Bài giảng thống kê tài chính (Bản đẹp)

Trong thực tế việc thu thập số liệu thống kê giá và lượng hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng là rất phức tạp, đặc biệt là lượng (q). Chính vì vậy phương án khả thi là điều tra chọn mẫu thông qua cuộc điều tra mức sống dân cư của cơ quan thống kê thực hiện và xác định cho từng nhóm mặt hàng một quyền số cố định, dựa trên tầm quan trọng (tỷ trọng) của nó trong tổng chi phí cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình dân cư. Thống kê Việt Nam giai đoạn 2006 -2010 xác định Danh mục hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng và được chia thành 4 cấp: cấp I có 10 nhóm, cấp II có 34 nhóm, cấp III có 86 nhóm và cấp IV có 237 mặt hàng. Dựa theo danh mục này cơ quan thống kê các địa phương điều tra thu thập giá và tính CPI theo một cơ cấu quyền số ố định, cụ thể theo công thức sau:

pdf87 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 423 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng thống kê tài chính (Bản đẹp), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng chi, bao gồm các khoản: chi bồi thường theo định mức bảo hiểm gốc và nhận tái bảo hiểm; chi đề phũng và hạn chế tổn thất (tớnh theo tỷ lệ định mức so với doanh thu thực tế của phí bảo hiểm gốc); hoa hồng bảo hiểm gốc (đại lí, cộng tác viên); hoa hồng nhận tái bảo hiểm; chi phí giám định Cần lưu ý: Phương pháp xác định lợi nhuận trong kinh doanh bảo hiểm khác với phương pháp xác định lợi nhuận tỏng cỏc ngành kinh tế khỏc ở chỗ: mỗi loại hỡnh bảo hiểm (bảo hiểm gốc, tỏi bảo hiểm) cú phương pháp xác định lợi nhuận riêng và mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm trong lọai hỡnh đó cũng có phương pháp xác định lợi nhuận khác nhau. Đó là do các đặc điểm thu, chi của bảo hiểm gốc, tỏi bảo hiểm và mỗi nghiệp vụ bảo hiểm trong loại hỡnh bảo hiểm đó khác nhau. Lợi nhuận trong ngành bảo hiểm được xác định theo năm tài chính (là năm các công ty bảo hiểm thực hiện các báo cáo kế toán và báo cáo thống kê theo quy định của nhà nước) Có nhiều phương pháp xác định lợi nhuận khác nhau dẫn đến các kết quả khác nhau. Trong thực tế vận dụng phương pháp nào thu được kết quả gần đúng sẽ là phương pháp tốt hơn. Cụ thể: * Phương pháp 1 Lbh= (Phí BH + Hoa hồng tái BH + thu đũi người thứ 3) – (Chi bồi thường BH + chi trích quỹ bồi thường tổn thất + chi quản lí + chi khác) * Phương pháp 2: Lbh = Lbh1 + Lbh2 60 Trong đó: Lbh1 = (phí BH + thu đũi người thứ 3) – ( chi bồi thường BH + chi đề phũng hạn chế tổn thất + chi quản lớ) Lbh2 = (Thu bồi thường tái BH + hoa hồng tái BH) – (phí tái BH + đũi người thứ 3 tái BH + chi quản lí) * Phương pháp 3: Lbh = (phí BH – phí tái BH) + (đũi người thứ 3 BH - đũi người thứ 3 tái BH) – (bồi thường BH – bồi thường tái BH) – (chi đề phũng hạn chế tổn thất + chi quản lớ và chi khỏc) + hoa hồng tỏi BH. Chương 4. THỐNG KÊ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 4.1. THỐNG KÊ TIỀN TỆ VÀ LƯU CHUYỂN TIỀN TỆ Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế thị trường các luồng tiền và khối lượng tiền đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ với quá trình sản xuất, thúc đẩy và điều tiết sự phát triển của nền kinh tế. Kinh tế học đã chỉ rõ tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan ra đời cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Về bản chất tiền là vật ngang giá chung với chức năng cơ bản là: đơn vị đo lường giá trị, phương tiện thanh toán (trao đ ổi) và là phương tiện dự trữ về mặt giá trị. Hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế lưu chuyển qua trao đổi, mua bán và các hình thức giao dịch khác, tích luỹ trong nền kinh tế quốc dân được thực hiện bằng phương tiện tiền tệ. Những luồng lưu chuyển bằng t iền tệ, bằng tiền mặt hoặc không bằng tiền mặt được gọi là lưu chuyển tiền tệ. Đối tượng nghiên cứu của thống kê tiền tệ và lưu chuyển tiền tệ là mặt lượng của quá trình lưu chuyển tiền tệ. Nghĩa là nó thu thập, tổng hợp và phân loại cũng như phân tích các giao dịch bằng tiền mặt, phi tiền mặt, mối quan hệ giữa các khối lượng tiền trong nền kinh tế. 4.1.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê tiền tệ và lưu thông tiền tệ Hệ thống chỉ tiêu thống kê tiền tệ và lưu thông tiền tệ có thể được xây dựng theo 3 nhóm: - Nhóm chỉ tiêu các dạng tiền tệ - Nhóm chỉ tiêu vĩ mô về tiền tệ và lưu thông tiền tệ 61 - Nhóm chỉ tiêu khối lượng tiền tệ 4.1.1.1. Nhóm chỉ tiêu các dạng tiền tệ Chúng ta đều biết rằng phạm trù "tiền tệ" được xác định theo chức năng của chúng: là thước đo giá trị, là phương tiện thanh toán và là phương tiện tích luỹ về mặt giá trị. Tuy vậy trong nền kinh tế hiện đại một số tài sản được sử dụng có tính năng tương tự tiền và trên cơ sở này, người ta có thể phân loại tiền tệ theo các dạng sau đây: - Tiền mặt (tiền ký hiệu) là tiền do NHTW phát hành có tính quy ước và tính pháp định. Lưu thông tiền mặt là sự vận động của tiền mặt trong quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ bằng cách thanh toán. Thống kê tiền mặt có thể nghiên cứu các chỉ tiêu sau: + Tiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng + Tiền mặt nằm trong hệ thống ngân hàng + Toàn bộ tiền mặt trong lưu thông bằng tổng tiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng và tiền mặt nằm trong hệ thống ngân hàng. - Tiền gửi (tiền phi tiền mặt) là một bộ phận của lưu thông tiền tệ, trong đó tiền vận động theo phương thức chuyển khoản giữa người mua và người bán với nhau mà không cần tiền mặt. - Giấy tờ có giá trị (chứng từ có giá) là các tài sản tài chính có tính thanh khoản cao như các loại trái phiếu ngắn hạn và các tài sản dễ chuyển đổ thành tiền mặt. - Tiền quốc tế (hay phương tiện thanh toán quốc tế) đó là vàng dùng trong thanh toán, ngoại tệ mạnh và SDRs - quyền rút tiền đặc biệt. - Các chỉ tiêu bổ sung: + Số nhân tiền gửi hay hệ số nhân tiền gửi cho biết khối lượng tiền được nhân lên bao nhiêu lần (về mặt lý thuyết) khối lượng tiền mặt trong hệ thống ngân hàng. Chúng ta biết rằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTW được tính theo công thức: r = khối lượng tiền dự trữ (R) khối lượng tiền gửi (D) Từ đó ta có đồng nhất thức của số nhân tiền gửi: m = 1 = D r R 62 + Tiền cơ sở - H (tiền nền, tiền mạnh) là tổng giá trị của những đồng tiền mặt do NHTW phát hành ra. Gọi là tiền mạnh, tiền nền vì chúng có khả năng tạo ra tiền gửi (D-deposit) 4.1.1.2. Nhóm chỉ tiêu khối lượ ng tiền tệ - Khái niệm chung: Khối lượng tiền trong lưu thông (M) là tổng giá trị của các đồng tiền hiện có trong nền kinh tế được dùng làm phương tiện trao đổi. Như chúng ta đã biết tiền mặt (H) do NHTW phát hành ra một bộ phận nằm trong tay công chúng (dân cư và các tổ chức), bộ phận này gọi là tiền mặt trong lưu thông (C), một bộ phận được công chúng gửi vào ngân hàng gọi là tiền gửi (D). Như vậy khối lượng tiền tệ: M = C + D Có nhiều quan điểm khác nhau về khối tiền (M) này, bởi vậy dẫn đến nhiều định nghĩa và theo lý thuyết tiền tệ chúng ta có các định nghĩa về khối lượng tiền tệ sau đây: - Khối lượng tiền M1 bao gồm: tiền mặt trong lưu thông (C) + tiền gửi không kỳ hạn (bao gồm tiền tiết kiệm không kỳ hạn và tiền ký gửi dùng để thanh toán). - Khối lượng tiền M2 bao gồm: M1 + tiền gửi ngắn hạn (bao gồm tiền tiết kiệm ngắn hạn và tiền ký gửi ngắn hạn) - Khối lượng tiền M3 bao gồm: M2 + tiền gửi dài hạn - Khối lượng tiền L bao gồm: M3 + các chứng từ có giá (trái phiếu, thương phiếu,...) 