Ngoài sự lo ngại về việc quyết định
tuyên bố chết, tuyên bố mất tích đối với
người đang bị truy nã có thể ảnh hưởng đến
hoạt động truy nã, còn có ý kiến lo ngại
rằng quyết định tuyên bố chết của tòa án có
thể bị các đối tượng lợi dụng để tẩu tán tài
sản phạm tội mà có, gây khó khăn cho việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự: khi có quyết định tuyên bố chết thì
việc chia thừa kế sẽ được diễn ra, quyền sở
hữu tài sản từ người phạm tội được chuyển
cho những người thừa kế; và theo nguyên
tắc cá thể hóa trong pháp luật hình sự
những biện pháp có thể áp dụng với người
phạm tội không thể áp dụng đối với những
người thân thích của người bị phạm tội.
Theo khoản 3 Điều 73 BLDS 2015,
khi quyết định tuyên bố chết bị hủy bỏ (sau
khi cơ quan điều tra đã bắt được đối tượng
và ra quyết định đình nã) người phạm tội có
“quyền yêu cầu những người đã nhận tài
sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện
còn” [1]. Điểm c khoản 2 Điều 167 Luật thi
hành án hình sự năm 2010 quy định người
bị tố cáo có nghĩa vụ “khắc phục hậu quả
do hành vi trái pháp luật của mình gây ra”
[6]. Kết hợp 2 quy định này, có thể thấy
người phạm tội không chỉ có quyền mà còn
có nghĩa vụ yêu cầu người thừa kế phải trả
lại tài sản, và những tài sản này (sau khi
thuộc quyền sở hữu của người phạm tội) sẽ
chịu sự chi phối của Luật thi hành án hình
sự và bị sung vào công quỹ. Như vậy, quyết
định tuyên bố chết khó có thể bị lợi dụng
để tẩu tán tài sản phạm tội mà có như ý
kiến lo ngại vừa nêu.
Với những lí do trên, thiết nghĩ, để
cho việc áp dụng quy định pháp luật đối với
trường hợp được đề cập trong bài viết được
thống nhất và rõ ràng, bên cạnh những quy
định liên quan đã có trong BLDS 2015,
BLTTDS 2015, Luật Hộ tịch 2014,
BLTTHS 2015 và Luật thi hành án hình sự
năm 2010, vấn đề này cần được quy định
cụ thể trong một thông tư liên tịch giữa Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ
công an với nội dung khẳng định: Quyết
định của Tòa án tuyên bố mất tích, tuyên bố
chết đối với người đang bị truy nã không
ảnh hưởng đến hoạt động truy nã của cơ
quan điều tra.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về một chế định trong luật dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN
BÀN VỀ MỘT CHẾ ĐỊNH TRONG LUẬT DÂN SỰ
Vũ Hùng Đức*
Tóm tắt
Trong thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án gặp khó khăn trong giải quyết yêu cầu
tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với người đang bị truy nã. Trong bài viết này, tác giả phân
tích những quy định có liên quan, chỉ ra nguyên nhân và đề xuất hướng giải quyết vướng mắc
nói trên cho Tòa án.
Từ khóa: tuyên bố mất tích, tuyên bố chết, truy nã
1. Dẫn nhập
Trong thực tế, không phải lúc nào
chúng ta cũng xác định được một người
còn sống hay đã chết, như trường hợp họ
bỏ nhà đi biệt tích; chiến tranh, thiên tai đã
kết thúc một thời gian khá lâu nhưng không
tìm thấy thi thể, cũng không thấy họ trở
về Lúc này, sự vắng mặt lâu ngày của
người đó làm gián đoạn các quan hệ mà họ
đang tham gia, ảnh hưởng tới quyền và lợi
ích hợp pháp của những người có liên quan,
và tới quyền lợi của chính họ.
Để giải quyết tình trạng trên, pháp
luật dân sự đặt ra các chế định thông báo
tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú,
tuyên bố mất tích, tuyên bố chết được quy
định tập trung từ Điều 64 tới Điều 73, Mục
5, Chương III, Bộ luật dân sự năm 2015
(BLDS 2015). Dù đã có những quy định
như vậy nhưng khi người bị yêu cầu là đối
tượng đang bị truy nã, Tòa án đã lúng túng
trong việc áp dụng pháp luật vì đây là
trường hợp có liên quan đến hoạt động truy
nã của cơ quan điều tra.
