ần phải áp dụng đa dạng các loại
nguồn pháp luật, đa dạng các phương thức
giải quyết tranh chấp, xung đột xã hội để kịp
thời giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra, bảo
vệ, bảo đảm một cách tốt nhất các quyền, lợi
ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức.
Trong số đó có án lệ, cả về thực tiễn và lý
luận đã khẳng định ý nghĩa, sự cần thiết của
án lệ. Vấn đề đa dạng các loại nguồn pháp
luật cũng đã được quan tâm trong nghiên
cứu lý luận và trong chính sách chính trị -
pháp luật9. Giải quyết các vấn đề pháp lý
trên cơ sở niềm tin nội tâm, đạo đức, lẽ phải,
các quyền tự nhiên của con người là một
trong những cách thức khắc phục “lỗ hổng
pháp luật” nhưng vẫn trên cơ sở tuân thủ các
nguyên tắc hiến định.
Giải thích pháp luật cũng là một trong
những cách thức góp phần khắc phục “lỗ
hổng pháp luật”. Bởi lẽ, việc nhận diện
không phải lúc nào, ở ai cũng đều hợp lý cả.
Giải thích Hiến pháp, giải thích pháp luật sẽ
khắc phục được vấn đề này để đảm bảo hiểu
chính xác, đầy đủ, toàn diện hơn về bản
chất, đặc điểm và ý nghĩa của các quy định,
nguyên tắc pháp luật.
Cách thứ ba, sử dụng các phương tiện
điều chỉnh xã hội, các thiết chế xã hội trong
việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn.
Cách thức này không chỉ đơn thuần là góp
phần khắc phục “lỗ hổng pháp luật”, mà
điều quan trọng hơn là vì bản thân các thiết
chế, các loại quy tắc xã hội có những ưu
điểm, thế mạnh riêng trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội, giải quyết các tranh
chấp, mâu thuẫn một cách có hiệu quả và
được xã hội chấp nhận.
Học thuyết pháp lý ở nhiều quốc gia
cũng được coi là một trong những cách
thức quan trọng để khắc phục các “lỗ hổng
pháp luật”
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về "lỗ hổng pháp luật", để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
BAÂN VÏÌ “LÖÎ HÖÍNG PHAÁP LUÊÅT”
Hoàng Thị Kim Quế*
* GS,TS. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: “lỗ hổng pháp luật”;
áp dụng pháp luật; điều chỉnh
pháp luật.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 23/01/2017
Biên tập: 28/02/2017
Duyệt bài: 03/03/2017
Article Infomation:
Keywords: legal gaps,
application of law, legal
regulations
Article History:
Received: 23 Jan. 2017
Edited: 28 Feb. 2017
Approved: 03 Mar. 2017
Tóm tắt:
Bài viết phân tích bản chất, các nguyên nhân của “lỗ hổng pháp luật”, mối
quan hệ giữa thực trạng của các “lỗ hổng pháp luật” với quan niệm pháp
luật, cách thức xây dựng pháp luật và tư duy pháp lý nói chung. Tác giả
đã đề cập những phương thức chủ yếu để khắc phục các “lỗ hổng pháp
luật”, đặc biệt là trong xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, đa dạng các
loại nguồn pháp luật, các thiết chế và các quy tắc giải quyết tranh chấp,
điều chỉnh quan hệ xã hội trên cơ sở tôn trọng, tuân thủ các nguyên tắc
hiến định và phù hợp đạo đức xã hội.
Abstract:
This article provides analysis the nature, the causes of legal gaps, the
relationship between the legal gaps in practices with the concept of law,
the legislation methods and legal thoughts in general. The author also
mentioned the fundamental methods to resolve the legal gaps, particularly
in the aspects of legislation, application of law, diversification of legal
sources, institutions and rules of dispute settlement and adjustment of
social relations based on respecting, adhering to the constitutional
principles and conforming to social ethics.
1 Xem, Nguyễn Minh Đức, “Khắc phục những xung đột và lỗ hổng trong pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.
Số 24/2009, tr. 38 – 43,
va-lo-hong-trong-phap-luat.
