Bài thuyết trình - Đền Quán Thánh
Người ta thường nói rằng: không có gì là hoàn hảo cả, bải thuyết trình của chúng tôi cũng vậy. Những thông tin chúng tôi đưa ra chắc chắn là chưa nói hết được bề dày lịch sử của hai ngôi chùa, nhưng đó là những thông tin cơ bản nhất. Mong quý khách sẽ hiểu thêm về văn hóa, con người, các giá trị truyền thống của người Việt.
15 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1949 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thuyết trình - Đền Quán Thánh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Nói Đầu
Bất cứ một du khách nào khi đến một điểm du lịch của Việt Nam ở một mức độ nào đó đều muốn được tìm hiểu về những nét văn hóa, con người nơi đó.
Điểm đến của chúng tôi lần này là Chùa Trấn Quốc và đền Quán Thánh. Đây là hai ngôi chùa nằm trên đường Thanh Niên, nằm cách nhau không xa.Từ đền Quán Thánh – nằm ở đầu đường Thanh Niên, chỉ với 5 phút đi bộ là du khách đã có thể đến chùa Trấn Quốc, trên đường đi du khách có thể vừa đi vừa ngắm cảnh hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Vì nằm ở khu trung tâm của thành phố Hà Nội, lại có khuôn viên rất đẹp, thoáng mát nên rất nhiều du khách đến đây để tham quan, cúng vái, làm lễ, … hoặc chỉ đến để vãn cảnh chùa, tận hưởng sự thanh thoát, thoải mái, nhẹ nhàng nơi cửa Phật. Cũng có những du khách nước ngoài đến vì tò mò, vì muốn biết đến những nét văn hóa đền chùa của người Việt, muốn biết những câu chuyện lịch sử của ngôi chùa.
Bài thuyết trình này của chúng tôi nhằm cung cấp cho du khách những thông tin cơ bản nhất, giúp du khách hiểu được những giá trị văn hóa, lịch sử của người Việt gắn với lịch sử của hai ngôi chùa.
Chúng tôi rất mong sự đóng góp của quý bạn đọc gần xa. Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả.
Bài thuyết trình - đền Quán Thánh
Khi nói đến Hồ Tây, hồ Trúc Bạch và đường Thanh Niên, thì chắc hẳn người dân Hà Nội sẽ nhớ đến bánh tôm Hồ Tây, phở cuốn hồ Trúc Bạch và nhiều người sẽ nghĩ đến đền Quán Thánh và chùa Trấn Quốc. Đây là hai địa điểm khá được nhiều sự ưu ái của du khách bởi vị trí ở gần khu trung tâm thành phố Hà Nội, phong cảnh rất thanh tịnh và những giá trị lịch sử - văn hóa lâu đời.
Đền Quán Thánh nằm ở góc đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) và phố Quán Thánh trông ra hồ Tây. Đền còn được gọi là Trấn Vũ quán (quán là nơi tu luyện của các đạo sĩ) thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ.
Hình 1: Toàn cảnh đền Quán Thánh
1. Lịch sử hình thành và xây dựng đền
Đền được xây dựng vào năm 1010 dưới triều Lí Thái Tổ sau khi rời đô về Thăng Long để chấn phương Bắc. Đền được liệt vào Thăng Long tứ trấn (4 vị thần trấn thành Thăng Long).
Năm Vĩnh Trị thứ 2 dưới triều Lê Hy Tông (1677) Trịnh Tạc sai thị thần Nguyễn Đình Luân bỏ tượng gỗ đúc tượng đồng.
Trải qua nhiều lần sửa chữa, đến năm 1856 thời Tự Đức đền có đợt trùng tu lại nhà chính diện, đình Thiệu Hương, nhà đại bái, gác chuông. Xây thêm 2 toà tả hữu hành lang và đắp lại 4 pho tượng đại nguyên suý và 1 pho tượng đương niên hành.
2. Kiến trúc của đền
Đền có cổng tam quan uy nghi đường bệ được dựng trên những tấm đá lớn với gác chuông ở phía trên cùng. Phía trước có bốn cây cột lớn được đắp nổi bằng những hình nghê, phượng và mặt hổ phù.
Hình 2: Cổng tam quan đền Quán Thánh.
Bước chân qua cổng tam quan là sân rộng, trong sân có bể cá vàng và hòn giả sơn.
