Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh

Đề bài : Trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết : “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự cường đổi mới và sáng tạo”. Hãy phân tích và chứng minh nhận định trên, liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay. Bài làm: I-Đặt vấn đề: Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam giành thắng lợi. Tư tưởng của Người có đóng góp quan trọng vào chiến thắng của dân tộc Việt Nam, giúp nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác ,có ý nghĩa sâu sắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội .Tư tưởng Hồ Chí Minh có ảnh hưởng sâu sắc tới đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi , là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Chính vì tầm quan trọng của Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người nên trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự cường đổi mới và sáng tạo”.Nhận định trên là một nhận đinh chính xác và nó có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng đến thực tiễn của Việt Nam.

doc19 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2521 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người. (Chú thích : 1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, trang 110) Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” (1) Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng chính là ở chỗ đó. Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến. Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người. Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau. Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.” (2). Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ (dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau.” (3). Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các dân tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt.”(4). Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống phá cách mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết mới tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng đã đề ra. Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận thấy cơ hội cứu nước đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào cả nước, trong thư Người viết: “…Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng.” (5). (Chú thích: Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, trang 110. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 10, tr. 591. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, trang 217. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, trang 639. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, trang 198.) Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc, mà chính Người là hiện thân của sự đoàn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong cách mạng Việt Nam được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công” Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ hoàn cảnh và điều kiện sống của các dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người, sống ở miền núi, vùng sâu và vùng xa của đất nước. Bởi, theo Người so với đồng bào sống ở miền xuôi, vùng đồng bằng và đô thị, thì đời sống của đồng bào ở miền núi, xét trên mọi phương diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, miền núi và vùng sâu, vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, trình độ sản xuất và văn hoá của nhân dân nơi đây còn rất thấp. Nơi ăn, chốn ở, trường hợc, cơ sở y tế và giao thông đi lại còn nhiều khó khăn và thiến thốn. Bên cạnh đó, do trình độ dân trí thấp nên những thủ tục lạc hậu, mê tín, di đoạn còn rất nặng nề. Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc ít người, là nơi giáp biên giới với số nước láng giềng, xa đồng bằng, địa bàn hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều vùng vốn là căn cứ địa cách mạng quan trọng của cách mạng Việt Nam trước đây. Bởi vậy, quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc phòng to lớn đối với cả hiện tại và tương lai của đất nước. Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí Minh, là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực. -Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam: Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết. Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai 'trường xuân bất lão'". Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi". Đối với Việt Nam, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ tính đúng đắn qua vai trò định hướng con đường phát triển xuyên suốt hơn 76 năm cách mạng từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã tập hợp, huy động được sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn dân giành độc lập, tiến hành các cuộc kháng chiến, đánh thắng những đế quốc xâm lược có sức mạnh quân sự, kinh tế vượt trội gấp nhiều lần, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội mới và đang tiến hành đổi mới thắng lợi. Với tính cách toàn diện của sự nghiệp đổi mới, chúng ta khẳng định con đường chúng ta lựa chọn là kết quả của sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, là sự kế tục tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện lịch sử mới của toàn cầu hoá cần phải chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Không có ý nghĩa nào khác, định hướng XHCN chính là sự chỉ hướng, đồng thời cũng là con đường nhằm đạt tới mục tiêu mà chúng ta mong muốn đem tới cho mọi người. Như vậy về lý luận, thực tiễn, định hướng XHCN là dựa trên và xuất phát từ cơ sở hiện thực, nó chuyển tải trong đó các khát vọng của bất kỳ người dân Việt Nam nào có lương tri và chỉ có những ai thiếu thiện chí, thiếu lương tri mới cố tình xuyên tạc, bóp méo. Có thế đặt ra những câu hỏi rằng: Chẳng lẽ những người đang bác bỏ định hướng XHCN, đang tỏ ra "lo lắng" cho đất nước lại không mong muốn đất nước này, dân tộc này một cuộc sống "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"? Chẳng lẽ họ không thấy những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (năm 1991) chính là các đặc trưng cơ bản của một xã hội mới, không chỉ dân tộc ta đã và đang nỗ lực xây dựng, phấn đấu đạt tới mà nhiều quốc gia dân tộc khác trên thế giới hiện đại cũng đang mong mỏi hay sao? Chẳng lẽ trong khi khua chiêng gióng trống "đấu tranh cho dân chủ", họ lại quay lưng với sự thật là đổi mới đã và đang là động lực "máu thịt" của mọi người Việt Nam? Các câu hỏi, tự chúng cho phép nhận diện thâm ý và động cơ thật sự của những người đang lớn tiếng phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Vượt qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ với những chiến thắng vĩ đại, chúng ta đồng thời cũng phải mang trên mình những vết thương không dễ hàn gắn trong một sớm, một chiều. Một nền kinh tế kiệt quệ, một đất nước bị tàn phá, nhiều thế hệ thanh niên ưu tú ngã xuống trên chiến trường, hàng triệu nạn nhân chiến tranh, sự thù nghịch và hàng chục năm cấm vận, cùng với đó sự đeo bám dai dẳng của tập quán, của lối suy nghĩ tiểu nông tư hữu, của sản xuất nhỏ, đặc biệt là sự tồn tạo của tư duy chủ quan, duy ý chí và quá "say sưa chiến thắng" trong khi hoạch định các kế hoạch phục hồi và phát triển... Tất cả đã tạo nên một "sức ì", một sự trì trệ mà đến Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã rút ra những bài học quý giá để chấn hưng và phát triển đất nước trong một thế giới đã chứa đựng nhiều biến động so với những năm tháng chúng ta giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (khoá VI), lần đầu tiên khái niệm "định hướng XHCN" được đặt ra, khái niệm đó tiếp tục được tổng kết về mặt thực tiễn, nghiên cứu về mặt lý luận, từng bước hoàn thiện về nội hàm trong các Văn kiện Đại hội Đảng, trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương các khoá tiếp theo. Là một khái niệm mới, nhưng mang tính hiện thực, trong điều kiện "vừa học, vừa làm, vừa tổng kết, vừa suy nghĩ", định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước thể hiện tính đúng đắn qua các thành tựu chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Các thành tựu ấy là bằng chứng cụ thể, thuyết phục, chứng minh định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đối với dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 21. Khẳng định con đường đi lên CNXH, chúng ta cũng nhận thức một cách rõ ràng và đầy đủ, đây là một quá trình bao gồm nhiều bước đi kế tiếp nhau, luôn phải chịu những tác động hết sức phức tạp từ những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, trong đó nổi bật và quan trọng nhất là khả năng đoạn tuyệt với lối tư duy khuôn sáo, máy móc về kế hoạch hoá tập trung, về sự "bao cấp"... vốn không còn thích hợp để không chỉ làm quen, mà còn phải triển khai trong thực tế để giải quyết các vấn đề cơ bản của quan hệ giữa kinh tế thị trường với các giá trị của chủ nghĩa xã hội và nhà nước pháp quyền XHCN... nhằm đáp ứng các đòi hỏi của cuộc sống. Vấn đề không chỉ là hành động mà còn là mục đích chúng ta hướng tới. Thử hỏi những người đang ra rả phê phán định hướng XHCN sẽ định đưa dân tộc đến đâu nếu họ phê phán mục địch lành mạnh mà định hướng XHCN cố gắng đạt tới là xã hội phát triển, phồn vinh, công bằng và văn minh, một trình độ tiến bộ mới trong mối liên hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá - xã hội, phát triển con người, bảo vệ môi trường. Và nổi lên trong đó là yêu cầu về tính nhân văn cũng cháy bỏng không kém khát vọng phát triển để khắc phục đói nghèo, làm cho nước mạnh, dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta đang đứng trước nhiều thuận lợi song cũng đan xen không ít thách thức nếu không tiếp tục xây dựng, củng cố một bản lĩnh chính trị vững vàng, một quyết tâm, một lòng kiên trì, nếu không có sự tỉnh táo văn hoá cần thiết, chúng ta sẽ không thể vượt qua. Xây dựng xã hội mới là công việc của nhiều thế hệ, của nhiều triệu con người. Niềm tin và sự đồng thuận đã giúp chúng ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ để giành lại nền độc lập. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, niềm tin và sự đồng thuận sẽ tiếp tục nâng bước dân tộc ta trên con đường phấn đấu vì mục tiêu cao đẹp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để lập nên những thành tựu mới, xây dựng một nước Việt Nam XHCN phồn vinh. -Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ : "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc". Và tại Đại hội IX của Đảng lần này, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Nhìn ra bên ngoài và nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX vừa qua, chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Như chúng ta đã biết, dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất nước thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng, không thiếu quyết tâm nhưng họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ phong kiến, cả giai cấp tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không giải quyết được vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta. Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong "tình hình đen tối như không có đường ra". Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó ? Nhưng rồi chính lịch sử lại có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định : chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến, và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang trở thành "trung tâm vũ trụ", chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội loài người. Nhưng chính thời điểm mà chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực thịnh ấy, thì Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển đến mức người ta rêu rao như một "định mệnh", như một "trật tự vĩnh hằng", thì sau Tháng Mười - 1917, không ai không thấy, cái "then" hãm thế giới ấy đã bị bẻ gẫy, điều định mệnh ấy thành ảo tưởng, cái trật tự ấy bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Rõ ràng, tới những năm 20 của thế kỷ XX với những biến động to lớn và sâu sắc, đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười Nga "rung chuyển thế giới", đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; vì vậy con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi. Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính "sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố chất đặc biệt Việt Nam đã "bắt gặp" chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại : năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng tuyên bố : "Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ thẳng thừng chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người. Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau. Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp. Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là : Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ. Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lôgíc phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam, 71 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm nên cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế giới. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng ta đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, một điển hình trong các dân tộc thuộc địa, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với "hai đế quốc to", mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới. Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và thế giới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như thế, đối với Việt Nam ta, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lư tưởng, là quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.2) Tính độc lập tự chủ tự cường đổi mới và sáng tạo -Sức mạnh từ bài học của Cách mạng tháng Tám Cách mạng-bản thân khái niệm ấy đã chứa đựng trong nó tính sáng tạo. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên một kì tích – thực hiện thành công Cách mạng tháng Tám – tạo nên một bước ngoặt lịch sử - hiện thân của tính sáng tạo và tiêu biểu. Với tư duy độc lập mang tính sáng tạo cao, vượt qua mọi lối mòn của thế hệ đi trước, tháng 10 năm 1944, trong thư kêu gọi đồng bào tổ quốc, Bác Hồ đã dự báo: phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt, các đồng minh quốc sắp giành được thắng lợi cuối cùng. Cơ hội để dân tộc ta giải phóng chỉ trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp ta phải làm nhanh. Tầm nhìn và sự hiểu biết sâu rộng ấy của Bác, đã được thể chế hóa sau đó không lâu tại Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào ngày 16-8-1945. Đại hội đã quyết định 10 chính sách lớn và ban hành lệnh Tổng khởi nghĩa. Chỉ trong vòng 2 tuần lễ sau lệnh Tổng khởi nghĩa, cuộc đấu tranh của quần chúng giành chính quyền đã diễn ra trên khắp ba miền đất nước. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã được ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trong những mốc son chói lọi và hào hùng nhất. Đó là thời khắc biểu thị độ chín thiên tài sáng tạo của một Đảng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Bác. Cách mạng tháng Tám trước hết là hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta. Dưới ngọn đuốc soi đường của chủ nghĩa Mac, với ý chí không có gì quí hơn độc lập tự do, bằng chủ nghĩa chủ nghĩa yêu nước và tấm lòng quả cảm, Đảng và Bác đã khơi dậy và phát huy cao nhất truyền thống yêu nước được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trên nền của phương pháp tư duy cách mạng sáng tạo, Đáng ta đã qui tụ và tập hợp dưới ngọn cờ chính nghĩa và sứ mạnh của khối đại đòa kết toàn dân.Quan điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là nền tảng của phương pháp tư duy sáng tạo kiển mới. Nhờ phương pháp này, chúng ta đã phân hóa, cô lập kẻ thù, gắn kết mọi người Việt Nam yêu nước, tha thiết với độc lập dân tộc, không phân biệt đảng phái, quan điểm chính trị, tín ngưỡng…thành một khối thống nhất vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp không gì lay chuyển nổi. Thiên tài sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng taddax xây thành một hệ thống các phương pháp, hình thức, tổ chức chuẩn mực, tập hợp quần chúng thực hiện bước đột phá trong tổng khởi nghĩa. Có thể nói khơi dậy và tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy đến cao nhất chủ nghĩa yêu nước , chủ động nắm bắt thời cơ, tập hợp lực lượng đủ mạnh và biết chọn các loại hình thức tổ chức thích hợp , giành thắng lợi từng phần tiến đến thắng lợi hoàn toàn là đỉnh cao của sự sáng tạo trong Cách mạng tháng Tám. -Cách mạng tháng Tám thành công chưa bao lâu thì vận nước lại lâm vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong bối cảnh vừa phải đối phó với thù trong giặc ngoài, Đảng và bác vẫn vững vàng đưa con thuyền cách mạng việt Nam qua nhiều ghềnh thác. Thắng lợi của chín năm chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ một lần nữa chứng minh tài thao lược và sáng tạo của Đảng và Bác. Nhờ sáng tạo chúng ta đã dám đánh và tìm ra cách đánh, biết chuyển yếu thành mạnh, dàn mỏng, chia cắt, phân hóa cao độ kẻ thù, đẩy chúng vào thế bị động và suy yếu để tiêu diệt kẻ thù. Sau Cách mạng tháng Tám một Điện Biên tỏa sáng đãviết tiếp nên bản anh hùng ca của sự sáng tạo, tạc chân dung Việt Nam vào thế kỉ XX như một biểu hiện chói sáng nhất của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc tự cường. -Rồi đất nước chia cắt, miền nam lại chìm vào ách nô lệ. Vẫn với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” , tinh thần sáng tạo của cách mạng tháng Tám lại được nhân lên và phát huy đến cao nhất. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là một minh chứng khẳng định rằng, một dân tộc nhỏ yếu, đất không rộng, người không đông, kinh tế chưa phát triển nhưng nhờ sáng tạo, biết tập hợp mọi nguồn lực dưới sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng và trí tuệ, đã biết kết hợp tốt nhất sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thế và lực mới làm nên chiến thắng. Nhớ lại những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, chúng ta có quyền tự hào về năng lực sáng tạo và phi thường của Đảng và Bác. Rõ ràng tương quan về lực lượng và thế trận của cuộc chiến nghiêng về đối phương. Nước Mĩ một cường quốc quân sự hùng mạnh nhất của chú nghĩa đế quốc rắp tâm thôn tính dân tộc ta bằng mọi giá. Trên khắp các chiến trường kẻ thù đã không từ bát kì một thủ đoạn thâm độc và tàn bạo nào để tiêu diệt lực lượng cách mạng. Nhờ thấm nhuần tinh thần quật khởi và sáng tạo của cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã xác định đúng đường lối tiến hành cách mạng miền Nam. Nghị quyết 15 của trung ương Đảng là cột mốc đánh dấu bước ngoặt, thể hiện đường lối tự chủ sáng tạo. Trên cơ sở đường lối quân sự đúng đắn, cách mạng miền Nam đã có những quyết sách và phương pháp cách mạng thích hợp. Nắm chắc và không bỏ lỡ thời cơ, tổ chức và xây dựng lực lượng hợp lí với ba thứ quân, ba vùng chiến lược, ba mũi giáp công linh hoạt sáng tạo phòng thủ vững chắc tấn công sắc bén hiệu quả. Kết hợp thời thế và lực đẻ lấy yếu đánh mạnh lấy ít địch nhiều với các hình thức và bước đi thiên biến vạn hoasnhwng đầu hướng tới một mục tiêu chung nhất quán; đánh cho Mĩ cút đánh cho ngụy nhào. Đánh với một quyết tâm thà hi sinh tất cả chứ nhất đinh không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. - Tư tưởng độc lập tr chủ tự cường thể hiên trên lĩnh vực ngoại giao Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định các quyền dân tộc cơ bản và luôn nhấn mạnh độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia là những vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn với đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nêu rõ, muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải giúp lấy mình