1. Khái niệm, căn cứ để xác định các “lỗ
hổng pháp luật”
Trong lý luận pháp luật, trên bình diện
chung nhất, khái niệm “lỗ hổng pháp luật”1
thể hiện tình trạng thiếu các quy định của
pháp luật so với thực tiễn cuộc sống, diễn
đạt rõ hơn là “lỗ hổng” trong pháp luật thực
định. Sở dĩ phải nhấn mạnh là “lỗ hổng
trong pháp luật thực định” bởi vì, tiếp cận
trên quan điểm hiện đại, phạm trù “pháp
luật” còn được hiểu theo nghĩa rộng lớn hơn,
không chỉ bao gồm các quy định, nguyên tắc
của pháp luật thực định do Nhà nước xây
dựng, ban hành mà còn là lẽ phải, là các
quyền tự nhiên của con người, là thực tiễn
áp dụng pháp luật, là các loại nguồn pháp
luật được thừa nhận. Trong bài viết, chúng
tôi chỉ giới hạn khái niệm “lỗ hổng pháp
luật” trong pháp luật thực định.
Theo quan niệm chung nhất, “lỗ hổng
4
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
2 Xem, “Lý luận nhà nước và pháp luật”, Perevalop V.Đ, Nxb. Norma, Mátxcơva 2005, tr. 244, Nherseian V.S. “Một
số vấn đề chung về lý luận pháp luật và nhà nước”, 2004, tr. 431 (bản tiếng Nga).
pháp luật” là sự thiếu vắng trong hệ thống
pháp luật hiện hành những quy phạm pháp
luật cụ thể, cần thiết để điều chỉnh các quan
hệ xã hội thực tế, các vụ việc cụ thể phát
sinh cần phải được giải quyết2. Nghĩa là
trạng thái có vấn đề mà thực tiễn đặt ra, có
sự việc thực tế cần được giải quyết song lại
không có quy phạm pháp luật tương ứng
điều chỉnh để làm căn cứ pháp lý giải quyết.
“Lỗ hổng pháp luật” là “sự thiếu
vắng” các quy định của pháp luật cần phải
có để điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhưng
mức độ của sự “thiếu vắng” trong các “lỗ
hổng pháp luật” đến đâu?
Diễn đạt một cách chính xác hơn, “lỗ
hổng pháp luật” chính là sự thiếu vắng toàn
bộ - hoàn toàn hay sự thiếu vắng một phần
các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc
pháp luật cần thiết mà xét một cách khách
quan cần phải có để điều chỉnh, đánh giá về
phương diện pháp lý các quan hệ xã hội, các
tranh chấp phát sinh hoặc có khả năng phát
sinh trong lĩnh vực quan hệ xã hội đã được
pháp luật điều chỉnh, hoặc cần phải được
điều chỉnh bằng pháp luật. Đó chính là bản
chất của các “lỗ hổng pháp luật”.
Theo một quan niệm hẹp hơn, “lỗ
hổng pháp luật” chỉ xuất hiện trong các lĩnh
vực quan hệ xã hội đã được pháp luật điều
chỉnh. Còn đối với những lĩnh vực mà cho
đến thời điểm hiện tại chưa có pháp luật điều
chỉnh thì đấy lại là “khoảng trống pháp
luật”. Như vậy, ở đây có sự phân định một
cách tương đối giữa “lỗ hổng pháp luật” và
“khoảng trống pháp luật”. Trong thực tiễn,
đôi khi hai khái niệm này cũng được coi là
tương đồng. Nhưng theo chúng tôi, khái
niệm “lỗ hổng pháp luật” không hoàn toàn
đồng nhất với khái niệm “khoảng trống pháp
luật”. Khoảng trống pháp luật cũng được
hiểu theo nhiều nghĩa, nhiều cấp độ nhất
định. Theo đó, sẽ có những khoảng trống
tạm thời và sẽ có những khoảng trống vĩnh
viễn, vô thời hạn. Đó là sự phân định, “phân
quyền” một cách tương đối về phạm vi điều
chỉnh, phạm vi tác động của pháp luật và
đạo đức, pháp luật và tập quán, lẽ phải... như
chúng ta đã biết.