4.1.1.3. Nhóm chỉ tiêu vĩ mô về tiền tệ Khối lượng tiền (M) như đã trình bày ở trên đảm bảo chức năng thanh toán và vận động của tư bản (vốn) trong nền kinh tế. Giả định thời kỳ nghiên cứu là 01 năm thì khối lượng tiền lưu chuyển về mặt lý thuyết đúng bằng giá t rị giao dịch cuối cùng của nền kinh tế, tức bằng giá trị của GDP. Ta có phương trình: VM = GDP Trong đó: M - là khối tiền chuẩn (khối lượng tiền định mức) V - là tốc độ lưu thông tiền tệ (số vòng quay tiền tệ) VM - là khối lượng tiền lưu chuyển (khối lượng tiền giao dịch trong kỳ) - Chỉ tiêu Tốc độ lưu thông tiền tệ (V) phản ánh số vòng quay của một đơn vị tiền tệ với chức năng là phương tiện thanh toán trên thị trường hàng hóa và dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. 63 V = GDP M Ví dụ giả định: năm 2006 GDP của Việt Nam là 900 ngàn tỷ, M = 300 ngàn tỷ đồng. Tốc độ lưu chuyển tiền tệ của Việt Nam năm 2006 là: V = 900 = 3 vòng 300 - Chỉ tiêu Thời gian lưu thông tiền tệ (t) phản ánh độ dài bình quân một vòng quay của một đơn vị tiền tệ. t = T V Trong đó: T- là độ dài thời kỳ nghiên cứu Trong ví dụ trên T = 360 ngày và thời gian lưu thông tiền tệ là: t = 360 = 120 ngày 3 4.1.2. Phương pháp xác định khối tiền và phân tích tốc độ chu chuyển tiền tệ - Phương pháp xác định khối tiền (M) Ta biết rằng khối lượng tiền cơ sở (H) sau khi NHTW phát hành một bộ phân nằm trong tay công chúng (C), một bộ phận nằm trong các ngân hàng (R), tức là: H = C + R Đồng thời ta lại biết: M = C + D Chia cả 2 vế cho H ta được: M = C + D H C + R Chia cả tử và mẫu ở vế phải phương trình trên cho D ta được: M = C/D + 1 H C/D + R/D Đặt: c = C/D là tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi và ta lại biết r = R/D, do đó: M = c + 1 H c + r 64 Tỷ lệ: c + 1 = m c + r m được gọi là hệ số nhân tiền thực tế. Từ phương trình trên ta có thể xác định khối tiền chuẩn M = m.H Trong thực tế nếu không có ngân hàng thì tiền gửi không có và 100% lưu thông là tiền mặt, khi đó m = 1. Và chúng ta biết rằng Hệ số nhân tiền gửi 1/r nhận giá trị trong khoảng 1 đến ∞, nhưng trong thực tế hệ thống ngân hàng luôn tồn tại một lượng tiền mặt. Ví dụ giả định: tháng 3/2007 lượng tiền cơ sở - H của NHTW Việt Nam phát hành là 200 ngàn tỷ đồng, tỷ lệ tiền mặt C = 50%, r = 10% Tính số nhân tiền: m = 0,5 + 1 = 2,5 lần 0,5 + 0,1 Từ đó: M = m.H = 2,5 x 200 = 500 ngàn tỷ đồng - Phân tích các nhân tố tác động đến tốc độ lưu chuyển tiền tệ Ta có: V = GDP/M = GDP/C x C/M = VC x dC Trong đó: VC - là tốc độ lưu thông tiền mặt dC - là tỷ trọng tiền mặt trong khối tiền tệ Phân tích biến động của tốc độ lưu chuyển tiền tệ do ảnh hưởng của hai nhân tố: tốc độ lưu thông tiền mặt và tỷ trọng tiền mặt trong khối tiền tệ qua ví dụ giả định sau đây: Chỉ tiêu kỳ gốc kỳ nghiên cứu 1. Khối lượng tiền chuẩn (tỷ $) 600 700 2. Khối lượng tiền mặt (tỷ $) 180 260 3. GDP (tỷ $) 2000 2400 Phần tính toán 4. VC (vòng) - vòng quay tiền mặt 11,111 9,231 5. tC (ngày) - thời gian lưu thông tiền mặt 32,4 39,0 6. V (vòng) - vòng quay tiền tệ 3,333 3,429 7. t (ngày) - thời gian lưu thông tiền tệ 108 105 8. dC - tỷ trọng tiền mặt trong khối tiền chuẩn 0,30 0,37 Biến động chung của tốc độ lưu thông tiền tệ kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc là: 65 ÄV = V1 - V0 = 3,429 - 3,333 = 0,095 (vòng) Do ảnh hưởng của hai nhân tố: - Do biến động của tốc độ lưu thông tiền mặt làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ biến động là: ÄV(Vc) = (Vc1 - Vc0) x dC1 = (9,231 - 11,111) x 0,37 = - 0,698 (vòng) - Do biến động của tỷ trọng tiền mặt trong khối tiền chuẩn làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ biến động là: ÄV(dC) = (d1 - d0) x Vc0 = ( 0,37 - 0,30) x 11,111 = 0,794 (vòng) 4.2. THỐNG KÊ GIÁ CẢ VÀ LẠM PHÁT 4.2.1. Những vấn đề chung Trong nền kinh tế thị trường giá cả đóng vai trò quan trọng, nó thường trực trong tư duy của mỗi người, mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong thời kỳ là lạm phát, thiểu phát, suy thoái kinh tế trầm trọng hiện nay. Giá cả là phạm trù kinh tế ra đời cùng với sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa, đặc biệt là sự ra đời và phát triển của các hình thái tiền tệ. Cùng với sự phát triển đó khái niệm giá cả cũng có nhiều định nghĩa khác nhau. Một số nhà kinh tế học định nghĩa: giá cả là biểu hiện bằng tiền của một đơn vị sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ. Khái niệm này được ưa dùng trong giai đoạn trước đây trong các tác phẩm của các nhà kinh tế như A.Smith, D. Ricardo, C.Mac,... Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển cao, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, thị trường tài chính ,vv... một số nhà kinh tế học hiện đại đã đưa ra khái niệm mới, theo đó giá cả là sự thanh toán bằng tiền cho một đơn vị hàng hoá, dịch vụ theo thoả thụân giữa người mua và người bán trên thị trường. Như vậy có thể định nghĩa tổng quát giá cả là tổng số t iền phải trả cho một đơn vị hàng hoá, dịch vụ tương đương với việc trao đổi hàng hóa bằng tiền . Định nghĩa này bao hàm cả hai nội dung của các khái niệm về giá đã nêu trên, nghĩa là nó 66 phản ánh lượng giá trị thông qua thước đo tiền (vật ngang giá) của một đơn vị hàng hóa (dịch vụ) trong giao dịch mua bán của nền kinh tế. Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, giá cả có các chức năng quan trọng đó là: chức năng hạch toán, chức năng phân phối và chức năng điều tiết. Chức năng hạch toán thể hiện ở các hạch toán trong lĩnh vực sản xuất như chi phí sản xuất, chi phí trung gian, trong lĩnh vực lưu thông như: chi phí lưu thông, vận tải, thương mại, hạch toán hiệu quả kinh tế như lợi nhuận, doanh lợi. Chức năng phân phối thể hiện ở việc điều tiết thu nhập và ngân sách nhà nước từ các loại thuế như thuế sản xuất và thuế nhập khẩu. Chức năng kích thích của giá cả thể hiện qua việc nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm,... Thống kê giá cả trong thời đại ngày nay là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất đáp ứng nhu cầu nghiên cứu của nền kinh tế thị trường. Đối tượng nghiên cứu của thống kê giá cả là giá cả và sự hình thành giá cả. Thống kê giá cả nghiên cứu mức độ, cấu tr úc, sự biến động, độ co giãn cũng như phân tích ảnh hưởng của giá cả đến các chỉ tiêu kinh tế xã hội khác. 4.2.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giá cả và lạm phát Hệ thống chỉ tiêu thống kê giá cả và lạm phát có thể được nghiên cứu theo các nhóm sau đây: - Nhóm chỉ tiêu phản ánh các loại giá - Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức giá và cấu trúc giá - Nhóm chỉ tiêu phản ánh biến động giá + Nhóm chỉ tiêu phản ánh các loại giá Hệ thống tài khoản quốc gia đo lường các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chỉ tiêu GDP sử dụng các loại giá sau đây: - Giá nhân tố là giá của các nhân tố sản xuất gồm giá sản phẩm đầu vào, giá nhân công, giá sử dụng TSCĐ và giá kinh doanh. Giá sản phẩm đầu vào thể hiện qua giá trị chi phí trung gian, giá nhân công thể hiện qua giá trị trả công lao động bằng tiền, giá sử dụng TSCĐ thể hiện bằng giá trị khấu hao TSCĐ, giá kinh doanh thể hiện qua giá trị thặng dư sản xuất (lãi). Giá nhân tố có thể được tính từ giá cơ bản trừ đi các khoản thuế sản xuất khác (trừ trợ cấp), các khoản thuế sản xuấ t khác này là thuế ô nhiễm, thuế sử dụng tài nguyên, thuế sử dụng lao động,vv,... Như vậy có thể 67 coi giá nhân tố là giá trị còn lại của một đơn vị sản phẩm sau khi trừ đi tất cả các khoản thuế. - Giá cơ bản là giá trị mà người sản xuất nhận được từ người mua đối với một đơn vị hàng hoá, dịch vụ mà họ sản xuất ra, trừ đi các khoản thuế sản ph ẩm, cộng các khoản trợ cấp nếu có (không tính trợ cấp nhập khẩu) và không bao gồm phí vận tải đã tách riêng. Như vậy giá cơ bản về cấu thành bao gồm: chi phí trung gian , chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí tiền nhân công, chi phí các thuế sản xuất khác và thặng dư sản xuất. Người sản xuất quan tâm nhất đến giá cơ bản vì nó là phần giá trị còn lại của họ sau khi trừ đi thuế sản phẩm cho nhà nước. Giá cơ bản có tính quyết định cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người sản xuất. trong hệ thống thuế giá trị gia tăng phần thuế nộp nhà nước được tách riêng phần còn lại thể hiện giá cơ bản của người sản xuất. - Giá sản xuất là giá trị mà người sản xuất nhận được từ người mua đối với một đơn vị hàng hóa, dịch vụ bao gồm cả thuế sản phẩm sau khi trừ các khoản được khấu trừ (khấu trừ VAT và khấu trừ thuế khác), không bao gồm phí thương nghiệp và cước vận tải đã tách riêng. - Giá sử dụng cuối cùng (hay giá người mua) là giá trị mà n gười mua phải trả cho một đơn vị hàng hoá, dịch vụ mà người sản xuất bán cho họ, bao gồm cả phí thương nghiệp và cước vận tải, không bao gồm các khoản thuế được khấu trừ. Trong bảng phân ngành kinh tế ISIC, thương nghiệp và vận tải là các ngành độc lập, bởi vậy trong thống kê kinh tế vĩ mô người ta có xu hướng sử dụng giá sản xuất, khi đó giá sử dụng của tất cả các ngành được tách phần phí thương nghiệp và cước vận tải trả về cho hai ngành này và tất cả đều được tính theo giá sản xuất kể cả ngành thưuơng nghiệp và vận tải. Có thể tóm lược nội dung và mối liên hệ giữa các loại giá trên trong bảng sau đây: Giá nhân tố Giá cơ bản Giá sản xuất Giá sử dụng cuối cùng Thuế sản xuất khác trừ trợ cấp Thuế sản xuất khác trừ trợ cấp Thuế sản xuất khác trừ trợ cấp Chi phí trung gian Chi phí trung gian Chi phí trung gian Chi phí trung gian Trả công lao động Trả công lao động Trả công lao động Trả công lao động Khấu hao TSCĐ Khấu hao TSCĐ Khấu hao TSCĐ Khấu hao TSCĐ Thặng dư sản xuất Thặng dư sản xuất Thặng dư sản xuất Thặng dư sản xuất Thuế sản phẩm trừ Thuế sản phẩm trừ trợ 68 trợ cấp cấp Phí thương mại Cước vận tải Trong nền kinh tế thị trường, theo những khía cạnh khác nhau khi nghiên cứu giá cả người ta còn sử dụng các loại giá sau đây: - Giá bán buôn (bán sỉ) thường sử dụng cho việc phân phối sản phẩm công nghiệp và xây dựng khi nó được bán với khối lượng lớn cho các nhà phân phối bán lẻ. Cấu thành của giá bán buôn bao gồm chi phí sản xuất và thặng dư sản xuất, không bao gồm thuế giá trị gia tăng. Giá bán buôn các sản phẩm nông nghiệp, vận tải, truyền thông cũng tương tự như vậy, nó không bao gồm VAT. - Giá bán lẻ là giá bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng (dân cư), giá bán lẻ bằng giá bán buôn cộng VAT và các chi phí khác. - Giá thu mua là giá do chính phủ ấn định dùng để thu mua sản phẩm của nhà sản xuất thường dùng cho trường hợp thu mua nông sản. - Giá và bảng giá dịch vụ là giá và bảng giá trả cho các dịch vụ như vệ sinh công cộng, bưu chính viễn thông, tang lễ, và các dịch vụ khác. Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường còn sử dụng một số các loại giá khác sau đây: - Giá thị trường là kết quả của thoả thuận lợi ích giữa người mua và người bán dưới tác động của quan hệ cung cầu và của một số nhân tố khác của kinh tế thị truờng. - Giá cố định được chính phủ thiệt lập cố định cho một số sản phẩm thiết yếu có tính độc quyền nhà nước, những sản phẩm này có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế và mức sống dân cư, ví dụ giá điện, giá xăng dầu,vv... - Giá điều tiết được thiết lập bởi các cơ quan quản lý nhà nước cho từng vùng ở một số danh mục sản phẩm nhằm điều tiết thị trường. - Giá giới hạn cũng là giá được thiết lập bởi các cơ quan quản lý nhà nước. Theo đó giá sản phẩm được phép xoay quanh một giới hạn nào đó. Ví dụ giá thuốc men (dược phẩm), giá này có thể cao hơn hay thấp hơn mức giá giới hạn. Thống kê giá ở cơ quan thống kê nhà nước Việt Nam (Tổng cục thống kê) hiện nay sử dụng 6 loại giá, đó là: - Giá tiêu dùng - Giá bán sản phẩm của người sản xuất 69 - Giá bán vật tư của người sản xuất - Giá cước vận tải hàng hóa - Giá xuất nhập khẩu hàng hóa - Giá vàng và ngoại tệ + Giá tiêu dùng được hiểu là tiêu dùng cuối cùng biểu hiện qua giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ cho dân cư, không bao gồm hàng hóa, dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh (tiêu dùng trung gian). + Giá bán sản phẩm