đã; và tự lực cánh sinh là một truyền thống quý báu của cách mạng nước ta. Từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh luôn xác định cách mạng Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với các trào lưu và lực lượng tiến bộ của thế giới, việc tăng cường các mối liên hệ và hợp tác quốc tế là một trong những điều giúp ta kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Sức mạnh của Việt Nam là ở sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân, là ở việc phát huy mọi nguồn lực của đất nước, đồng thời ở việc đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác quốc tế. Đó cũng chính là cơ sở để phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Quan niệm đoàn kết, hợp tác quốc tế là con đường hai chiều và trên cơ sở cùng có lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: mình đã hưởng cái hay của người thì phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả. Sự nghiệp vẻ vang của nhân dân Việt Nam đóng góp vào thực hiện các mục tiêu chung của nhân dân tiến bộ thế giới. Người sớm nêu ra ý tưởng hợp tác cùng có lợi với tất cả các nước. Ngay những năm đầu khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, Người đã khẳng định Việt Nam mong muốn thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực, đón nhận đầu tư nước ngoài; mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế; hoan nghênh đầu tư nước ngoài để xây dựng lại Việt Nam và để tham gia "điều hòa kinh tế thế giới". Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tính chất thời đại và cuộc đấu tranh của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao chính nghĩa, đạo lý và nhân nghĩa trong quan hệ quốc tế. Người nêu rõ: Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Người thường nhắc nhở phải làm sao cho trong Đảng và trong nhân dân ta giữ được lòng yêu mến, biết ơn các nước bạn anh em, phấn đấu tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là "thiên kinh địa nghĩa" (điều vô cùng chính xác, không thể nghi ngờ). Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn, phấn đấu mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam theo hướng đa dạng hóa - là bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai. -Tính đổi mới sáng tạo Trong công cuộc xây dựng kinh tế nay đã trở thành nhiệm vụ trung tâm, sau một thời gian mắc sai lầm chủ quan, rập khuôn và duy ý chí, Đảng ta đã sớm trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn, tìm ra qui luật, đề ra đường lối đổi mới đúng đắn và sáng tạo. Đường lối ấy đã cổ vũ mạnh mẽ toàn dân ta giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn trên các mặt trận kinh tế, văn hóa và đối ngoại. Đảng ta đã đi đến một kết luận lịch sử: chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục đi lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, dù thắng lợi của đường lối đổi mới to lớn như thế nào, chúng ta cũng dũng cảm nhìn vào sự thật, không chút phạm sai lầm “kiêu ngạo cộng sản”. Phải nói rằng hiện nay nước ta đang còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, cơ cấu kinh tế phần lớn còn là nông nghiệp, năng suất lao động thấp kém hàng trăm lần, trình độ công nghệ lạc hậu hàng thế kỷ so với các nước phát triển. Như vậy, để thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn chủ yếu nhất trong xã hội nước ta chính là mâu thuẫn giữa yêu cầu rất cao của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, giữa yêu cầu cải thiện không ngừng đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân với tình trạng nghèo nàn và lạc hậu hiện đang được khắc phục từng bước; đó là chưa nói đến nạn tham nhũng, sự suy thoái về đạo đức và sự nảy sinh những tệ nạn xã hội mà mặt trái của cơ chế thị trường mang lại. Trong lúc đó thì cục diện thế giới đang có những biến đổi to lớn. Một số nước phát triển đang đi vào một thời đại kinh tế - xã hội mới, thời đại kinh tế tri thức của nền văn minh trí tuệ. Ở đó, dịch vụ và trí tuệ đã trở nên lực lượng sản xuất hàng đầu. Trên cơ sở ấy, một trật tự thế giới mới đã xuất hiện với xu thế toàn cầu hóa, lôi cuốn cả hành tinh vào một cơn lốc lớn do một số siêu cường và tập đoàn siêu quốc gia chi phối. Đi đôi với nguyện vọng hòa bình của loài người tiến bộ, thì các thế lực hiếu chiến, bá quyền và các tổ chức tình báo của họ vẫn tiếp tục gây ra các cuộc chiến tranh cục bộ, khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, “diễn biến hòa bình”, hoạt động bạo loạn, lật đổ, ly khai, chạy đua vũ trang chưa từng có về vũ khí công nghệ cao. Môi trường an ninh thế giới biến đổi khôn lường. Rõ ràng, bước vào thế kỷ 21 và thiên niên kỷ thứ 3, Đảng ta và toàn dân ta đang đứng trước những thời cơ mới, đồng thời phải đối mặt với những thách thức mới chưa từng có. Cũng như trước đây trong những bước ngoặt lớn của đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta đã xuất phát từ thực tiễn và đề ra những quyết sách phù hợp với qui luật vận động của chiến tranh