2. Những nguyên nhân chủ yếu của “lỗ
hổng pháp luật”
Có nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan dẫn đến tình trạng hiện hữu các “lỗ
hổng pháp luật”. Cuộc sống vốn dĩ vô cùng
phong phú, đa dạng, phức tạp, các quan hệ,
các quá trình, hiện tượng xã hội luôn biến
động không ngừng, nhất là trong đời sống
xã hội hiện đại. Rất nhiều các quan hệ xã hội
mới nảy sinh cần được điều chỉnh bằng các
quy phạm pháp luật nhất định nhưng pháp
luật hiện hành không theo kịp, nhiều quy
phạm pháp luật lạc hậu so với thực tiễn cuộc
sống. Pháp luật, dù được hoàn thiện đến đâu
cũng không thể nào trù liệu hết được cho
mọi trường hợp sẽ xảy ra trong thực tiễn
cuộc sống. Trong hệ thống pháp luật các
quốc gia luôn có tình trạng thiếu vắng những
quy định của pháp luật cần thiết để trực tiếp
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong thực tiễn cuộc sống, chỉ khác nhau về
mức độ cũng như cách ứng xử đối với các
lỗ hổng pháp luật.
“Lỗ hổng pháp luật” xuất hiện trong
những trường hợp khi có sự xung đột những
lợi ích nhất định - các lợi ích của cá nhân
hay xã hội, do có sự chồng chéo, mâu thuẫn
thậm chí triệt tiêu lẫn nhau trong hệ thống
các văn bản, các quy phạm pháp luật.
“Lỗ hổng pháp luật” còn phụ thuộc
vào các yếu tố chủ quan, vào năng lực, trình
độ, kỹ thuật xây dựng pháp luật của nhà làm
luật3. Tình trạng còn nhiều “lỗ hổng pháp
luật” cũng thể hiện sự hạn chế, yếu kém của
hoạt động xây dựng pháp luật nói chung,
năng lực bao quát các quan hệ xã hội cần
được điều chỉnh bằng pháp luật của các nhà
làm luật nói riêng. “Lỗ hổng pháp luật” còn
do sự khiếm khuyết, hạn chế về kỹ thuật
pháp lý trong xây dựng pháp luật.
Quan niệm và cách thức ứng xử, xử lý
vấn đề “lỗ hổng pháp luật” như lâu nay ở ta
cũng là một trong những nguyên nhân cơ
bản của tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn,
thậm chí triệt tiêu lẫn nhau trong hệ thống
các văn bản pháp luật (VBPL). Quan niệm
vấn đề nào cũng phải có pháp luật điều
chỉnh, thiếu đâu thì bổ sung đấy, đụng đâu
cũng thấy thiếu các quy định của pháp luật
cụ thể tạo nên áp lực thường trực về xây
dựng, về tần suất sửa đổi, bổ sung, “cơi nới”
các quy định của pháp luật. Vẫn rất phổ biến
quan niệm, tư duy và nguyên tắc “phải có
quy định của pháp luật cụ thể, do Nhà nước
ban hành thì mới có căn cứ để giải quyết các
vấn đề pháp lý mà cuộc sống đặt ra”. Theo
đó, nhiều nguyên tắc và tinh thần pháp luật
trong nhiều trường hợp không được áp
dụng, chẳng hạn như nguyên tắc “Được làm
tất cả những gì pháp luật không cấm và
không trái đạo đức xã hội”. Nguyên tắc
thượng tôn pháp luật đôi khi bị hiểu lệch đi
là cái gì cũng phải có luật, tư duy cụ thể, tư
duy quy phạm, tư duy “đòi” quy định cụ thể
của pháp luật ở mọi nơi, mọi lúc. Không
những thế, điều này còn dẫn đến sự lãng phí
trong công đoạn soạn thảo và thực thi pháp
luật và lãng phí xã hội, cá nhân nói chung4.
Sở dĩ còn nhiều “lỗ hổng pháp luật”
cũng như sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa
các VBPL là do chúng ta chưa làm tốt công
đoạn xây dựng, phân tích chính sách; còn có
sự đồng nhất hai quá trình: xây dựng, phân
tích chính sách và soạn thảo VBPL. Đây có
thể coi là một trong những hạn chế lớn nhất
của quy trình lập pháp của nước ta hiện nay.