Trong bài viết này, tác giả thông qua
một vài vụ việc trong thực tiễn giải quyết
của Tòa án để phân tích những quy định
pháp luật có liên quan đến vấn đề tuyên bố
mất tích, tuyên bố chết đối với người đang
bị truy nã; từ đó chỉ ra hạn chế của pháp
____________________________
* CN, Trường Đại học An ninh nhân dân
luật hiện hành, khó khăn của Tòa án và đề
xuất hướng giải quyết.
2. Thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu
tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với
người đang bị truy nã của Tòa án
Trong thực tiễn giải quyết đơn yêu
cầu, Tòa án đã ra nhiều quyết định tuyên bố
một người mất tích, hoặc đã chết. Tuy
nhiên, khi nhận được đơn yêu cầu tuyên bố
mất tích, tuyên bố chết đối với người đang
bị truy nã thì Tòa án lại có sự lúng túng, và
rốt cuộc là trả lại yêu cầu, từ chối thụ lý.
Trường hợp bà M gặp là một ví dụ.
[10] Theo bà M, trước đây chồng bà cùng
một số người khác thực hiện nhiều vụ cướp
giật tài sản, bị công an truy bắt. Sợ phải vào
tù, chồng bà đã gom toàn bộ tài sản quý giá
trong nhà rồi bỏ đi biệt tăm. Không muốn
kéo dài thêm cảnh chờ đợi, bà M muốn ly
hôn với người chồng này. Tuy nhiên, sau
khi nhận và nghiên cứu đơn yêu cầu tuyên
bố mất tích đối với ông chồng của bà M,
Tòa án nhân dân Quận X (Thành phố Hồ
Chí Minh) đã trả lại đơn, từ chối thụ lý với
lý do chồng bà thuộc trường hợp trốn hoạt
động truy bắt của công an chứ không phải
là trường hợp mất tích thông thường được
quy định tại Khoản 1 Điều 68 BLDS 2015.
Một trường hợp khác vào năm 2008,
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố
mất tích đối với vợ anh Đ, ngay trước ngày
mở phiên họp, Tòa án nhận được quyết
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 57
định truy nã vợ anh Đ (có từ hai năm trước)
của công an tỉnh. Do đó, Tòa án đã đình chỉ
giải quyết yêu cầu của anh Đ [10].
Trong cả hai vụ việc trên, lí do Tòa
án trả lại đơn đều liên quan tới việc người
bị yêu cầu đang là đối tượng bị truy nã, và
trường hợp này không được coi là mất tích
thông thường. Thực tiễn này gợi lên hai vấn
đề: Một là, quyết định tuyên bố người đang
bị truy nã mất tích, hoặc tuyên bố người đó
là đã chết của Tòa án có ảnh hưởng tới hoạt
động truy nã của cơ quan điều tra không?
Hai là, nếu có ảnh hưởng thì sự ảnh hưởng
này có được coi là căn cứ để Tòa án từ chối
thụ lý đơn hay không?
Xoay quanh hai câu hỏi này có ba
hướng trả lời khác nhau:
Hướng thứ nhất, xuất phát từ quan
điểm quyết định tuyên bố mất tích (hoặc
tuyên bố chết) không ảnh hưởng đến hoạt
động truy nã, cho rằng: Tòa án không được
quyền từ chối yêu cầu tuyên bố mất tích
(hoặc tuyên bố chết) đối với người đang bị
truy nã [11].
Hướng thứ hai, xuất phát từ quan
điểm quyết định tuyên bố mất tích (hoặc
tuyên bố chết) sẽ làm dừng hoạt động truy
nã, cho rằng: Tòa án phải từ chối yêu cầu
tuyên bố mất tích (hoặc tuyên bố chết) đối
với người đang bị truy nã (như thẩm phán
trong vụ việc của bà M và anh Đ đã nêu).