Hình 3: Sân đền Quán Thánh
Cấu trúc đền gồm hai lớp. Lớp ngoài là nhà Đại Bái cao ráo, lộng lẫy với hệ thống cột, xà, cửa võng sơn son thếp vàng.
Hình 4: Hệ thống cột xà sơn son thếp vàng
Những nét chạm khắc gỗ tinh xảo mang đậm dấu ấn nghệ thuật thời Lê trên các chi tiết gỗ của đền Quán Thánh.
Hai bên tả hữu treo biển đồng chữ bạc của vua Thiệu Trị (1841-1847) ban và một khánh đồng (bên trong có bài thơ ca tụng công đức thần) do một Đại Đô đốc thời Tây Sơn cung tiến vào năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1795).
Hình 5: Chiếc khánh cổ trong đền Quán Thánh.
3. Tượng đồng đen Huyền Thiên Trấn Vũ
Điều đặc biệt và đáng chú ý nhất mà chắc ai trong quí vị dù chưa đến đây hay đến đây không phải lần đầu đều biết đến đó là tượng đồng đen Huyền Thiên Trấn Vũ. Tượng cao 3m96 nặng 4 tấn, (chu vi phần bệ tượng là 8m) tay trái bắt quyết, tay phải cầm gương có rắn quấn chống lên lưng rùa (rắn tượng trưng cho sức mạnh, rùa tượng trưng cho sự trường tồn).
Hình 6: Tượng đồng đen Huyền Thiên Trấn Vũ
Tương trưyền rằng Huyền Thiên Trấn Vũ là vị thiên thần trấn cửa Bắc môn thiên phủ vào thời nhà Tuỳ (589-600) giáng sinh đầu thai vào làm con vua nước Tinh Lạc bên Trung Quốc. Lớn lên Huyền Thiên bỏ ngôi Hoàng Tử đến tu ở núi Vũ Dương ( Trung Quốc) học đạo. Sau 42 năm tu luyện, Huyền Thiên đắc đạo sang du ngoạn nước ta đến sông Nhị Hà làng Long Đô ( Hà Nội ngày nay) vào tu luyện tại một ngôi đền bên Hồ Tây dùng đạo phép trừ các loại yêu quá để cứu dân. Do đó người ra nhớ ơn lập đền thờ ở phường Đông Xuân huyện Thọ Xương gọi là Huyền Thiên quán.
Một truyền thuyết nữa lại cho rằng vào đời Hùng Vương (2879-258) trước công nguyên tại làng Long Đô có rừng ‘Thiên lâm’ ở đây có con hồ tinh ( cáo thành tinh ) chín đuôi làm hại dân rất nhiều. Ngọc Hoàng sai thần Huyền Thiên hạ giáng dùng phép thuật giết hồ tinh rồi cả khu Thiết Lâm sụp xuống thành hồ tức là Hồ Tây ngày nay. Vì thế vua Lí Thái Tổ sau khi xây dựng thành Thăng Long đã cho lập đền thờ ở phía tây bắc thành để trấn yêu quái, đồng thời dùng thần quyền để mê hoặc lòng người, củng cố nền thống trị phong kiến.
Tượng đồng Trấn Vũ lúc đầu là bằng gỗ, đến năm Vĩnh Trị thứ 2 đời vua Lê Hy Tông (1677) mới được đúc thành đồng đen.
Đến năm 1892 tượng được nâng lên bệ đá xanh. Tượng đồng Trấn Vũ uy nghiêm hùng dũng được thờ phía bắc thành Thăng Long mang ý nghĩa lớn lao với tự về quốc gia, nó biểu thị cho sức mạnh quật cường của dân tộc qua các cuộc chiến tranh chống Tống, bình Chiêm, đuổi Minh qua mấy thế kỉ trước.
Tượng là công trình nghệ thuật đặc sắc của các nghệ nhân đúc đồng làng Ngũ Xã thế kỉ 17.
Với người Việt Nam đi đền chùa đầu năm là để cầu may và mỗi lần đến thăm đền Quán Thánh du khách thường xoa tay lên chân thánh và vuốt lên mặt mình sẽ đem lại may mắn và an lành cho mọi người trong cả năm.
Hình 7: Đặt tay lên chân tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được xem như là mộtnghi thức cầu may.