Khi trình dự án luật, cơ quan soạn thảo chưa
định hình chính sách rõ ràng - cơ sở vật chất
cho việc hình thành một dự án luật. Các đề
nghị xây dựng luật nhiều khi mới chỉ là cảm
tính, chưa đưa được cuộc sống vào luật5.
Trật tự thứ bậc về hiệu lực pháp lý của các
VBPL không được tôn trọng và thường
xuyên có sự vi phạm cũng góp phần gia tăng
các “lỗ hổng pháp luật”.
Ngoài ra, nguyên nhân tồn tại những
“lỗ hổng” trong hệ thống pháp luật còn có
thể do sự cố tình im lặng của các nhà làm
luật trong quá trình xây dựng luật6. “Lỗ
hổng pháp luật” cũng có thể xuất hiện trong
trường hợp có chủ đích của nhà làm luật
muốn dành sự linh hoạt, sáng tạo cho việc
áp dụng pháp luật sau khi ban hành VBPL
để phù hợp thực tiễn.
3. “Lỗ hổng pháp luật” phải chăng chỉ là
sự hạn chế, nhược điểm của pháp luật?
Một mặt, “lỗ hổng pháp luật” thể hiện
sự yếu kém, hạn chế của pháp luật, của hoạt
động xây dựng pháp luật. Về nguyên tắc,
càng ít “lỗ hổng pháp luật” thì càng tốt cho
việc giải quyết các vấn đề pháp lý trong
cuộc sống. Bởi lẽ, tình trạng có quá nhiều
“lỗ hổng pháp luật” dẫn đến nhiều tác hại
tiêu cực, nhiều hệ lụy như chúng ta đã biết.
Có nhiều “lỗ hổng pháp luật” còn tạo điều
kiện cho các hành vi vi phạm pháp luật diễn
ra một cách công khai, phổ biến trong nhiều
lĩnh vực. Đơn cử, các chuyên gia về quản lý
5
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Xem Nguyễn Minh Đức, “Khắc phục những xung đột và lỗ hổng trong pháp luật”, Tlđd.
4 Tham khảo, Hoàng Thị Kim Quế, “Tiết kiệm pháp luật và lãng phí pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 19,
tháng 10/2011.
5 Đinh Dũng Sỹ, “Chính sách và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật trong hoạt động lập pháp”, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 11, tháng 6/2008.
6 Morozova L.A, “Lý luận nhà nước và pháp luật”, Mátxcơva, 2005, tr. 290 (bản tiếng Nga).
mỹ phẩm đã cho rằng: hiện nay trên thị
trường có đến hơn 50% sản phẩm mỹ phẩm
đang bị làm giả, làm nhái, chừng nào mà
những “lỗ hổng” về mặt pháp lý vẫn không
được khắc phục thì việc chống mỹ phẩm giả,
kém chất lượng vẫn chỉ như “bắt cóc bỏ đĩa”
mà thôi7.
Nhưng, như một điều tất yếu, các “lỗ
hổng pháp luật” luôn luôn hiện hữu, ở mọi
quốc gia kể cả ở các quốc gia có trình độ cao
về luật pháp và điều hành xã hội, chỉ khác
nhau về mức độ, số lượng các “lỗ hổng pháp
luật” và cách quan niệm, cách ứng xử khi
gặp các “lỗ hổng pháp luật”, nhất là trong áp
dụng, thi hành pháp luật. Cách quan niệm,
cách xử lý, ứng xử về “lỗ hổng pháp luật”
còn phụ thuộc vào quan điểm quản lý, quyền
lực nhà nước trong mỗi quốc gia, giữa các
mô hình cai trị - quản lý xã hội.