Hướng thứ ba, cũng xuất phát từ quan
điểm quyết định tuyên bố mất tích (hoặc
tuyên bố chết) sẽ làm dừng hoạt động truy
nã, nhưng cho rằng: Tòa án không được
quyền từ chối yêu cầu tuyên bố mất tích
(hoặc tuyên bố chết) đối với người đang bị
truy nã (Theo Thẩm phán Trương Công
Huấn, Tòa án nhân dân Quận 11, Thành
phố Hồ Chí Minh, Điều 78 BLDS 2005 về
Tuyên bố một người là mất tích không hề
phân biệt người bị tuyên bố mất tích đã biệt
tích vì lý do gì nên không loại trừ trường
hợp biệt tích do trốn lệnh truy nã, do đó
Tòa án không được từ chối giải quyết yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan)
[10].
3. Quy định pháp luật hiện hành liên
quan giải quyết yêu cầu tuyên bố mất
tích, tuyên bố chết đối với người đang bị
truy nã
Căn cứ từ chối Đơn yêu cầu tuyên
bố mất tích, Đơn yêu cầu tuyên bố chết
đối với người đang bị truy nã trong pháp
luật về tố tụng dân sự
Trước đây, quy định về việc từ chối
đơn yêu cầu tuyên bố mất tích, đơn yêu cầu
tuyên bố chết trong pháp luật tố tụng dân sự
hiện hành được thể hiện rõ tại Khoản 2
Điều 332 và Khoản 1 Điều 337 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung
năm 2011 (BLTTDS 2011): Tòa án có thể
chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu
cầu tuyên bố mất tích, đơn yêu cầu tuyên
bố chết [2]. Hiện nay, dù 2 điều luật tương
ứng trong BLTTDS 2015 là Điều 389 và
Điều 393 không còn giữ lại quy định này
nhưng về mặt nguyên tắc, đơn yêu cầu
tuyên bố mất tích, đơn yêu cầu tuyên bố
chết cũng có thể bị từ chối như các đơn yêu
cầu khác, và khi Tòa án không chấp nhận
đơn, đơn sẽ được trả lại cho đương sự.
Theo Điều 361 BLTTDS 2015,
những quy định liên quan tới trả lại đơn
khởi kiện tại Điều 192 và Điều 193
BLTTDS 2015 cũng có thể là căn cứ áp
dụng cho việc trả lại đơn yêu cầu.
Những quy định của Phần này được
áp dụng để giải quyết việc dân sự quy định
tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và 10
Điều 27, các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10
và 11 Điều 29, các khoản 1, 2, 3 và 6 Điều
31, các khoản 1, 2 và 5 Điều 33 của Bộ luật
này. Trường hợp Phần này không quy định
thì áp dụng những quy định khác của Bộ
luật này để giải quyết việc dân sự [3].
58 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN
Trong các căn cứ được liệt kê ở
những điều luật vừa nêu, không có căn cứ
nào đề cập tới trường hợp người bị yêu cầu
tuyên bố mất tích hoặc là đã chết là đối
tượng đang bị truy nã, và cũng không tìm
thấy căn cứ nào có thể áp dụng đối với
trường hợp này.
Như vậy, có thể khẳng định: theo
pháp luật tố tụng dân sự hiện hành (cụ thể
là BLTTDS 2015), không có căn cứ cụ thể
để từ chối yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc
tuyên bố chết đối với người đang bị truy nã.
Quy định về căn cứ đình nã đối với
người đã bị tuyên bố mất tích, tuyên bố
chết trong pháp luật về tố tụng hình sự
Khi một người bỏ đi hoặc vì một lí do
nào đó mà không ai rõ người đó đang ở đâu
thì người có quyền, lợi ích liên quan được
quyền yêu cầu Tòa án tiến hành thủ tục
thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi
cư trú.
Trong trường hợp người này là bị
can, bị cáo, người bị kết án phạt tù đang tại
ngoại mà bỏ trốn thì theo những quy định
tại Điểm a Khoản 3 Điều 60, Điểm b
Khoản 1 Điều 247, Điểm a Khoản 3 Điều
61, Khoản 1 Điều 290 và Khoản 3 Điều
364 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
(BLTTHS 2015), cơ quan điều tra có trách
nhiệm ra quyết định truy nã để tiến hành
việc tìm kiếm đối tượng. BLTTHS không
đưa ra định nghĩa về người bị truy nã,
nhưng thông qua những quy định trên, có
thể hiểu người bị truy nã là người bị cơ
quan điều tra ra quyết định truy nã.
