyển đến điểm 1' +Sản phẩm tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên, tức là đạt tới Y1 (Y1 > Yn). +Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, và tiền lương tăng +Mức giá cả tăng lên đến P1'. * Nhưng tiền lương tăng lên và làm giảm tổng cung +Đường tổng cung dịch chuyển sang trái đến AS2. Nền kinh tế quay trở lại mức tự nhiên +Nền kinh tế ở điểm cân bằng mới (điểm 2), +Mức giá đã tăng đến P2. *Cung tiền tệ tiếp tục tăng lên, +Đường tổng cầu lại dịch chuyển sang phải, đến AD3 +Đường tổng cung tiếp tục dịch chuyển sang trái, đến AS3, +Nền kinh tế đạt tới mức cân bằng mới tại điểm 3. +Mức giá cả tăng lên đến P3. * Nếu cung tiền tệ vẫn tiếp tục tăng thì sự dịch chuyển của đường tổng cầu và tổng cung như trên lại tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn ( P càng tăng) -Nghĩa là lạm phát tăng +Việc tăng chi tiêu của chính phủ hoặc cắt giảm thuế cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Nhưng những vấn đề của chính sách tài khoá lại có giới hạn của nó, vì vậy việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này chỉ là tạm thời. +Những cú sốc tác động tiêu cực lên tổng cung (như việc tăng giá dầu do hậu quả của lệnh cấm vận dầu mỏ, đấu tranh của công nhân đòi tăng lương) cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không tiếp tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở lại vị trí ban đầu, do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một hiện tượng nhất thời. *Vậy lạm phát tăng cao chủ yếu do việc tăng trưởng tiền tệ (Cung ứng tiền tệ cao) 11.2.2. Chỉ tiêu công ăn việc làm cao Có hai loại lạm phát là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao, đó là lạm phát phí -đẩy và lạm phát cầu -kéo. 11.2.2.1. Lạm phát phí -đẩy Lạm phát phí -đẩy xảy ra do những cú sốc từ việc tăng lương gây ra, *Lúc đầu, nền kinh tế ở tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1, với mức sản lượng tự nhiên và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. * Do mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc do cho rằng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao, người lao động đòi tăng lương. Nếu giới chủ cấp nhận tăng lương cho người lao động +Tổng cung giảm -đường tổng cung dịch chuyển sang trái đến AS2. +Nền kinh tế sẽ chuyển đến điểm 1' +Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiên Y' (Y' < Yn) +Tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, +Mức giá cả tăng lên đến P1'. * Tỷ lệ thất nghiệp cao -Chính phủ không muốn. Chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh nhằm tác động lên tổng cầu, +Làm tăng tổng cầu, đường tổng cầu dịch chuyển ra AD2, +Nền kinh tế tại điểm cân bằng mới -điểm 2 +Sản lượng quay trở lại mức sản lượng tiềm năng +Tỷ lệ thất nghiệp trở lại mức tự nhiên, +Mức giá cả tăng lên đến P2. *Các công nhân tiếp tục đòi tăng lương lên cao hơn. Đồng thời, những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sự chênh lệch về mức lương trong tầng lớp công nhân, tình trạng đòi tăng lương lại tiếp diễn, kết quả là đường tổng cung lại di chuyển vào đến AS3, thất nghiệp lại tăng lên cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên và chính phủ lại tiếp tục phải thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu ra AD3 để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng tăng lên đến P3. *Nếu quá trình này cứ liên tục tiếp diễn thì kết quả sẽ làm việc tăng liên tục của mức giá cả, đây chính là tình trạng lạm phát phí -đẩy. +Những chính sách tài chính luôn có những giới hạn của nó nên mặc dù những chính sách này cũng gây ra những tác động làm tăng tổng cầu nhưng đó chỉ là tăng từng đợt không thể sử dụng trong thời gian dài. Như vậy, nó không thể được sử dụng để di chuyển liên tục đường tổng cầu. Nên việc tăng lên liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá trình tăng cung ứng tiền tệ liên tục. Hay nói tăng lương dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và Lạm phát tăng lên 11.2.2.2. Lạm phát cầu -kéo Vì mục tiêu công ăn việc làm cao, giảm tỷ lệ thất nghiệp, dẫn đến lạm phát cao *Giả sử ban đầu, nền kinh tế đang đạt tới mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, nền kinh tế đạt cân bằng ở điểm 1. * Nếu các nhà hoạch định chính sách theo đuổi một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. +Để đạt được mục tiêu này, các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng, đó là Yt (Yt > Yn +Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ làm tăng tổng cầu, +Đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra đến AD2, +Nền kinh tế chuyển đến điểm 1' +Sản lượng bây giờ đã đạt được tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng +Mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được. * Nhưng sau đó thì : Bởi vì tỷ lệ thất nghiệp thực tế trong nền kinh tế là thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng lên làm cho +Tổng cung giảm -đường tổng cung sẽ di chuyển sang trái đến AS2, +Nền kinh tế từ điểm 1' chuyển sang điểm 2'. - +Mức sản lượng trở về mức sản lượng tiềm năng và +Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên +Giá cả ở mức P2 cao hơn P1. * Đến lúc này, tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu mà các nhà hoạch định chính sách cần đạt được. Do đó, họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách làm tăng tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá trong nền kinh tế lên cao hơn. Do giới hạn của những chính sách tài chính nên việc tăng lên liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá trình tăng cung ứng tiền tệ liên tục. Lạm phát tăng lên 11.2.3. THÂM HỤT NGÂN SÁCH Khi thâm hụt ngân sách Chính phủ có thể khắc phục bằng biện pháp +Phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn trong dân chúng, bù đắp cho phù bị thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. +Một biện pháp khác chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu chính phủ là rất khó thực hiện. Đối với các quốc gia này, con đường duy nhất đối họ là "sử dụng máy in tiền". Vì thế, khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước tăng cao thì cung ứng tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng. ở các nước kinh tế phát triển, thị trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn trái phiếu chính phủ có thể được bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước được thực hiện từ nguồn vốn vay của Chính phủ. Tuy nhiên, nếu chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng, do đó lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường, Ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các trái phiếu đó, điều này lại làm cho cung tiền tệ tăng. Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát. 11.2.4. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. : +Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái. +Khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao, Cả hai nguyên nhân gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều các hàng hoá khác, chi phí đầu vào tăng ( Như tăng lương), dẫn đến lạm phát phí -đẩy 11.3. ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT 11.3.1. ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT Từ thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, thấy rằng: lạm phát cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc gia. Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất. Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả kinh doanh của mình, tức là luôn luôn phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Ta biết rằng: Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa -Tỷ lệ lạm phát Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng. 11.3.2. ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP THỰC TẾ Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động. Vì lạm phát đã làm cho giá trị tiền tệ giảm, biểu hiện cụ thể là giá cả tăng. Ngay cả khi thu nhập danh nghĩa tăng nhưng chậm hơn mức tăng giá cả thì thu nhập thực tế vẫn giảm. Như vậy Lạm phát đã làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi (tức tiền mặt) Lạm phát làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Khi có lạm phát -Người cho vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát. Người cho vay có thu nhập cao nên nộp thuế nhiều hơn. Nhưng thu nhập cao đó là do người cho vay tăng lãi cho vay danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát chứ lãi suất thực tế vẫn như cũ. Có nghĩa là thu nhập thực tế không tăng. Nhưng Nhà nước thu thuế theo thu nhập danh nghĩa và thế là số tiền nộp thuế thu nhập tăng lên. Cuối cùng thu nhập còn lại của người cho vay giảm đi Ngoài ra từ việc suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với chính phủ và những hậu quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra. 11.3.3. ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÂN PHỐI THU NHẬP TRONG XÃ HỘI Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được lợi. Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay. Từ đó thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao. Về phía người có tiền nhàn rỗi dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung -cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt cao Cuối cùng, những người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Trong khi đó, những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo. 11.3.4. ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÌNH HÌNH NỢ QUỐC GIA Lạm phát đã làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài. Các khoản nợ nước ngoài tăng lên 11.4. KHẮC PHỤC LẠM PHÁT 11.4.1. NHỮNG BIỆN PHÁP TÌNH THẾ Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời "cơn sốt lạm phát", trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát. Trước hết là phải giảm lượng tiền trong nền kinh tế như ngưng phát hành tiền vào lưu thông. Như: -Dừng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ (như dừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.) -áp dụng các biện pháp làm hút tiền từ lưu thông về Ngân hàng Trung ương như: (Ngân hàng Trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, bán ngoại tệ và vàng, phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước, tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư). Các biện pháp này rất có hiệu quả vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân. Do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. ( ở VN, các biện pháp này đã được áp dụng thành công vào cuối những năm 80, đầu những năm 90.) -Thi hành "chính sách tài chính thắt chặt" như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được. -Tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích mậu dịch tự do, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào. -Đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài. - Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm phát lên quá cao mà các biện pháp trên đây chưa mang lại hiệu quả mong muốn. 11.4.2. NHỮNG BIỆN PHÁP CHIẾN LƯỢC Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài của đất nước, làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách bền vững. Các biện pháp chiến lược thường được áp dụng là: -Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân Bởi vì: -Sản xuất trong nước ngày càng phát triển ® quỹ hàng hoá được tạo ra sẽ ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về chủng loại, ® Tạo tiền đề vững chắc nhất cho sự ổn định tiền tệ. -Mặt khác Chính phủ cần phải chú trọng phát triển các ngành các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ như xuất khẩu hàng hoá, phát triển ngành du lịch, ... -Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách nhà nước. -Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho chính sách nhà nước một cách hợp lý, chống nhất thu, đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước. +Dùng lạm phát để chóng lạm phát: Đây là biện pháp sẽ tạo ra sự hợp lý để ổn định lưu thông tiền tệ. Biện pháp này được sử dụng đối với những nước có nhiều nguồn tàI nguyên, có nguồn nhân lức dồi dào mà chưa được khai thác hết cho sản xuất, Nhà nước sẽ phát hành tiền để có thể huy động các nguồn lực này để tạo ra sản phẩm hàng hoá. Nếu sử dụng đúng hướng và đúng mức thì nó là nhân tố tích cực để liên kết và huy ®«ng ®­íc các nguồn lực trong xã hội để tạo ra sự ổn định cho lưu thông tiền tệ.a

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctai_cinh_tien_te_8031.doc
Tài liệu liên quan