của người sản xuất là giá mà người sản xuất trực tiếp bán sản phẩm của mình trên thị trường. Giá bán sản phẩm xủa người sản xuất chia thành hai loại: giá hàng nông, lâm, thuỷ sản và giá hàng công nghi ệp. + Giá bán vật tư của người sản xuất (giá tiêu dùng trung gian) là giá của các tổ chức kinh doanh vật tư bán trực tiếp cho người sản xuất , giá này không bao gồm chi phí vận chuyển và các chi phí khác. + Giá cước vận tải hàng hóa là giá người thuê vận chuyển hàng hóa phải trả cho đơn vị vận tải, giá này được xác định theo thoả thuận giữa đơn vị vận tải và chủ hàng. + Giá xuất nhập khẩu hàng hóa được tính bằng ngoại tệ tại cửa khẩu theo giá FOB hoặc CIF, hai loại giá này khác nhau ở phần giá trị vận tải và bảo hiểm. Thông thường xuất khẩu được tính theo giá FOB, nhập khẩu tính theo giá CIF. + Giá vàng và ngoại tệ đây là loại giá của hai loại hàng hóa đặc biệt, theo đó vàng và ngoại tệ được tính đo bằng giá của đồng nội tệ (VND). Giá vàng và ngoại tệ được tính ở hai khu vực nhà nước và tư nhân. + Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức giá và cấu trúc giá cả Nghiên cứu thống kê giá cả thường được bắt đầu bằng đo mức giá. Mức giá được biểu hiện qua các chỉ tiêu tuyệt đối, tương đối và bình quân theo một loại sản phẩm, một nhóm sản phẩm và được xác định vào một thời gian (ngày) hoặc một khoảng thời gian (thời kỳ) cụ thể. Trong thực tế thống kê thường tính toán và phân tích chỉ tiêu giá bình quân. Giá bình quân có thể được tính cho một hàng hóa cụ thể hoặc cho một n hóm hoàng hóa, cho một hàng hóa ở không gian hay thị trường khác nhau. Như vậy, giá bình quân là giá được xác định bằng cách chia giá trị của một loại hàng hóa hay một nhóm hàng hóa cho khối lượng của chúng và được tính theo công thức tổng quát sau: 70 P =   q pq trong đó: P - giá bình quân ∑pq - giá trị hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ p - giá của hàng hoá, dịch vụ q - khối lượng hàng hoá, dịch vụ Công thức trên cho thấy giá bình quân không ch ỉ phụ thuộc vào mức giá của từng loại hàng hóa mà còn phụ thuộc vào cấu trúc khối lượng hàng hóa tiêu thụ. Chúng ta đều biết rằng cấu trúc khối lượng hàng hoá tiêu thụ biến động thường xuyên theo thời gian, vì vậy khi nghiên cứu biến động giá cần lưu ý khi sử dụng chỉ tiêu giá bình quân. Việc tính toán mức giá bình quân còn có những công dụng khác nhau. Tuỳ theo từng đặc điểm của mỗi nhóm sản phẩm, có nhóm giá bình quân bao gồm cả thuế, có nhóm thì không. Ví dụ giá bình quân sản phẩm công nghiệp bao gồm cả thuế trong khi đó giá bình quân sản phẩm nông nghiệp thì không bao gồm thuế. Mức giá trong thực tế là rất khác nhau phụ thuộc vào người sản xuất và người tiêu dùng tài những thời điểm nhất định và thường xuyên biến động. Thống kê cấu trúc giá cả tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Cấu trúc giá cả và chi phí sản xuất phụ thuộc vào đặc thù của từng ngành. Trong ngành công nghiệp chế biến chẳng hạn, chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng và khấu hao chiếm tỷ trọng lớn (chứng 80%). Nghiên cứu biến động cơ cấu chi phí theo thời gian cho phép chúng ta biết được xu hướng và mức độ biến động của từng thành phần chi phí từ đó rút ra những kết luận hữu dụng cho quản lý và điều hành. + Nhóm chỉ tiêu phản ánh biến động giá Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đều vận hành theo cơ chế thị trường, đặc biệt đời sống chính trị xã hội thường xuyên có những bất ổn, xung đột tác động mạnh mẽ đến giá cả. Dưới góc độ thống kê sự biến động này được nghiên cứu theo thời gian và theo không gian thông qua một loạt các chỉ tiêu, trong đó chỉ số là phương pháp được sử dụng để nghiên cứu các chỉ tiêu này. Sau đây đề tài sẽ trình bày một số nội dung, phương pháp tính các chỉ tiêu quan trọng nhất của giá cả. Đó là chỉ số giá phát tri ển, chỉ số giá không gian, chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giá GDP (chỉ số giảm phát GDP). 4.2.3. Phương pháp tính và phân tích chỉ số giá 71 Phương pháp chỉ số là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu thống kê giá cả. Theo đó chỉ số giá là chỉ tiêu tương đối, biểu hiện bằng lần hay % phản ánh sự biến động giá cả theo thời gian hoặc trong không gian. Thông thường trong thực tế nghiên cứu biến động giá theo thời gian thường tính theo tháng, quý hoặc năm, nghiên cứu biến động giá theo không gian theo vùng, địa phương, quốc gia hay khu vực. Chỉ số giá có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế, nó tác động trực tiếp đến mọi mặt, mọi cấp độ từ vĩ mô đến vi mô, tác động trực tiếp đến từng đơn vị kinh tế và toàn nền kinh tế. Đối với người sản xuất chỉ số giá giúp họ đưa ra những quyết định kinh doanh, đối với với người tiêu dùng chỉ số giá giúp họ lựa chọn mặt hàng tiêu dùng và đưa ra các quyết định tiêu dùng hay đầu tư (tiết kiệm) hiệu quả. Đối với chính phủ chỉ số giá là căn cứ để hoạch định các chính sách vĩ mô, điều tiết và quản lý nền kinh tế. Chỉ số giá có tầm quan trọng lớn lao đối với đời sống kinh tế, xã hội, chính trị. Chính vì vậy việc nghiên cứu, tính toán một cách khoa học, chính xác chỉ số giá là rất cần thiết và liên tục. Phụ thuộc vào mục đích ng hiên cứu và nhu cầu cũng như điều kiện thực tiễn, chỉ số giá được tính theo các phương pháp khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm thiết lập quan hệ so sánh phân biệt: chỉ số giá phát triển, chỉ số giá không gian. Căn cứ vào phạm vi tính toán, chia thành hai loại : chỉ số giá đơn (cá thể) và chỉ số giá tổng hợp (chung). Trong đó quan trọng nhất là chỉ số giá phát triển. 4.2.3.1. Chỉ số giá phát triển Khái niệm: Chỉ số giá phát triển là chỉ tiêu tương đối biểu hiện bằng lần hay % phản ánh biến động giá cả qua thời gian (tháng, quý, năm). - Chỉ số giá đơn phản ánh biến động giá cả của một loại hàng hóa (hoặc dịch vụ) cụ thể trên thị trường kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc. Công thức tính: Trong đó: ip là chỉ số giá đơn có đơn vị tính là lần hay % p0 là giá kỳ gốc p1 là giá kỳ nghiên cứu Nếu ip > 1 giá kỳ nghiên cứu tăng so với kỳ gốc và ngược lại nếu i p < 1. 