Khi nào hoạt động tìm kiếm này sẽ
chấm dứt? Hay nói cách khác, trong những
trường hợp nào cơ quan điều tra phải ra
quyết định đình nã?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 114
BLTTHS 2015, “Sau khi nhận người bị
bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải
ra ngay quyết định đình nã” [4]. Căn cứ
này cũng được ghi nhận tại Khoản 2 Điều
12 Thông tư liên tịch số 13/2012/TTLT-
BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC [8] và
thể hiện trong Mẫu số 31a QĐ sửa đổi theo
Thông tư số 22/2014/TT-BCA [9].
Trường hợp người đang bị truy nã
trong quá trình bỏ trốn phạm tội mới và bị
bắt giữ thì Cơ quan điều tra đã ra quyết
định truy nã sẽ ra quyết định đình nã và
phối hợp điều tra với Cơ quan điều tra thụ
lý vụ án mới theo Khoản 1 Điều 11 Thông
tư liên tịch số 13/2012/TTLT-BCA-BTP-
VKSNDTC-TANDTC [8].
Ngoài các căn cứ trên, đối tượng bị
truy nã chết cũng là một căn cứ làm chấm
dứt hoạt động truy nã, thông qua thủ tục
đình chỉ điều tra. Theo khoản 7 Điều 157
BLTTHS 2015, khi người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã chết thì không
được khởi tố vụ án hình sự (trừ trường hợp
cần tái thẩm đối với người khác) [4], và đây
cũng là căn cứ để Cơ quan điều tra ra quyết
định đình chỉ điều tra theo Điểm a Khoản 1
Điều 230 BLTTHS 2015. Khi đó hoạt động
truy nã sẽ chấm dứt khi quyết định này có
hiệu lực.
Khi một người biệt tích, việc tìm
kiếm người đó có thể được thực hiện bởi
người có quyền lợi liên quan theo thủ tục tố
tụng dân sự, có thể bởi cơ quan điều tra
theo thủ tục tố tụng hình sự, hoặc có thể bởi
đồng thời cả hai chủ thể này. Vấn đề là, khi
việc tìm kiếm theo thủ tục tố tụng dân sự
chấm dứt (khi Tòa án ra quyết định tuyên
bố mất tích, tuyên bố chết) thì hoạt động
tìm kiếm của cơ quan điều tra (truy nã) có
chấm dứt theo hay không?
Trong các văn bản pháp luật tố tụng
hình sự về truy nã nêu ở trên, chúng ta
không thấy đề cập đến những trường hợp
“tuyên bố mất tích”, “tuyên bố chết”. Do
đó, nếu chỉ căn cứ vào pháp luật về tố tụng
hình sự, có thể khẳng định: Quyết định
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 59
tuyên bố người bị truy nã mất tích (hoặc là
đã chết) của Tòa án không phải là căn cứ để
cơ quan điều tra ra quyết định đình nã.
Quyết định của một cơ quan tố tụng dân sự
không ảnh hưởng gì đến hoạt động của một
cơ quan tố tụng hình sự. Vì vậy, Tòa án vẫn
ra quyết định theo yêu cầu của đương sự,
và cơ quan điều tra vẫn tiếp tục tiến hành
hoạt động truy nã. Đây cũng là ý kiến của
hầu hết điều tra viên và giáo viên giảng dạy
môn Luật tố tụng hình sự.
Biến động về hộ tịch khi có Quyết
định tuyên bố mất tích, Quyết định tuyên
bố chết
Khi có đơn yêu cầu và đơn yêu cầu
thỏa mãn các điều kiện BLTTDS quy định,
Tòa án sẽ phải ra quyết định tuyên bố mất
tích hoặc tuyên bố chết đối với người bị
yêu cầu. Quyết định này sẽ tạo ra những hệ
quả pháp lý tác động đến các quan hệ nhân
thân và quan hệ tài sản của người bị tuyên
bố. Những thay đổi này là khác nhau giữa
trường hợp tuyên bố mất tích (Điều 69
BLDS 2015) với trường hợp tuyên bố chết
(Điều 72 BLDS 2015). Ngoài những hệ quả
pháp lý khác nhau trong lĩnh vực dân sự,
Quyết định tuyên bố mất tích và Quyết định
tuyên bố chết cũng tạo ra những hệ quả
pháp lý khác nhau về hộ tịch của người bị
tuyên bố.
