Bài tập cá nhân Tố tụng dân sự đề 16
Năm 2002, ông bà M,N chết có để lại di sản là một căn nhà trên diện tích đất 400m2 tại phường K, quận D, thành phố H. Ông bà có 4 người con là A, B, C, D. Anh A và anh B hiện cư trú tại quận 1 thành phố H, anh C hiện cư trú tại Mỹ, anh D có hộ khẩu thường trú tại thành phố M thuộc tỉnh TG nhưng hiện đang quản lý, sử dụng nhà đất cha mẹ để lại và có đăng ký tạm trú tại phường K, quận D, thành phố H. Nay anh A cho rằng anh D có ý định chiếm toàn bộ nhà đất nên có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Hỏi:
4 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2001 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập cá nhân Tố tụng dân sự đề 16, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI 16
Năm 2002, ông bà M,N chết có để lại di sản là một căn nhà trên diện tích đất 400m2 tại phường K, quận D, thành phố H. Ông bà có 4 người con là A, B, C, D.
Anh A và anh B hiện cư trú tại quận 1 thành phố H, anh C hiện cư trú tại Mỹ, anh D có hộ khẩu thường trú tại thành phố M thuộc tỉnh TG nhưng hiện đang quản lý, sử dụng nhà đất cha mẹ để lại và có đăng ký tạm trú tại phường K, quận D, thành phố H.
Nay anh A cho rằng anh D có ý định chiếm toàn bộ nhà đất nên có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Hỏi:
a. Theo anh chị, Tòa án cấp nào có thẩm quyền sơ thẩm vụ việc trên?
b. Có ý kiến cho rằng anh A phải khởi kiện tại tòa án thành phố M thuộc tỉnh TG. Hãy cho biết ý kiến này đúng hay sai và giải thích tại sao?
BÀI LÀM
a. Toà án có thẩm quyến giải quyết vụ việc trên là Toà án nhân dân thành phố H.
Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 33 thì “Toà án nhân dân huyện,thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyển giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại điều 25 và điều 27 bộ luật này”.
Theo Khoản 5 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự thì “Tranh chấp về thừa kế tài sản” là một trong những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp về thừa kế, trong đó phải kể đến yêu cầu chia di sản thừa kế, có thể theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Trong vụ việc đề ra, Ông bà M, N có 4 người con là A, B, C, D , sau khi qua đời để lại ngôi nhà trên diện tích đất 400m2 tại phường K, quận D, thành phố H. D có hộ khẩu thường trú tại thành phố M thuộc tỉnh TG nhưng hiện đang quản lý, sử dụng nhà đất cha mẹ để lại và có đăng ký tạm trú tại phường K, quận D, thành phố H, A cho rằng anh D có ý định chiếm toàn bộ nhà đất nên có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Như vậy đương sự trong vụ việc này chỉ bao gồm anh A (nguyên đơn) và anh D ( bị đơn).
Trong 4 người con của ông bà M,N thì anh C hiện đang cư trú tại Mỹ, tuy nhiên vì anh C không hề có yêu cầu gì trong vụ tranh chấp này nên đây không phải là tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài (đương sự ở nước ngoài- Khoản 3, Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự). Nếu là tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên sẽ là Tòa án nhân dân cấp tỉnh của thành phố H, hoặc Tòa án nhân dân thành phố H nếu như H là thành phố trực thuộc trung ương – theo Điểm c Khoản 1 Điều 34 – Bộ luật Tố tụng dân sự.
b.Ý kiến cho rằng anh A phải khởi kiện tại Toà án nhân dân thành phố M thuộc tỉnh TG theo em là sai, bởi vì:
Theo Điểm c Khoản 1 Điều 35 về Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ: “Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản”.
Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì bất động sản là tài sản gắn liền với đất không thể dịch chuyển được, các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản đó cũng thường do cơ quan nhà đất hoặc chính quyền địa phương nơi có bất động sản nắm giữ. Vì thế, toà án nơi có bất động sản sẽ là toà án có điều kiện tốt nhất trong vịêc xác minh, xem xét tình trạng của bất động sản, thu thập các giấy tờ tài liệu liên quan đến bất động sản đó. Pháp luật không cho phép các bên thoả thuận về việc yêu cầu toà án nơi không có bất động sản giải quyết vụ việc trên.
Trong đề bài, bản chất của tranh chấp là tranh chấp về quyền thừa kế tài sản, tuy nhiên đối tượng mà hai bên hướng đến là bất động sản: ngôi nhà trên diện tích 400m2 tại phường K, quận D, thành phố H.
Có thể thấy rằng, trong vụ việc này, tranh chấp giữa các bên chỉ là quyền thừa kế bất động sản chứ không hề có động sản, hơn nữa, anh D tuy đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố M, tỉnh TG nhưng hiện đang quản lý, sử dụng ngôi nhà do cha mẹ để lại, và cũng đăng ký tạm trú tại đây, cho nên thẩm quyền giải quyết tranh chấp chia thừa kế sẽ thuộc về Tòa án nhân dân thành phố H.
Trong thực tiễn, việc vận dụng quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 để xác định thẩm quyền của Toà án đối với các tranh chấp thừa kế nhà đất cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tranh chấp thừa kế nhà đất không phải là tranh chấp về bất động sản vì đối với tranh chấp thừa kế nhà đất hoặc quyền sử dụng đất thì trước hết phải xác định xem ai là người có quyền thừa kế rồi mới chia, trong số các đương sự thì có đương sự chỉ yêu cầu hưởng giá trị chứ không yêu cầu chia hiện vật. Vì vậy, Toà án có thẩm quyền giải quyết phải là Toà án nơi có bị đơn. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, tranh chấp thừa kế thì di sản có thể bao gồm cả động sản, bất động sản cho nên không thể áp dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền của Toà án theo nơi có bất động sản toạ lạc. Pháp luật cần đặt ra những quy định để làm rõ hơn vấn đề xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với tranh chấp về chia tài sản thừa kế.
Theo pháp luật một số nước thì nguyên tắc nơi phát sinh sự kiện mở thừa kế được áp dụng để xác định thẩm quyền của Tòa án trong vụ việc yêu cầu chia thừa kế. Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc sẽ là Toà án nơi mở thừa kế hay Toà án nơi có di sản. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam hiện nay không đề cập đến nguyên tắc này. Do vậy, trong khi nhà lập pháp chưa có những quy định khác thì việc xác định thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ tạm thời vẫn được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, trên nguyên tắc ưu tiên thẩm quyền giải quyết của Toà án nơi có bất động sản (nếu có nhiều bất động sản thì là Toà án nơi có một trong các bất động sản).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
Mục 4 phần I Nghị quyết số 01/2005/ NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “ Những quy định chung” của BLTTDS năm 2005.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb CAND, Hà Nội, 2009.
TS Trần Anh Tuấn, “ Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 7 tháng 4/2009, tr 52- 56.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ca nhan ttds 1de 16.doc