0 1 p pip  72 - Chỉ số giá tổng hợp phản ánh biến động giá cả của tổng thể hàng hóa (hoặc dịch vụ) trên thị trường kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc. Tổng thể hàng hoá hay dịch vụ này có thể là một nhóm hay toàn bộ hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Chúng ta biết rằng các loại hàng hoá khác nhau trên thị trường không thể trực tiếp cộng chúng lại với nhau, đồng thời giá của chúng cũng không thể tính bình quân cộng giản đơn . Bởi vì lượng tiêu thụ của mỗi loại sản phẩm là rất khác nhau. Chính vì vậy trong nghiên cứu thống kê chỉ số giá tổng hợp có nhiều phương pháp đã được nêu ra và áp dụng trong thực tiễn tuỳ theo nhu cầu và tính khả thi của nguồn số liệu. Sau đây là một số phương pháp tính chỉ số giá tổng hợp điển hình. + Chỉ số giá tổng hợp của Laspeyres Là chỉ số giá tổng hợp với quyền số là khối lượng tiêu thụ kỳ gốc. Công thức tính: Trong đó: IpL là chỉ số giá tổng hợp có đơn vị tính là lần hay % p0 , p1 là giá kỳ gốc và kỳ nghiên cứu q0 , q1 là lượng tiêu thụ kỳ gốc và kỳ nghiên cứu ∑p0q0 , ∑p1q1 doanh thu tiêu thụ kỳ gốc và kỳ nghiên cứu Trong trường hợp dữ liệu đã xác định được chỉ số đơn về giá và mức tiêu thụ của từng mặt hàng ở kỳ gốc thì chỉ số tổng hợp giá Laspeyres được tính theo công thức sau: Như vậy, chỉ số tổng hợp giá Laspeyres thực chất là bình quân cộng gia quyền của các chỉ số đơn về giá các mặt hàng với quyền số là mức tiêu thụ (doanh thu) của từng mặt hàng ở kỳ gốc. Nếu đặt: Chỉ số tổng hợp giá Laspeyres được xác định như sau:   00 01 qp qp I Lp      00 00 00 01 qp qpi qp qp I pLp  0diI pLp  00000 qp qpd 73 Như vậy, quyền số trong trường hợp này là tỷ trọng mức tiêu thụ (doanh thu) của từng mặt hàng ở kỳ gốc. Nhược điểm của phương pháp Laspeyres là không phản ánh được quy mô và cơ cấu lượn g hàng tiêu thụ ở kỳ nghiên cứu, nhất là khi nó có sự biến động mạnh, mà chúng ta đều biết rằng giá cả biến động ảnh hưởng đến lượng tiêu thụ của hàng hóa và dịch vụ. Chỉ số giá tính theo phương pháp của Laspeyres còn không cho biết doanh thu tiêu thụ hàng ở kỳ nghiên cứu là bao nhiêu khi ta muốn so sánh ảnh hưởng của biến động giá đến doanh thu tiêu thụ hàng ở kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc. Trong thực tế phương pháp Laspeyres được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng do đặc thù của CPI là có quyền số cố định k ỳ gốc và kỳ nghiên cứu như nhau. + Chỉ số giá tổng hợp của Paashe Là chỉ số giá tổng hợp với quyền số là khối lượng tiêu thụ kỳ nghiên cứu. Công thức tính: Trong đó: IpP là chỉ số giá tổng hợp có đơn vị tính là lần hay % Trong trường hợp dữ liệu đã xác định được chỉ số đơn về giá và mức tiêu thụ của từng mặt hàng ở kỳ nghiên cứu thì chỉ số tổng hợp giá Paashe được tính theo công thức bình quân như sau: Như vậy chỉ số tổng hợp giá Paashe thực chất là bình quân điều hoà gia quyền của các chỉ số đơn về giá các mặt hàng với quyền số là mức tiêu thụ (doanh thu) của từng mặt hàng ở kỳ nghiên cứu. Nếu đặt: Chỉ số tổng hợp giá Paashe được tính theo công thức sau: Như vậy quyền số trong trường hợp này làtỷ trọng mức tiêu thụ (doanh thu) của từng mặt hàngở kỳ nghiên cứu. Công thức tính chỉ số giá của Paashe phản ánh đúng thực tế về biến động giá chung của thị trường kỳ nghiên cứu hơn so với của Laspeyres vì nó phản ánh được cả quy mô và kết cấu hàng hóa tiêu thụ kỳ nghiên cứ u. Vì vậy trong thực tế hiện nay khi tính chỉ số giá tổng hợp đa số người ta dùng phương pháp này. Phương pháp của   10 11 qp qp I Pp      1 1 11 10 11 q i p qp qp qp I p P p   1 1 1 d i I p P p  11111 qp qpd 74 Paashe cũng phản ánh được doanh thu tiêu thụ hàng hóa kỳ nghiên cứu, cho phép so sánh được mức biến động với kỳ gốc do ảnh hưởng của biến động giá. Tuy vậy khi tính chỉ số giá theo phương pháp này cũng có những khó khăn về thu thập dữ liệu do phạm vi tính rộng (tỉnh, thành phố và cả nước) trong điều kiện hạn chế về nhân lực, tài lực và do tính cấp bách của thông tin. Hai phương pháp trên của Laspeyres và Paashe còn có một nhược điểm là không có tính nghịch đảo và tính liên hoàn. Nhà khoa học Mỹ I. Fisher đề xuất dùng công thức bình quân nhân của cả hai chỉ số trên để khắc phục nhược điểm này, phương pháp của Fisher được tính theo công thức sau: Chỉ số giá của Fisher sử dụng kết hợp cả quyền số kỳ gốc và kỳ nghiên cứu nên có thể khắc phục được những ảnh hưởng về sự khác biệt cơ cấu tiêu thụ các mặt hàng giữa hai kỳ qua đó xác định được kết quả chung phản ánh biến động giá bán các mặt hàng. Tuy nhiên để tính được chỉ số giá của Fisher đòi hỏi một lượng thông tin rất lớn, trong thực tế tính khả thi thấp, vì vậy hai phương pháp của Laspeyres và Paashe vẫn được sử dụng nhiều hơn. Ví dụ minh họa về phương pháp tính chỉ số giá phát triển: SP p (tr.đ/sp) q (sp) p0q0 p1q1 p0q1 p1q0 ip đơn p0 p1 q0 q1 (tr.đ) (tr.đ) (tr.đ) (tr.đ) (lần) A 5 6 100 300 500 1800 1500 600 1.20 B 5 8 200 50 1000 400 250 1600 1.60 C 2 3 300 100 600 300 200 900 1.50 2100 2500 1950 3100 Áp dụng các phương pháp tính chỉ số giá tổng hợp ta có: - Chỉ số giá tổng hợp của Laspeyres: Chỉ số giá trên cho biết mức giá chung kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc tăng 0,4762 lần hay 47,62% và với khối lượng như kỳ gốc, doanh thu kỳ nghiên cứu tăng lên 1000 triệu đồng (1000 = 3100 - 2100). - Chỉ số giá tổng hợp của Paashe:     10 11 00 01 . qp qp x qp qp III Pp L p F p 4762,1 2100 3100 00 01   qp qp I Lp 75 Chỉ số giá trên cho biết mức giá chung kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc tăng 0,2821 lần hay 28,21% và do giá biến động làm cho doanh thu kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc tăng lên 550 triệu đồng (550 = 2500 - 1950). Ta thấy rằng hai phương pháp trên đưa đến hai chỉ số giá khá khác nhau, lệch đến 19,41% (1,4762 - 1,2821 = 0,1941 = 19,41%). Rõ ràng rằng với quyền số kỳ gốc và kỳ nghiên cứu kết quả cho hai chỉ số giá là khác nhau. Độ lệch này sẽ là rất lớn khi tính cho phạm vi rộng (tỉnh, thành phố và toàn quốc) và khi quy mô, cơ cấu khối lượng hàng hóa, dịch vụ có biến động mạnh. Chỉ số giá tổng hợp của Fishe sẽ khắc phục điều này. - Chỉ số giá tổng hợp của Fishe: Chỉ số giá trên cho biết mức giá chung kỳ ng hiên cứu so với kỳ gốc tăng 0,3757 lần hay 37,57%. 4.2.3.2. Chỉ số giá không gian Khái niệm: Chỉ số giá không gian là chỉ tiêu tương đối biểu hiện bằng lần hay % phản ánh biến động giá cả qua không gian (tỉnh, vùng, quốc gia, khu vực...) Tương tự chỉ số giá phát triển, chỉ số giá không gian cũng bao gồm chỉ số giá đơn và chỉ số giá tổng hợp. - Chỉ số giá đơn không gian phản ánh biến động giá cả của một loại hàng hóa (hoặc dịch vụ) cụ thể ở hai thị trường khác nhau. Công thức tính: Trong đó: ip(A/B) là chỉ số giá đơn của thị trường A so với thị trường B pA là giá của thị trường A pB là giá của thị trường B Nếu ip(A/B) > 1 thì giá ở thị trường A cao hơn so với thị trường B và ngược lại - Chỉ số giá tổng hợp không gian phản ánh biến động giá cả chung của hàng hóa (hoặc dịch vụ) ở hai thị trường khác nhau với quyền số là lượng tiêu thụ . 