Ngoài ra quí vị có thể thấy pho tượng đứng trong lòng khám ở phía tả nhà đại bái, tượng này có thuyết cho tằng đó là viên thái giám coi đức tượng Huyền thiên, có thuyết lại cho rằng đó là ông tổ của nghề đúc đồng, người đã góp công lớn khi đúc tượng đồng Huyền Thiên nên khi ông mất các học trò của mình tạc tượng ông để tưởng niệm.
Ngoài nghệ thuật đúc đồng, đền Quán Thánh còn nổi tiếng với vẻ đẹp của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Trên các bộ phận kiến trúc bằng gỗ của ngôi đền các đề tài như tứ linh, dơi, cá, tùng, trúc, cúc, mai, lẵng hoa, bầu rượu, thanh gươm, cảnh sinh hoạt của trần gian và thượng giới... được chạm khắc một cách tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê.
Hình 8: Bia đá ghi trùng tu
Không chỉ là một công trình có giá trị về mặt lịch sử và kiến trúc, đền Quán Thánh còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa nổi tiếng của người dân Hà Nội xưa và nay. Trải qua gần một thiên niên kỷ nhưng ngôi đền vẫn còn nguyên vẹn, duyên dáng bên hồ Tây thơ mộng và tồn tại trong lòng người Hà Nội.
Vâng, hi vọng sau buổi tham quan đền quí vị có thể hiểu hơn về lịch sử ngôi đền và tích Huyền Thiên Trấn Vũ. Và bây giờ dưới tiết trời mùa xuân ấm áp chúng ta hãy cùng đi dạo trên đường Cổ Ngư xưa để đến vớí ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam: chùa Trấn Quốc.
Bài thuyết trình – Chùa Trấn Quốc
Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được khởi dựng từ thời vua Lý Nam Đế với tên là chùa Khai Quốc (mở nước).
Hình 1: Toàn cảnh chùa Trấn Quốc
Lịch sử hình thành
Theo sách sử ghi chép lại, Lý Nam Đế tên thật là Lí Bí sống ở thế kỷ thứ 6, là người Việt Nam đầu tiên xưng đế, khẳng định chủ quyền và lòng tự hào dân tộc. Ông đã tuyên bố dựng lên một nước mới, đặt Quốc hiệu là Vạn Xuân. Sử cũ bình luận rằng, với quốc hiệu mới, người đứng đầu nhà nước Vạn Xuân có ý “mong xã tắc được vững bền muôn đời”. Vua Lý Nam Đế sau khi lập ra nhà nước mới, đã cho xây dựng một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Vịêt Nam. Đó là chùa Khai Quốc, tiền thân của chùa Trấn Quốc . Ngay cái tên, chùa Mở nước cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Chùa Khai Quốc được xây dựng ở vị trí gần sông Hồng. Năm 1615, bãi sông bị lở sát vào chùa nên chùa được rời vào trong đê và nằm ở vị trí nam Hồ Tây như ngày nay. Chùa được đổi tên nhiều lần thành : An Quốc, Trấn Quốc, Trấn Bắc… Tên Trấn Quốc vẫn được nhân dân quen gọi từ thời vua Lê (thế kỉ 17).
Ngôi chùa không chỉ tự hào về bề dày lịch sử xây dựng mà còn về các vị cao tăng và danh nhân gắn bó với ngôi chùa. Cũng vào thế kỉ thứ 6, một vị thiền sư từ Ấn độ sang Việt Nam đã dừng chân tại đây một thời gian. Chùa đã được bộ văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hoá quốc gia.
Hình 2: Cổng chùa Trấn Quốc
Đi tham quan chùa Trấn Quốc
2.1. Lịch sử phật giáo:
(Lịch sử hình thành phật giáo được giới thiệu qua những bức ảnh dán trên tường).
Những tấm hình mô tả lại quá trình từ khi sinh ra đến khi tu thành chính quả của đức Phật. Cách đây hơn 4000 năm, Đức phật Thích ca mâu ni ( Phật Tổ Như Lai) được sinh ra. Đức phật tên thật là Sĩ Đạt Đa. Ngài là hoàng tử của vương quốc Ấn Độ, là con của vua Tịnh Phan và hoàng hậu Ma- da. Năm 16 tuổi, ngài kết hôn và sinh được một cậu con trai. Năm 29 tuổi, sau 3 lần du ngoạn ngoài thành, nhận thấy rõ sự thật của kiếp người : sinh, lão, bệnh, tử, ngài quay về nhìn vợ con lần cuối, sau đó từ bò hoàng cung để vào núi tu tập. Ngài tuyên bố sẽ không trở về cho đến khi tìm ra cứu cánh của cuộc đời và cái chết. Sau 6 năm tu hành khổ hạnh dưới gốc cây bồ đề, ngài đã chứng đắc vô thượng bồ đề, tức thành Phật. Sau đó, Ngài hoá độ chúng sinh trong 45 năm, cuối cùng ngài Nhập niết bàn và qua đời ở tuổi 80. Khi ngài mất, nghĩa cử cao đẹp của ngài đã được người đời tôn vinh thờ kính.