cách mạng, thì ngày nay Đảng ta cũng đã đề ra những quyết sách đột phá mới để đưa đất nước tiến lên. Đó là quyết sách coi xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, bởi vì như Mác và Ăngghen đã khẳng định: sự phát triển phổ biến của các lực lượng sản xuất hiện đại là tiền đề của mọi tiền đề của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là quyết sách coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách số một, bởi vì khoa học và trí tuệ đã trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu, công nghệ tiên tiến là nội dung và động lực của công cuộc hiện đại hóa. Đó là phát huy đến đỉnh cao nội lực của đất nước, chủ yếu là con người và nền văn hóa VN trên cơ sở đó mà chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn, công nghệ và tri thức quản lý của nước ngoài để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước Đó là chủ trương tiếp tục xây dựng và chỉnh đốn Đảng, coi đó là nhiệm vụ then chốt, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, bè phái, diệt trừ nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; luôn tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận tiên phong để xứng đáng là lương tâm, danh dự và trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc, trên cơ sở đó mà chỉnh đốn Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tăng cường và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đó là luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, bảo vệ môi trường sinh thái; coi trọng việc xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ ở mức cao nhất của các phong trào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. -Thành tựu về nền kinh tế củ Việt Nam thời kì đổi mới: Từ nền kinh tế trì trệ bị bao vây cấm vận , đời sóng nhân dân hết sức khó khăn, đén hôm nay sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến vững vàng tạo đà cho thế kỉ phát triển mới của đất nước. Chúng ta có thể tự hào khẳng định, kinh tế Việt Nam 20 năm qua đạt được nhiều thành tựu to lớn: Một là, đã đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kĩ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Từ năm 1986 đến năm 1989, công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Nhưng vào đầu thập kỷ 90, khi bước vào thực hiện chiến lược 10 năm 1991 - 2000, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nhờ triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đến năm 1995, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 1991-1995 được hoàn thành vượt mức; đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ năm 1996 đến năm 2000 đất nước đã đạt được nhịp độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm (1990-2000) đạt 7,5%; năm 2000 so với năm 1990, GDP tăng hơn 2 lần. Trong 5 năm (2001-2005) của nhiệm kỳ Đại hội IX, GDP bình quân tăng gần 7,5%; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế đã được huy động khá hơn; nhiều lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng đã được phát huy. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện. Hai là thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần Để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Đảng đã quan tâm lãnh đạo đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 tạo khung pháp lý, có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất, phục vụ cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; đã tập trung chỉ đạo sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Qua sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá, số doanh nghiệp nhà nước giảm đi (năm 1990 là 12.084, đến tháng 6 năm 2005 còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước), ngoài ra còn có 670 công ty cổ phần do Nhà nước chi phối trên 51% vốn điều lệ. Nhờ đổi mới như vậy mà các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Năm 2005 các doanh nghiệp đã đóng góp 39% GDP, 50% tổng ngân sách nhà nước. Kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã, đã được đổi mới từng bước theo Luật Hợp tác xã và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Các hợp tác xã đã chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ trong sản xuất hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của khu vực hợp tác xã giảm nhanh, nhưng bắt đầu có chiều hướng phục hồi. Số lượng hợp tác xã tuy giảm nhiều so với trước (mặc dù hằng năm đã xuất hiện nhiều hợp tác xã mới), nhưng nhờ đổi mới cơ chế quản lý trong hợp tác xã, nên đã bảo đảm được nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã tốt hơn, chất lượng và hiệu quả hoạt động khá hơn, mang lại hiệu quả cao hơn trước. Năm 2005, kinh tế tập thể đóng góp 8% GDP. Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, nhất là từ sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Sau gần 5 năm, cả nước có gần 108.300 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký lên khoảng 150.000, tăng gấp gần 2 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999); tổng số vốn đăng ký đạt hơn 302.250 tỷ đồng (tương đương 18 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ). Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm. Riêng số doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 96% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà nước) đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội (khoảng hơn 6 triệu người). Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 37,7% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng có bước phát triển quan trọng. Tính đến tháng 6 -2004, có 4.575 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép và còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 43 tỷ USD. Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động. Ba là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành Nền kinh tế nhiều thành phần theo chủ trương của Đảng và được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được cụ thể hoá bằng các luật, pháp lệnh. Với Luật Doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp 1992 quy định đã thực sự đi vào cuộc sống. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã tạo khung pháp lý ban đầu cho các yếu tố thị trường hình thành và vận hành từng bước. Đồng thời, Nhà nước đã thể chế hoá thành cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, ưu đãi thuế,... Nhờ đó, đã góp phần tích cực cho quá trình phát triển kinh tế thị trường trong suốt gần 20 năm qua. Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Bốn là cơ cấu kinh tế ngành vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa Về cơ cấu ngành kinh tế: từ năm 1988 đến nay, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục (năm 1988 là 21,6% GDP, năm 1995 là 28,8%, năm 2003 là 40%, dự kiến năm 2005 chiếm 41% GDP). Từ chỗ chưa khai thác dầu, đến nay đã có sản lượng (quy ra dầu) gần 20 triệu tấn/năm; ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp; công nghiệp xây dựng phát triển khá mạnh; sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1988 là 46,3%, năm 2003 còn 21,8%; năm 2005 là 20,5%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích tăng lên. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,2% năm 2003, 38,5% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành bưu chính - viễn thông và du lịch phát triển nhanh. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển khá. Về cơ cấu các vùng kinh tế: có sự chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh và quan tâm hỗ trợ các vùng còn có nhiều khó khăn. Ba vùng kinh tế trọng điểm đã phát triển với tốc độ cao hơn mức bình quân của cả nước, hiện chiếm hơn 60% GDP của cả nước, dần phát huy lợi thế so sánh, bước đầu có vai trò thúc đẩy các vùng khác phát triển. Các vùng kinh tế còn khó khăn đang từng bước vươn lên, có chuyển biến tốt về đời sống kinh tế - xã hội. Tốc độ đô thị hoá tương đối nhanh. Các vùng ngoại thành, ven đô thị được chú trọng phát triển. Về cơ cấu lao động: có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Năm 1990, lao động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 73,02% tổng số lao động xã hội, năm 2004 còn 58%, năm 2001 còn 57%; năm 2005 lao động trong công nghiệp và xây dựng là gần 18%, trong dịch vụ là 25%. Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP tăng khá nhanh; nguồn vốn tích luỹ trong nước đã được khai thác tốt hơn, chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư. Mặt khác, cũng huy động được nhiều vốn bên ngoài cho đầu tư phát triển. Đã hướng mạnh hơn đầu tư vào các mục tiêu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; bổ sung thiết bị và hiện đại hoá một số ngành công nghiệp; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất; xây dựng kết cấu hạ tầng; đầu tư phát triển nguồn nhân lực, xoá đói, giảm nghèo - nhất là ở vùng núi, vùng khó khăn. Năm là đạt được những hiệu quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Vượt ra khỏi chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt (như thương mại dịch vụ, lao động, đầu tư, khoa học và công nghệ ...). Đặc biệt là, nước ta đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ngày 28-7-1995, đã không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế toàn cầu. Đến năm 2005, nước ta đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó, nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hoá với nước ngoài và sẵn sàng ra nhập tổ chức thương mại quốc tế. III-Kết luận: Những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh rất lớn và là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc ta. Trong đó tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và tinh thần độc lập tự chủ tự cường đổi mới sáng tạo là hai vấn đề cơ bản phản ánh đúng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là giá trị vĩnh hằng của dân tộc Viêt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai tap tu tuong ho chi minh.doc
Tài liệu liên quan