2821,1 1950 2500 10 11   qp qp I Pp 3757,12821,14762,1.  xIII PpLpFp B A BAp p pi )/( )/( )/( 1 BApA B ABp iP Pi  76 Quyền số trong trường hợp này là q A hay qB đều không thoả mãn, trong trường hợp này người ta lấy Q = qA+qB làm quyền số. Công thức tính: Hoặc: Thực tế ở Việt Nam, Tổng cục thống kê tính 6 loại chỉ số giá tương ứng với 6 loại giá đã nêu, đó là: - Chỉ số giá tiêu dùng - Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất - Chỉ số giá bán vật tư của người sản xuất - Chỉ số giá cước vận tải hàng hó a - Chỉ số giá xuất nhập khẩu hàng hóa - Chỉ số giá vàng và ngoại tệ Tiếp sau đây đề tài trình bày phương pháp tính CPI, mức độ lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. 4.2.4. Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng - Khái niệm: Chỉ số giá tiêu dùng là chỉ tiêu tương đối biểu hiện bằng lần hay %, phản ánh sự biến động chung theo thời gian của mức giá hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho tiêu dùng cuối cùng của dân cư. Giá tiêu dùng là số tiền mà dân cư phải trả khi mua một đơn vị hàng hóa hoặc dịch vụ phục vụ trực tiếp cho nhu cầu đời sống thường xuyên của mình. Giá tiêu dùng biểu hiện bằng giá bán lẻ hàng hoá trên thị trường và giá dịch vụ phục vụ sinh hoạt đời sống của dân cư. Trường hợp hàng hoá không có giá niêm yết thì giá tiê u dùng là giá thoả thuận giữa người mua và người bán. Giá tiêu dùng được thu thập ở từng địa phương trong toàn quốc theo danh mục quy định và tổng hợp cho toàn quốc phục vụ cho việc tính toán CPI. Chỉ số giá tiêu dùng là một trong các chỉ tiêu quan trọng của hệ thống chỉ tiêu giá cả. CPI được dùng để đo mức lạm phát ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, là cơ sở để chính phủ đề ra các chính sách tài chính, tiền tệ và chính sách phân phối. CPI là chỉ tiêu quan trọng trong nghiên cứu thị trường, tác động đ ến những quyết   Qp Qp I B A BAp )/( )/( )/( 1 BApA B ABp IQp Qp I    77 định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. CPI cũng là chỉ tiêu quan trọng cùng với các chỉ tiêu khác phản ánh mức sống dân cư. Phương pháp tính CPI được tiến hành qua một số bước: - Bước 1: Xác định kỳ gốc, kỳ gốc là kỳ nào đó được chọn làm gốc so sánh, kỳ gốc có thể là gốc liên hoàn hoặc gốc cố định. Trong việc tính CPI thường sử dụng gốc liên hoàn, bởi người ta muốn biết nhịp độ tăng của giá cả một cách thường xuyên. - Bước 2: Xác định "giỏ " hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng. Giỏ hàng hoá này là danh mục các mặt hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng đại diện (xác định khối lượng - q0 ). - Bước 3: Xác định giá của từng mặt hàng, tức xác định p 0 - kỳ gốc và p 1 kỳ nghiên cứu. - Bước 4: Tính CPI theo công thức của Laspeyres: Thông thường CPI được tính theo % Trong thực tế việc thu thập số liệu thống kê giá và lượng hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng là rất phức tạp, đặc biệt là lượng (q). Chính vì vậy phương án khả thi là điều tra chọn mẫu thông qua cuộc điều tra mức sống dân cư của cơ quan thống kê thực hiện và xác định cho từng nhóm mặt hàng một quyền số cố định, dựa trên tầm quan trọng (tỷ trọng) của nó trong tổng chi phí cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình dân cư. Thống kê Việt Nam giai đoạn 2006 -2010 xác định Danh mục hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng và được chia thành 4 cấp: cấp I có 10 nhóm, cấp II có 34 nhóm, cấp III có 86 nhóm và cấp IV có 237 mặt hàng. Dựa theo danh mục này cơ quan thống kê các địa phương điều tra thu thập giá và tính CPI theo một cơ cấu quyền số cố định, cụ thể theo công thức sau: Trong đó: D0 là quyền số cố định (theo kỳ gốc) 100 00 01 x qp qp CPI      100100 0 1 0 00 01 x p pDx qp qp CPI  00000 qp qpD 78 CPI ở Việt Nam được tính theo tháng và thường so với 3 tháng gốc (tháng trước, tháng cùng năm trước và tháng 12 năm trước) và được tính cho từng tỉnh, thành phố và cả nước có chia ra theo khu vực thành thị và nông thôn. 4.2.5. Phân tích mức độ và ảnh hưởng của lạm phát Trong kinh tế khái niệm lạm phát được hiểu là sự gia tăng của mức giá chung theo thời gian của hàng hoá và dịch vụ . Lạm phát là vấn đề nan giải của kinh tế thị trường, nghiên cứu lạm phát tuỳ theo từng mục đích và định hướng theo các khía cạnh khác nhau. Nghiên cứu thống kê lạm phát được phản ánh qua sự biến động của chỉ số giá qua chỉ tiêu mức lạm phát. Mức lạm phát phản ánh nhịp tăng (tốc độ tăng) của mức giá chung kỳ nghiên cứu so với thời kỳ trước đó. Thông thường mức lạm phát được tính trên cơ sở biến động của CPI, thời kỳ tính toán là tháng, năm, cùng có thể tính theo tuần, quý,... và đơn vị tính thường dùng là %. Công thức tính: Trong đó: - Iinf là mức lạm phát hay tỷ lệ lạm phát - CPI1, CPI0 là chỉ số giá tiêu dùng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc - ICPI là tốc độ phát triển CPI Thông thường kỳ gốc là kỳ trước đó, vì vậy trong công thức trên a inf có thể được hiểu là tốc độ tăng liên hoàn của CPI, I CPI là tốc độ phát triển liên hoàn của CPI. Cần lưu ý khi sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát và CPI, tỷ lệ lạm phát được tính theo tốc độ phát triển liên hoàn, tức là so sánh kỳ nghiên cứu với kỳ trước nó, trong khi CPI lại so sánh kỳ nghiên cứu với kỳ gốc cố định. Đồng thời việc tính lạm phát dựa theo CPI cùng có một số nhược điểm sau đây: - Do quyền số cố định của giỏ hàng hóa nên khi giá tăng không đều nhau, tức một số mặt hàng trong giỏ tăng, người tiêu dùng sẽ giảm lượng ở hàng hóa đó và tăng lượng hàng thay thế khác, khi đó dẫn đến kết quả là CPI tăng cao hơn so với thực tế. 100)1(100 0 01 inf xIxCPI CPICPII CPI  79 - Cũng do giỏ hàng cố định nên khi thị trường xuất hiện sản phẩm mới với giá cao hơn chăng hạn, các sản phẩm tương tự có trong giỏ hàng sẽ rẻ đi do bị lạc hậu nhưng CPI lại chỉ tính các sản phẩm trong giỏ, không tính sản phẩm mới, khi đó dẫn đến kết quả là CPI tăng thấp hơn so với thực tế. - CPI không tính đến sự thay đổi chất lượng hàng hóa mà chất lượng hàng được phản ánh qua giá, điều đó dẫn đến CPI phản ánh không chính xác biến động của giá cả trên thị trường. CPI có thể khắc phục nhược điểm trên nếu liên tục cập nhật giỏ hàng cũng như quyền số của nó, nhưng điều này là khó khăn do tính khả thi thấp. Cơ quan thống kê Việt Nam hiện nay sử dụng giỏ hàng hóa với quyền số cố định của năm 2005 làm gốc. Trên phương diện lý thuyết để tính mức độ lạm phát thực