Hình 3: Lịch sử Phật giáo
Tham quan Chùa: Đi vào thắp hương trong chùa.
Hình 4: Chính Điện (chùa)
2.3. Tượng Thích Ca nhập niết bàn bằng gỗ thếp vàng:
(Tượng Phật nằm trong chùa).
Chùa Trấn Quốc vinh dự là một trong số rất ít các ngôi chùa ở Việt Nam có pho tượng Thích ca nhập niết bàn lộng lẫy. Các bạn có thể thấy ở đây rất nhiều pho tượng đẹp.
Hình 5: Tượng phật bằng gỗ thếp vàng
Cây bồ đề:
Hình 6: Cây bồ đề
(Cây bồ đề được trồng ở khoảng sân rộng trước cửa chùa).
Chùa Trấn quốc có cây bồ đề phiên được trồng ở trước cửa chùa do tổng thống Ấn Độ Prasat tặng chủ tịch HCM ngày 24/3/1959. Cây bồ đề đến từ đất nước phật giáo vươn lên xanh tốt ở đây chứng tỏ tình thân thiết giữa 2 đất nước cách xa nhau về địa lý nhưng cùng chung tư tưởng nhân văn bác ái, cùng đấu tranh cho sự nghiệp vì tự do hạnh phúc của con người.
2.5. Vườn tháp với nhiều tượng Phật:
Năm 1998, Hoà thượng Kim cương tử - Viện chủ của chùa Trấn Quốc đã cho xây bảo tháp lục độ đài sen gồm 11 tầng, cao 15 mét. Mỗi tầng tháp gồm 6 ô cửa vòm, có tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Tổng số tượng của tháp là 66 pho và trên đỉnh có 9 tầng đài sen cũng bằng đá quý. Tòa tháp là nơi lưu trữ tro của các vị hòa thượng đã quá cố trong chùa. Sau khi họ mất đi, thi thể được hỏa thiêu và đưa vào trong tháp, gọi là nhập tháp.
Hình 7: Toà bảo tháp
Có câu chuyện kể lại rằng, thực chất tòa tháp có 13 tầng, trong đó 12 tầng nhìn thấy được còn 1 tầng chìm dưới lòng đất. Mái vòm được tính thành 1 tầng, tầng chìm dưới đất là nơi cất giữ thi thể của đại lão hòa thượng Kim Cương Tử, nguyên là trụ chì cũ của chùa và là Hội trưởng hội Phật giáo Việt Nam.
Hình 8: Vườn tháp
Ngoài ra, các bạn có thể nhìn thấy các bảo tháp của các vị cao tăng quá cố, Các bảo tháp được xây bẳng gạch, có lối kiến trúc khác nhau do chúng được xây dựng qua các thời đại khác nhau. Bên cạnh đó, mỗi bảo tháp được xây dựng khác nhau tuỳ theo sự đắc đạo của các vị cao tăng quá cố.
Các tháp thế này là nét đặc trưng ở đền chùa Việt Nam.
2.6. Tham quan nhà tổ: Thắp hương,tham quan.
Hình 9: Nhà thờ Tổ
Hình 10: Gian thờ Tổ và tượng cố đại lão Hòa Thượng Kim Cương Tử
2.7. Nghỉ ngơi chụp ảnh: Du khách sẽ nghỉ ngơi tại khu vườn tháp.
Lời Kết
Người ta thường nói rằng: không có gì là hoàn hảo cả, bải thuyết trình của chúng tôi cũng vậy. Những thông tin chúng tôi đưa ra chắc chắn là chưa nói hết được bề dày lịch sử của hai ngôi chùa, nhưng đó là những thông tin cơ bản nhất. Mong quý khách sẽ hiểu thêm về văn hóa, con người, các giá trị truyền thống của người Việt.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32908.doc