Mặt khác, có thể thấy rằng, sự hiện
diện của các “lỗ hổng pháp luật” không phải
bao giờ cũng là bằng chứng của sự hạn chế,
khiếm khuyết của pháp luật. Đôi khi “lỗ
hổng pháp luật” lại là bằng chứng của sự
vận động, phát triển của pháp luật, cũng như
sự hoàn thiện của bản thân con người và xã
hội... đến một trình độ cao của văn minh,
văn hóa, không phải hết thảy mọi điều trong
cuộc sống đều cần có pháp luật điều chỉnh
hoặc cần các quy định thật cụ thể của pháp
luật. Bởi một lẽ đương nhiên, pháp luật
không thể và cũng không cần thiết phải điều
chỉnh hết thảy mọi vấn đề của cuộc sống.
Còn có nhiều phương thức điều chỉnh quan
hệ xã hội, giải quyết tranh chấp có hiệu quả
mà nhiều quốc gia đã và đang áp dụng miễn
là không trái với đạo đức xã hội và các
nguyên tắc hiến định. Dĩ nhiên, nhận thức
này không coi nhẹ nhiệm vụ của nhà làm
luật là cần phải kịp thời điều chỉnh và bổ
sung, cập nhật vào hệ thống pháp luật những
văn bản, quy định của pháp luật còn thiếu
để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
“Lỗ hổng pháp luật” còn được nhận
thức như một tất yếu khách quan và cũng là
lĩnh vực cho sự sáng tạo trong áp dụng pháp
luật của các chủ thể có thẩm quyền. Tính
sáng tạo vốn dĩ là một trong những đặc
trưng cơ bản của hoạt động áp dụng pháp
luật nói riêng, của bất kỳ một loại hình hoạt
động nào của con người nói chung.
“Lỗ hổng pháp luật” vừa là vấn đề
hạn chế, khiếm khuyết của hệ thống pháp
luật, vừa là hiện tượng bình thường, xảy ra
thường xuyên ở tất cả các quốc gia, chỉ khác
nhau về mức độ, phạm vi và cách thức giải
quyết, cách thức “ứng phó”, “đối mặt” và
chấp nhận “sống chung” với “lỗ hổng pháp
luật”. Điều này có rất nhiều điểm khác nhau
trong các hệ thống - truyền thống pháp luật,
nói rộng hơn là trong tư duy pháp lý của các
nền văn hóa pháp luật khác nhau: Civil Law,
Common Law, hệ thống pháp luật xã hội
chủ nghĩa v.v..
Khái niệm “sống chung” với “lỗ hổng
pháp luật” ở đây hoàn toàn không theo nghĩa
tiêu cực, thụ động, vô trách nhiệm đối với
việc đánh giá, giải quyết các vấn đề của cuộc
sống bởi đó là lợi ích vật chất hay tinh thần
của con người. Sống chung với “lỗ hổng
pháp luật” ở đây là một trạng thái tích cực
khi phải tìm đến và sử dụng các loại quy tắc
điều chỉnh hành vi, quan hệ xã hội khác
ngoài luật pháp của Nhà nước và bằng
những thiết chế phù hợp.
Nhìn rộng ra, không chỉ trong pháp
luật thực định của Nhà nước mới có “lỗ
hổng pháp luật”, mà ngay cả trong các loại
quy tắc xã hội khác như đạo đức, tập quán...
cũng có những “lỗ hổng”, những “khoảng
trống” như một tất yếu khách quan.
6
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7 Xem, BT. “Mỹ phẩm giả lợi dụng kẽ hở pháp luật để hoành hoành”
“Lỗ hổng pháp luật” còn liên quan và
thể hiện tư duy pháp lý - xã hội của một dân
tộc, quốc gia, văn hóa pháp luật của các cá
nhân. Trong một truyền thống văn hóa pháp
luật có hiện hữu lối tư duy “đòi luật”, cái gì
cũng muốn phải có cho bằng được các quy
định của pháp luật cụ thể thì chắc chắn sẽ
luôn luôn có các “lỗ hổng pháp luật”, nó có
ở khắp mọi nơi: trong hệ thống pháp luật,
trong các VBPL, trong các chế định pháp
luật, trong cả các quy phạm pháp luật nhất
định - trong giả định, quy định và chế tài.
Và, công việc “lấp, vá, bít” các “lỗ hổng
pháp luật” theo đó là điều đương nhiên,
nhưng cũng sẽ không bao giờ mới trám hết
được các “lỗ hổng pháp luật”...