người ta có thể chỉ tiêu lạm phát cơ bản . Có nhiều phương pháp tính chỉ số này, chẳng hạn người ta có thể loại bỏ hoặc cho quyền số nhỏ với một số mặt hàng có biến động không ổn định, hay có những đột biến. Có nghĩa là khi tính lạm phát cơ bản thì sự biến động của nó có tính ổn định cao hơn CPI. Nhiều quốc gia đã tiến hành tính chỉ số này, ở Việt Nam trong thời gian qua do tỷ lệ lạm phát liên tục ở mức cao nên các cơ quan chính phủ đã đề cập đến việc tính chỉ số lạm phát cơ bản. Nghiên cứu ảnh hưởng của lạm phát đến các chỉ tiêu kinh tế, quan trọng nhất và được quan tâm nhiều nhất đó là chỉ số giảm phát GDP (còn gọi là hệ số giảm phát, chỉ số điều chỉnh GDP). Lý thuyết kinh tế đã xác định GDP danh nghĩa và GDP thực tế và chỉ số giảm phát GDP chính là tỷ lệ giữa GDP danh nghĩa với GDP thực tế và được tính theo công thức sau: GDP danh nghĩa Idef. = -------------------- x 100 GDP thực tế GDP danh nghĩa là GDP tính theo giá hiện hành, GDP thực tế của năm nghiên cứu được tính theo giá so sánh (giá kỳ gốc), tức là loại bỏ ảnh hưởng của biến động giá đến GDP, GDP năm nghiên cứu chỉ thuần tính về khối lượng. Việc tính GDP năm nghiên cứu theo giá kỳ gốc (p0) chính là điều chỉnh GDP từ danh nghĩa về thực tế. Thông thường giá cả tăng lên, nên việc tính GDP kỳ nghiên cứu theo giá kỳ gốc chính là giảm giá nên chỉ số trên gọi là chỉ số giảm phát (h ay chỉ số điều chỉnh). 80 Sử dụng công thức của Paashe để tính chỉ số giảm phát GDP ta có: Trong đó: - ∑p1r1 là GDP kỳ nghiên cứu theo giá hiện hành - ∑p0r1 là GDP kỳ nghiên cứu theo giá so sánh (giá kỳ gốc) Đơn vị tính của chỉ số giảm phát có thể là lần hay %. Dưới góc độ thống kê thực tế, chúng ta biết GDP là chỉ tiêu giá trị, tức là có đơn vị tính là tiền tệ (nội tệ hoặc ngoại tệ). Trong công thức trên cái gọi là khối lượng (r) và giá cả (p) của GDP là trừu tượng, không hiện hữu, tức không th u thập được. Chính vì vậy thực tiễn để tính GDP thực tế tức GDP theo giá so sánh, người ta dùng hai phương pháp sau đây: - Phương pháp trực tiếp là lấy GDP danh nghĩa qua thu thập số liệu (GDP danh nghĩa = tổng VA của các ngành và tổng thuế nhập khẩu) chia cho chỉ số giảm phát theo công thức: Như trên đã nói, chỉ số giảm phát theo lý thuyết kinh tế là không hiện hữu, vì vậy để đo lường nó người ta dùng CPI thay thế, trong trường hợp này chỉ số giá tiêu dùng của năm nghiên cứu được tính với qu yền số cố định kỳ gốc tương ứng với kỳ gốc tính GDP theo giá so sánh (ở Việt Nam hiện tại là gốc là năm 1994). - Phương pháp giảm phát hai lần. Như ta biết GDP là chỉ tiêu của giá trị gia tăng (VA) tính cho toàn bộ nền kinh tế theo phương pháp sản xuất bằ ng cách cộng VA của các ngành kinh tế lại, mà VA là giá trị còn lại của giá trị sản xuất (GO) sau khi trừ đi chi phí trung gian (IC). Từ đó nếu tính được chỉ số giá của GO và chỉ số giá IC chúng ta sẽ xác định được VA theo giá so sánh, tức là: ∑p1r0 = ∑p1q0 - ∑p1m0 = IC p GO p I mp I qp   1111 Trong đó: - IpGO là chỉ số giá của GO - IpIC là chỉ số giá của IC - ∑p1r0 là VA theo giá so sánh - ∑p1q1 , ∑p1q0 là GO theo giá hiện hành và giá so sánh   00 11 rp rp Idef defI rp rp   1110 81 - ∑p1m1 , ∑p1m0 là IC theo giá hiện hành và giá so sánh Phương pháp giảm phát hai lần dùng để tính GDP theo giá so sánh (GDP thực tế) cho kết quả chính xác hơn vì đã tính và loại trừ sự ảnh hưởng của giá cả trong từng ngành sản xuất và tiêu dùng cho từng ngành sản phẩm là nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư và các ngành sản phẩm khác. Nguồn thông tin về IC thông thường thu thập rất khó khăn, trong thống kê kinh tế vĩ mô nó được lấy từ ma trận hệ số chi phí trực tiếp của bảng I/O (bảng cân đối liên ngành sản phẩm). 4.3. THỐNG KÊ LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐÓAI 4.3.1 Thống kê lãi suất Theo lý thuyết tài chính tiền tệ, lãi suất chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi người vay trả cho người cho vay trên số tiền vốn cho vay trong một thời gian nhất định. Thống kê lãi suất nghiên cứu các dạng lãi suất hiện hành trên thị trường tài chính, biến động của lãi suất và ảnh hưởng của lãi suất đến các chỉ tiêu kinh tế khác. Thống kê các dạng (phân loại lãi suất) hiện hành trên thị truờng có thể được nghiên cứu theo các tiêu thức khác nhau: - Theo hình thức cho vay cho thể chia thành 5 loại: lãi suất tiền gửi, lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tín dụng. Cụ thể là: + Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHTW ấn định nhằm quản lý nhà nước về lãi suất phù hợp với các chính sách tiền tệ của chính phủ. + Lãi suất tiền gửi là lãi suất mà ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng trả cho người gửi tiền (dân chúng, các tổ chức) tiết kiệm. Lãi suất tiền gửi thường được áp dụng theo các biểu khác nhau tuỳ theo thời hạn gửi tiền, từ không kỳ hạn đến 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, vv... Lãi suất tiền gửi thường được xác định qua công thức: itg = icb + ii Trong đó: itg là lãi suất tiền gửi icb là lãi suất cơ bản ii là phần tăng (giảm) thêm của lãi suất tuỳ theo thời hạn của tiền gửi. + Lãi suất chiết khấu là lãi suất của NHTW sử dụng dùng để cho vay tái cấp vốn (tái chiết khấu) cho các ngân hàng thương mại, là công cụ của NHTW thực thi chính sách tiền tệ của chính phủ. 82 + Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay tiền nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên các thị trường tiền tệ. Lãi suất này có các tên gọi theo các thị trường của nó, ví dụ: lãi suất LIBOR, PIBOR,... (London or Paris Inter-bank Offerred Rates) là lãi suất trên thị trường tiền tệ Luân đôn và Pari,... + Lãi suất cho vay (lãi suất tín dụng) là lãi suất được ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng áp dụng đối với người vay tiền (các doanh nghiệp hay dân chúng) với mục đích kinh doanh hay tiêu dùng. Biểu lãi suất này cũng tuỳ thuộc vào thời hạn vay và thông thường là cao hơn lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản và lãi suất liên ngân hàng. Lãi suất cho vay thường được tính theo công thức sau: icv = itg + x Trong đó: icv là lãi suất cho vay x là chi phí nghiệp vụ ngân hàng - Theo phương pháp tính lãi, lãi suất có thể được phân thành: lãi suất đơn và lãi suất kép (lãi suất tích hợp). + Lãi suất đơn là lãi suất tính cho trường hợp vay và trả một lần cả vốn lẫn lãi vào ngày đến hạn. Việc tính lãi suất đơn đơn giản là lấy số tiền lãi chia cho số vốn vay trong cả thời gian của khoản tín dụng đó. Ví dụ: DN vay của ngân hàng số tiền là 100 