Trước đây Quyết định tuyên bố chết
của Tòa án có giá trị thay thế cho Giấy báo
tử và là cơ sở để Ủy ban nhân dân cấp xã
cấp Giấy chứng tử đối với người đó theo
quy định tại các Điều 21, 22 và 24 Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP [7]. Như vậy,
Quyết định tuyên bố chết sẽ tạo ra những
thay đổi trong hộ tịch của người bị tuyên bố
tương tự như trường hợp người đó chết.
Kết hợp với những quy định liên quan đến
vấn đề này trong pháp luật tố tụng dân sự
và pháp luật tố tụng hình sự vừa trình bày ở
trên, chúng tôi có thể khẳng định: Quyết
định tuyên bố chết đối với người đang bị
truy nã của Tòa án có thể dẫn tới việc Cơ
quan điều tra phải ra quyết định đình nã.
Đối với trường hợp bị tuyên bố mất
tích, Nghị định 158 không đề cập nên
chúng ta không rõ đơn yêu cầu tuyên bố
mất tích đối với người đang bị truy nã nên
được giải quyết theo hướng nào mới đúng
quy định pháp luật.
Hiện nay, Luật Hộ tịch năm 2014 đã
thay thế Nghị định 158 và có những thay
đổi nhất định góp phần giải quyết những
vướng mắc trên: trường hợp khai tử được
quy định tại Khoản 1 Điều 3, trong khi
trường hợp bị tuyên bố mất tích, bị tuyên
bố là đã chết được quy định tại Khoản 2
Điều 3 [5]. Theo quy định này, chúng ta sẽ
không tiến hành thủ tục khai tử đối với
trường hợp bị tuyên bố chết như trước đây
mà chỉ ghi nhận biến động về hộ tịch, và
trường hợp tuyên bố mất tích cũng đã được
quy định chứ không bị „lờ đi‟ như trước
đây. Do đó Quyết định tuyên bố chết cũng
như Quyết định tuyên bố mất tích đối với
người đang bị truy nã của Tòa án tạo nên
những biến động về hộ tịch nhưng không
ảnh hưởng tới hoạt động truy nã của Cơ
quan điều tra.
4. Khó khăn của Tòa án và hướng khắc
phục
Hạn chế của pháp luật trước đây
Như đã phân tích ở phần 3., trong
thời gian áp dụng BLDS 2005, Nghị định
158 và BLTTHS 2003 (2011), có thể khẳng
định: Quyết định tuyên bố chết đối với
người đang bị truy nã thông qua Giấy
chứng tử và Quyết định đình chỉ điều tra sẽ
làm phát sinh căn cứ đình nã đối với người
này. Điều này dẫn tới một hệ quả nguy
hiểm là người thân của đối tượng đang bị
truy nã có thể lợi dụng quy định về tuyên
bố chết để ngăn cản hoạt động truy nã của
cơ quan điều tra. Chúng ta có thể phần nào
60 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN
thấy được khó khăn của Tòa án khi nhận
được thông báo của cơ quan công an về
việc người bị yêu cầu tuyên bố chết là đối
tượng đang bị truy nã, bởi quyết định của
Tòa án có thể gây ra khó khăn cho hoạt
động điều tra. Khi gặp phải tình huống này,
các Tòa án đều chọn giải pháp từ chối thụ
lý đơn yêu cầu dù có thể họ biết việc từ
chối là không có căn cứ pháp lý rõ ràng.
Đối với trường hợp tuyên bố mất tích,
hệ quả tương tự không xảy ra vì Quyết định
tuyên bố mất tích không thể tạo ra biến
động về hộ tịch, cũng không tạo ra căn cứ
tạm đình chỉ hay đình chỉ điều tra như
Quyết định tuyên bố chết. Do đó, khi Tòa
án ra Quyết định tuyên bố mất tích đối với
người đang bị truy nã, cơ quan điều tra vẫn
được tiếp tục tiến hành hoạt động truy nã
đối tượng. Tuy nhiên, vì sự không rõ ràng
của pháp luật và với tâm lý „nhầm còn hơn
bỏ sót‟ để tránh ảnh hưởng đến hoạt động
truy nã nên trong thực tiễn, Tòa án từ chối
cả yêu cầu tuyên bố mất tích đối với người
đang bị truy nã.