Nếu quan niệm rộng, linh hoạt, mềm
dẻo về nguồn pháp luật, về cách thức giải
quyết các vấn đề xã hội, các tranh chấp,
xung đột thì nhìn nhận vấn đề “lỗ hổng pháp
luật” sẽ đơn giản hơn, cũng là vấn đề bình
thường, không quá bức xúc, nôn nóng muốn
phải vá, lấp ngay những “lỗ hổng pháp luật”
bằng vô số các quy định của pháp luật được
ban hành mới, nhiều khi theo kiểu giải pháp
tình thế.
Tại sao chúng ta luôn có tình trạng
như nhiều người dân và các doanh nghiệp
vẫn thường nhận xét: pháp luật của ta “vừa
thiếu lại vừa thừa”. “Thiếu” pháp luật được
biểu hiện trong khái niệm và cũng được coi
là hiện tượng “lỗ hổng pháp luật”. Còn
“thừa” pháp luật thì được biểu hiện trong
khái niệm và hiện tượng “lạm pháp pháp
luật”, với một khối lượng khổng lồ các
VBPL và còn rất nhiều mâu thuẫn, chồng
chéo? Giải mã và khắc phục tình trạng này
cần phải đặc biệt quan tâm hơn nữa cả về lý
luận và thực tiễn. Nhận thức về “lỗ hổng
pháp luật” cũng như cách thức khắc phục,
“lấp đầy”, “vá, vít” các “lỗ hổng pháp luật”
còn phụ thuộc vào chính tư duy pháp lý,
quan niệm về điều chỉnh, xây dựng, ban
hành pháp luật, về cách thức làm luật và
phân định thẩm quyền của các cơ quan trong
xây dựng pháp luật.
Nếu quan niệm: vấn đề nào, việc nào
cũng cần phải có quy định của pháp luật cụ
thể, vẫn cần có “sự chỉ đạo, điều hành bằng
VBPL cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước phải
thường xuyên, thường trực “đổi mới” trong
đó có công việc xây dựng, ban hành các quy
định của pháp luật, thiếu đâu bổ sung đấy thì
mọi lĩnh vực điều chỉnh pháp luật, mọi
VBPL đều có các “lỗ hổng pháp luật” và gần
như “bất tận”.
Một mặt, chúng ta cần khắc phục các
“lỗ hổng pháp luật” để kịp thời điều chỉnh,
giải quyết các vấn đề trong thực tiễn theo
những cách thức cơ bản, phù hợp với điều
kiện hiện tại. Mặt khác, đã đến lúc cần suy
ngẫm lại: quan niệm về “lỗ hổng pháp luật”
hay thiếu các quy định của pháp luật cụ thể.
Tình trạng còn nhiều “lỗ hổng pháp luật”
cũng không hẳn và không chỉ do trình độ,
năng lực xây dựng pháp luật của một số chủ
thể có thẩm quyền còn yếu mà còn do cách
chúng ta quan niệm về phạm vi quyền lực
điều hành xã hội, quản lý xã hội, quản lý con
người của Nhà nước.
4. Cách thức khắc phục “lỗ hổng pháp
luật”
Có nhiều cách thức khắc phục các “lỗ
hổng pháp luật”, tùy thuộc vào quan niệm,
triết lý pháp luật, triết lý quản lý, điều hành
nhà nước và phạm vi tác động của quyền lực
nhà nước...
Về cơ bản, có ba con đường, ba cách
thức chủ yếu là: thông qua hoạt động xây
dựng pháp luật; áp dụng pháp luật; điều
chỉnh các quan hệ xã hội, giải quyết các loại
tranh chấp, mâu thuẫn bằng nhiều thiết chế,
quy tắc xã hội.
Cách thứ nhất, xây dựng, ban hành
các quy định của pháp luật còn thiếu trên cơ
sở xem xét một cách khách quan, khoa học
chứ không phải bằng cảm nhận hay thói
quen. Để khắc phục những lỗ hổng trong
7
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
pháp luật, trước hết các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phải kịp thời xây dựng, ban
hành quy định của pháp luật còn thiếu trong
các lĩnh vực điều chỉnh, các VBPL tương
ứng, trong đó có công việc quan trọng là
“phải xác định được những quan hệ xã hội
nào cần phải có sự điều chỉnh của các quy
phạm pháp luật; phân tích từng VBPL để
xác định và làm rõ thực tế đang thiếu quy
phạm pháp luật....”8. Thay đổi tư duy, cách
thức xây dựng pháp luật, coi trọng công
đoạn xây dựng và phân tích chính sách trước
khi soạn thảo những quy định cụ thể.