triệu đồng thời hạn 1 năm, đến hạn DN trả cho ngân hàng số tiền là 120 triệu đồng. Như vậy lãi suất đơn t rong trường hợp này là: %202,0 100 100120 i + Lãi suất tích hợp là lãi suất được sử dụng trên cơ sở của lãi suất đơn được tính cho các khoản tín dụng có thời gian dài hơn chu kỳ tính lãi. Lãi suất tích hợp được hiểu như là lãi suất có tính đến "lãi mẹ đẻ lãi con". + Theo sự phản ánh ảnh hưởng của lạm phát đến giá trị tiền cho vay, lãi suất được phân thành: lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực. Trong điều kiện bình thường với mức lạm phát dưới 10%, lãi suất thực tính theo công thức: ir = in + ii 83 Trong đó: ir là lãi suất thực in là lãi suất danh nghĩa ii là tỷ lệ lạm phát Nếu lạm phát ở mức cao trên 10%, lãi suất thực tính theo công thức: 1  i in r i iii Cần phân biệt lãi suất với tỷ suất lợi tức. Lãi suấ t như khái niệm trên đã nói là tỷ lệ phần trăm số tiền lãi trên số tiền vốn cho vay, trong khi tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận thu được từ số tiền đầu tư. Lãi suất và tỷ suất lợi tức là hai khái niệm chỉ hai hoạt động khác nhau tuy có liên quan đến nhau nhưng không phải trùng nhau. Lãi suất là chỉ tiêu thời điểm bởi vậy khi nghiên cứu lãi suất trong một thời kỳ cần tính lãi suất bình quân. Chỉ tiêu lãi suất bình quân thường được tính theo công thức bình quân cộng gia quyền sau đây:   t tt n ni i Trong đó: it là lãi suất trong thời gian t nt là độ dài thời gian có lãi suất i t Phân tích thống kê sự biến thiên của lãi suất có thể sử dụng các tham số thống kê như khoảng biến thiên (R), phương sai (ú2), độ lệch chuẩn (ú) hệ số biến thiên (Vú). Phân tích thống kê biến động của lãi suất theo thời gian có thể sử dụng các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian như lượng tăng tuyệt đối, tốc độ phát triển, tốc độ tăng (liên hoàn, định gốc và bình quân). Ngoài ra còn có thể sử dụng chỉ số thời vụ, hàm xu thể để phản ánh xu hướng biến động của lãi suất. Nghiên cứu ảnh hưởng của lãi suất đến các chỉ tiêu kinh tế khác có thể sử dụng phương pháp hồi quy và tương quan, thông qua hệ số tương quan và các hàm 84 hồi quy, đồng thời cũng có thể sử dụng phương pháp chỉ số nhân tố qua các mô hình chỉ số. 4.3.2 Thống kê tỷ giá hối đoái Khái niệm: tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi một đơn vị tiền tệ nước này sang thành đơn vị tiền tệ nước khác. Có hai phương pháp biểu hiện tỷ gía hối đoái: - Phương pháp biểu hiện trực tiếp, theo phương pháp này ngoại tệ là đồng tiền yết giá (hàng hoá), nội tệ là đồng tiền định giá (tiền tệ -vật ngang giá). Phương pháp này được sử dụng nhiều hơn. Ví dụ: tỷ giá ngoại tệ trên thị trường hối đoái liên ngân hàng Vi ệt Nam ngày 20.11.2008 là USD/VND = 16.700 tức là 1 USD = 16.700 VND - Phương pháp biểu hiện gián tiếp, theo phương pháp này nội tệ là đồng tiền yết giá (hàng hoá), ngoại tệ là đồng tiền định giá (tiền tệ -vật ngang giá). Ví dụ: tỷ giá hối đoái trên th ị trường ngoại tệ Luân đôn ngày 20.11.2008 là GBP/USD = 2,25 tức là 1 GBP = 2,25 USD Tuỳ theo mục đích nghiên cứu tỷ giá hối đoái được phân loại theo các tiêu thức khác nhau: - Theo phương tiện chuyển hối được phân thành tỷ giá điện hối và tỷ giá thư hối. Tỷ giá điện hối là tỷ giá mua ngoại tệ cũng như các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ chuyển bằng điện. Tỷ giá thư hối là tỷ giá mua ngoại tệ cũng như các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ chuyển bằng thư. - Theo phương tiện thanh toán quốc tế được phân thành tỷ giá séc và tỷ giá hối phiếu. Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ghi bằng ngoại tệ. Tỷ giá hối phiếu là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu ghi bằng ngoại tệ. 85 - Theo thời điểm mua bán ngoại tệ được phân thành tỷ giá mở cửa và tỷ giá đóng cửa. Tỷ giá mở cửa là tỷ giá áp dụng cho phiên giao dịch đầu tiên tại các trung tâm hối đoái. Tỷ giá đóng cửa là tỷ giá áp dụng cho phiên giao dịch cuối cùng tại các trung tâm hối đoái. - Theo phương thức mua bán, giao nhận ngoại tệ được phân thành tỷ giá giao nhận ngay và tỷ giá giao nhận có kỳ hạn. Tỷ giá giao nhận ngay là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng được thực hiện chậm nhất là sau hai ngày. Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định. - Theo chế độ quản lý ngoại hối được phân thành tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái tự do. Tỷ giá hối đoái chính thức là tỷ giá hối đoái do NGTW công bố. Tỷ giá hối đoái tự do là tỷ giá hối đoái được giao dịch trên thị t rường tự do. Nghiên cứu thống kê về tỷ giá hối đoái người ta còn sử dụng phương pháp sức mua tương đương - PPP (purchasing power parity) theo đó tỷ giá hối đoái được tính bằng cách so sánh sức mua hàng hoá, dịch vụ của mỗi nước bằng đồng tiền của mình là bao nhiêu rồi đem so sánh với nhau. Ví dụ: 1 kg gạo tại Việt Nam giá trung bình là 10.000 VNĐ, tại Mỹ là 1,25 USD. Như vậy tỷ giá hối đoái USD/VND = 10.000/1,25 = 8000 Hay KA/B = pA/pB Trong đó: KA/B là tỷ giá hối đoái đồng tiền nước A sang đồng tiền nước B pA là giá hàng hoá nước A theo đồng tiền nước A pB là giá hàng hoá nước B theo đồng tiền nước B Trong thực tế khi tính toán PPP người ta dùng giỏ hàng hoá dịch vụ tương tự như tính CPI và áp dụng công thức chỉ số giá tổng hợp không gian gia quyền của Paashe và của Laspeyres rồi sau đó tính theo công thức của Fisher. Thống kê tỷ giá hối đoái bình quân được tính theo phương pháp sau: - Theo phương pháp bình quân đại số giản đơn bằng cách lấy trung bình giá bán và giá mua ngoại tệ. 86 - Trên cơ sở xác định thời điểm xác định tỷ giá hối đoái trên thị trường, tỷ giá hối đoái bình quân được xác định theo công thức sau: + Công thức bình quân cộng đại số: n K K t Trong đó: Kt là tỷ giá hối đoái vào thời điểm t n là số thời điểm thống kê + Công thức bình quân nhân: n nt KKKK ......1 Tương tự như lãi suất, phân tích thống kê sự biến thiên của tỷ giá hối đoái có thể sử dụng các tham số thống kê như khoảng biến thiên (R), phương sai ( ú2), độ lệch chuẩn (ú) hệ số biến thiên (Vú). Phân tích thống kê biến động của tỷ giá hối đoái theo thời gian có thể sử dụng các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian như lượng tăng tuyệt đối, tốc độ phát triển, tốc độ tăng (liên hoàn, định gốc và bình quân). Ngoài ra còn có thể sử dụng chỉ số thời vụ, hàm xu thể để phản ánh xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái . 87

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_giang_thong_ke_tai_chinh_ban_dep.pdf
Tài liệu liên quan