Việc Tòa án từ chối đơn yêu cầu sẽ
không làm gián đoạn hoạt động truy nã của
cơ quan điều tra, đảm bảo nguyên tắc „hình
hoãn hộ‟, tức là khi có sự giao thoa giữa
quan hệ pháp luật hình sự với quan hệ pháp
luật dân sự thì việc giải quyết vấn đề phát
sinh trong quan hệ pháp luật dân sự sẽ phải
hoãn lại để ưu tiên cho việc giải quyết vấn
đề phát sinh từ quan hệ pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, việc từ chối đơn yêu cầu mà
không có căn cứ rõ ràng như vậy không
phải là một giải pháp được khuyến khích vì
nó không đảm bảo được quyền lợi của
người yêu cầu, trái với quy định về công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tại Điều
2 BLDS 2015, đi ngược với nguyên tắc cơ
quan nhà nước khi từ chối yêu cầu của
người dân phải có căn cứ rõ ràng do pháp
luật quy định, chứ không thể là một căn cứ
mang tính chủ quan.
Khó khăn trên xuất phát từ sự không
tách bạch trường hợp „chết pháp lý‟ với
trường hợp „chết tự nhiên‟ trong các tất cả
các văn bản pháp luật có liên quan, và hạn
chế này đã đặt Tòa án vào tình huống phải
lựa chọn khi nhận được đơn yêu cầu tuyên
bố mất tích, tuyên bố chết đối với người
đang bị truy nã mà lựa chọn theo hướng
nào cũng không thể đồng thời thỏa mãn hai
nguyên tắc vừa nêu.
Hạn chế của pháp luật hiện hành
So với BLDS 2005, chế định tuyên
bố mất tích, tuyên bố chết trong BLDS
2015 không có nhiều thay đổi. Thay đổi
đáng chú ý liên quan đến phạm vi bài viết
này là BLDS 2015 đã bổ sung thêm quy
định tại khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 70,
khoản 3 Điều 71 và khoản 5 Điều 73 với
nội dung: quyết định tuyên bố mất tích,
tuyên bố chết hay quyết định hủy bỏ các
quyết định trên của Tòa án phải được gửi
cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối
cùng của người bị tuyên bố để ghi chú theo
quy định của pháp luật về hộ tịch [1]. Tuy
nhiên, sự thay đổi này chưa thể giải quyết
được khó khăn của Tòa án.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự,
BLTTHS 2015 hiện nay cũng như
BLTTHS 2003 trước đây chưa từng một lần
đề cập đến trường hợp „bị tuyên bố mất
tích‟, „bị tuyên bố chết‟, nghĩa là những
trường hợp liên quan đến „tuyên bố mất
tích, tuyên bố chết‟ vẫn là một khoảng
trống trong pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành.
Trong văn bản về hộ tịch, những thay
đổi của Luật Hộ tịch năm 2014 đã góp phần
giải quyết được vướng mắc nói trên. Tuy
nhiên, kết luận quyết định tuyên bố chết
của Tòa án không ảnh hưởng đến hoạt
động truy nã của cơ quan điều tra chỉ
được rút ra trên cơ sở kết hợp các quy định
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 61
trong Luật hộ tịch với các quy định khác có
liên quan trong pháp luật về dân sự, pháp
luật về tố tụng dân sự, pháp luật về hộ tịch
và pháp luật về tố tụng hình sự. Do đó, cho
tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có quy định
nào trực tiếp khẳng định mối liên hệ giữa
quyết định tuyên bố mất tích, tuyên bố
chết đối với người đang bị truy nã với
hoạt động truy nã.
Thông thường, cán bộ điều tra chỉ tập
trung vào các văn bản pháp luật về tố tụng
hình sự, thành viên hội đồng xét xử vụ việc
dân sự cũng tập trung vào các văn bản pháp
luật về dân sự và tố tụng dân sự; trong khi
đó, để giải quyết vấn đề đang được đề cập
cần sự kết hợp quy định trong những văn
bản thuộc các lĩnh vực pháp lý trên và cả
văn bản pháp luật về hộ tịch. Do đó, trong
thực tiễn áp dụng pháp luật, Tòa án vẫn từ
chối thụ lý và trả lại đơn yêu cầu tuyên bố
mất tích, tuyên bố chết khi biết người bị
yêu cầu là đối tượng đang bị truy nã.