Cách thứ hai, khắc phục “lỗ hổng
pháp luật” thông qua hoạt động áp dụng
pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền.
Chừng nào các chủ thể có thẩm quyền
áp dụng pháp luật chưa thật sự sử dụng hết
quyền và cũng là yêu cầu về “tính sáng tạo”
trong hoạt động đặc thù là áp dụng pháp luật
thì chừng đó các “lỗ hổng pháp luật” cũng
chưa được khắc phục. Một trong những giải
pháp cần áp dụng khi gặp trường hợp có “lỗ
hổng pháp luật” đó là nguyên tắc áp dụng
pháp luật tương tự với hai loại, hai cấp độ:
áp dụng tương tự pháp luật và áp dụng
tương tự quy phạm pháp luật. Lý thuyết về
hai loại hình thức này đã được xây dựng rất
rõ ràng, vấn đề còn lại là vận dụng trong
thực tiễn cũng còn nhiều khó khăn, phức
tạp. Trong mọi trường hợp, áp dụng pháp
luật tương tự hay áp dụng tương tự quy
phạm pháp luật đều phải đảm bảo những
nguyên tắc cơ bản như tôn trọng, tuân thủ
Hiến pháp, bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ
thể pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Cần phải áp dụng đa dạng các loại
nguồn pháp luật, đa dạng các phương thức
giải quyết tranh chấp, xung đột xã hội để kịp
thời giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra, bảo
vệ, bảo đảm một cách tốt nhất các quyền, lợi
ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức.
Trong số đó có án lệ, cả về thực tiễn và lý
luận đã khẳng định ý nghĩa, sự cần thiết của
án lệ. Vấn đề đa dạng các loại nguồn pháp
luật cũng đã được quan tâm trong nghiên
cứu lý luận và trong chính sách chính trị -
pháp luật9. Giải quyết các vấn đề pháp lý
trên cơ sở niềm tin nội tâm, đạo đức, lẽ phải,
các quyền tự nhiên của con người là một
trong những cách thức khắc phục “lỗ hổng
pháp luật” nhưng vẫn trên cơ sở tuân thủ các
nguyên tắc hiến định.
Giải thích pháp luật cũng là một trong
những cách thức góp phần khắc phục “lỗ
hổng pháp luật”. Bởi lẽ, việc nhận diện
không phải lúc nào, ở ai cũng đều hợp lý cả.
Giải thích Hiến pháp, giải thích pháp luật sẽ
khắc phục được vấn đề này để đảm bảo hiểu
chính xác, đầy đủ, toàn diện hơn về bản
chất, đặc điểm và ý nghĩa của các quy định,
nguyên tắc pháp luật.
Cách thứ ba, sử dụng các phương tiện
điều chỉnh xã hội, các thiết chế xã hội trong
việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn.
Cách thức này không chỉ đơn thuần là góp
phần khắc phục “lỗ hổng pháp luật”, mà
điều quan trọng hơn là vì bản thân các thiết
chế, các loại quy tắc xã hội có những ưu
điểm, thế mạnh riêng trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội, giải quyết các tranh
chấp, mâu thuẫn một cách có hiệu quả và
được xã hội chấp nhận.
Học thuyết pháp lý ở nhiều quốc gia
cũng được coi là một trong những cách
thức quan trọng để khắc phục các “lỗ hổng
pháp luật”
8
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Xem, Nguyễn Minh Đức, “Khắc phục những xung đột và lỗ hổng trong pháp luật”, Tlđd.
9 Xem, Cao Vũ Minh, Nguyễn Đức Nguyên Vỵ, “Đa dạng hóa hình thức pháp luật trong điều kiện Việt Nam hiện
nay”,
nay-297543.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_lo_hong_phap_luat.pdf