Ngoài sự lo ngại về việc quyết định
tuyên bố chết, tuyên bố mất tích đối với
người đang bị truy nã có thể ảnh hưởng đến
hoạt động truy nã, còn có ý kiến lo ngại
rằng quyết định tuyên bố chết của tòa án có
thể bị các đối tượng lợi dụng để tẩu tán tài
sản phạm tội mà có, gây khó khăn cho việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự: khi có quyết định tuyên bố chết thì
việc chia thừa kế sẽ được diễn ra, quyền sở
hữu tài sản từ người phạm tội được chuyển
cho những người thừa kế; và theo nguyên
tắc cá thể hóa trong pháp luật hình sự
những biện pháp có thể áp dụng với người
phạm tội không thể áp dụng đối với những
người thân thích của người bị phạm tội.
Theo khoản 3 Điều 73 BLDS 2015,
khi quyết định tuyên bố chết bị hủy bỏ (sau
khi cơ quan điều tra đã bắt được đối tượng
và ra quyết định đình nã) người phạm tội có
“quyền yêu cầu những người đã nhận tài
sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện
còn” [1]. Điểm c khoản 2 Điều 167 Luật thi
hành án hình sự năm 2010 quy định người
bị tố cáo có nghĩa vụ “khắc phục hậu quả
do hành vi trái pháp luật của mình gây ra”
[6]. Kết hợp 2 quy định này, có thể thấy
người phạm tội không chỉ có quyền mà còn
có nghĩa vụ yêu cầu người thừa kế phải trả
lại tài sản, và những tài sản này (sau khi
thuộc quyền sở hữu của người phạm tội) sẽ
chịu sự chi phối của Luật thi hành án hình
sự và bị sung vào công quỹ. Như vậy, quyết
định tuyên bố chết khó có thể bị lợi dụng
để tẩu tán tài sản phạm tội mà có như ý
kiến lo ngại vừa nêu.
Với những lí do trên, thiết nghĩ, để
cho việc áp dụng quy định pháp luật đối với
trường hợp được đề cập trong bài viết được
thống nhất và rõ ràng, bên cạnh những quy
định liên quan đã có trong BLDS 2015,
BLTTDS 2015, Luật Hộ tịch 2014,
BLTTHS 2015 và Luật thi hành án hình sự
năm 2010, vấn đề này cần được quy định
cụ thể trong một thông tư liên tịch giữa Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ
công an với nội dung khẳng định: Quyết
định của Tòa án tuyên bố mất tích, tuyên bố
chết đối với người đang bị truy nã không
ảnh hưởng đến hoạt động truy nã của cơ
quan điều tra.
Trên đây là một số ý kiến cá nhân về
vấn đề tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối
với người đang bị truy nã
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật dân sự năm 2015.
[2] Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
62 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN
[3] Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[4] Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[5] Luật hộ tịch năm 2014.
[6] Luật thi hành án hình sự năm 2010.
[7] Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về Đăng ký và quản
lý hộ tịch.
[8] Thông tư liên tịch số 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày
09/10/2012 Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật
thi hành án hình sự về truy nã.
[9] Thông tư số 22/2014/TT-BCA ngày 03/6/2014 sửa đổi, bổ sung biểu mẫu về truy nã,
đình nã ban hành kèm theo Quyết định số 789/2007/QĐ-BCA(C11) ngày 12/7/2007
của Bộ trưởng Bộ Công an để sử dụng trong hoạt động tố tụng hình sự và thi hành án
hình sự của lực lượng Công an nhân dân.
[10] Hoàng Yến, Bị truy nã nên không thể xác định mất tích, xem
227788.html, truy cập lúc 21h34‟ ngày 24/4/2017.
[11] Vũ Thị Trang Nhung, Có được tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với người đang bị
truy nã,
mat-tich-tuyen-bo-chet-doi-voi-nguoi-dang-bi-truy-na-khong-n1237.htm , truy cập
ngày 18/02/2017.
Abstract
Thinking about an institution in the Civil Laws
In reality of resolving civil cases, the courts meet difficulties in resolving the requests
to declare missing, or death to the wanted person. In this article, the author analyzes the
involving provisions, points out the reasons and suggests the solutions to the above-
mentioned problems for the courts.
Keywords: declaration of missing, declaration of death, wanted
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_mot_che_dinh_trong_luat_dan_su.pdf