- Kế toán thuê tài chính theo hợp
đồng hợp tác: khi tiến hành thực hiện
hợp đồng này, các bên cần quan tâm
đến việc thuê tài chính hay thuê hoạt
động theo chuẩn mực Việt Nam vì hai
phạm trù này có sự khác biệt nhất định
(Nailor & Lennard, 2000) [11]. Tuy
nhiên theo quốc tế hướng dẫn, hầu hết
trong mọi trường hợp thì hợp đồng PPP
sẽ được xem là một dạng thuê tài chính.
Nếu chuyển giao rủi ro cho bên tư nhân
có sự giới hạn, chính phủ có thể cần
được xem là người chủ sở hữu của tài
sản hình thành theo PPP và tài sản này
chính là thuê tài chính. Đây chính là
cách tiếp cận theo hướng dẫn kế toán
của Anh và Úc. Nó yêu cầu kế toán cần
phải phán đoán về quyền sở hữu tài sản
PPP dựa trên việc phân chia rủi ro và
lợi ích giữa các bên.
11 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về một số vấn đề cơ bản của kế toán trong hợp đồng hợp tác công tư trong đầu tư tư nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
134
BÀN VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA KẾ TOÁN
TRONG HỢP ĐỒNG HỢP TÁC CÔNG TƯ TRONG ĐẦU TƯ TƯ NHÂN
Phạm Quang Huy1
TÓM TẮT
Chưa có bất kỳ nhà nước nào, chính phủ nào hay địa phương nào có thể đảm
nhiệm tất cả các khoản phát sinh cho hệ thống cơ sở hạ tầng bởi nguồn lực ngân
sách luôn có giới hạn, nhưng cũng không nhà đầu tư tư nhân nào có thể làm được
việc này vì đây là lĩnh vực có hiệu quả kinh tế thấp và nhiều rủi ro đến như thế. Để
bàn về nâng cao giá trị của đầu tư tư nhân vừa mong đem lại lợi ích cho ngân sách
quốc gia thì mô hình hợp tác công tư chính là một chìa khóa để giải quyết cho vấn đề
này. Mục tiêu chính của bài viết là giới thiệu một bức tranh chung về nội dung, đặc
điểm, ưu điểm và hạn chế của quan hệ đối tác công tư (Public-Private Partnership -
PPPs), qua đó tiếp cận nội dung hợp tác này theo một số vấn đề trong kế toán cần có
sự quan tâm khi đầu tư về sau. Kết quả chính của nghiên cứu này là cung cấp được
những nét chính cần hiểu biết về PPP trong mối quan hệ về 3 nhóm kế toán trong
hợp tác.
Từ khóa: PPP, hợp tác công tư, đầu tư tư nhân, khu vực tư, khu vực công
1. Giới thiệu
Nhằm thúc đẩy sự phát triển tổng
thể các thành phần của nền kinh tế thì
hợp tác công tư (gọi tắt là PPP) được
xem là một công cụ hiện đại để có thể
đem lại hiệu ứng tốt cho thị trường, cho
quốc gia cũng như những tỉnh thành cụ
thể. Cả khu vực tư và khu vực công sẽ
đạt được những lợi ích riêng theo mong
đợi của mỗi bên (Hodge, 2004) [1]. Có
thể khẳng định rằng, hợp tác công tư
giúp cho địa phương hay các nước sẽ
đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội của
mình với dự án hoàn thành. Việc hợp
tác này không phải là một vấn đề mới,
tuy nhiên hầu hết các tiếp cận chủ yếu
về phương diện kinh tế, đầu tư hay quản
trị mà chưa nhiều các nghiên cứu về
những yếu tố thuộc khía cạnh kế toán.
Từ đó bài viết nhằm giới thiệu những
vấn đề cơ bản nhất cần quan tâm khi
phát sinh hợp đồng PPP của một quốc
gia hay một địa phương cụ thể.
2. Hình thức đối tác công tư
2.1. Tổng quan về PPP
Theo định hướng của quốc tế thì
đầu tư của tư nhân có một hình thức khá
phổ biến trong giai đoạn hiện nay chính
là hình thức đối tác công tư (gọi tắt là
PPP). Hình thức này là một mối quan
hệ trung và dài hạn giữa khu vực công
với các đối tác khác nhau trong nền
kinh tế và kể cả những tổ chức tình
nguyện trên thế giới (Jane & Richard,
2003) [2]. Bên cạnh đó, theo Ngân hàng
phát triển châu Á (ADB, 2017) thì cho
rằng thuật ngữ “mối quan hệ đối tác nhà
nước - tư nhân” biểu hiện một hệ thống
1Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Email: pquanghuy@ueh.edu.vn
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
135
gồm nhiều mối quan hệ có thể có giữa
các đơn vị thuộc nhà nước và các tổ
chức tư nhân liên quan đến lĩnh vực
thuộc về cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực
dịch vụ khác. Hợp đồng PPP thể hiện
một khuôn khổ có sự tham gia của khu
vực tư nhưng vẫn ghi nhận và thiết lập
vai trò quan trọng của chính phủ hướng
đến việc bảo đảm đáp ứng các trách
nhiệm xã hội cũng như đạt được sự
thành công trong cải cách của khu vực
nhà nước và đầu tư công. Còn đối với
Ngân hàng thế giới (WB, 2012) thì hợp
đồng hợp tác công tư được hiểu là loại
hợp đồng giữa khu vực công và đối tác
tư nhân trong việc cung cấp các sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà theo cách
thức truyền thống thì đó chính là thuộc
về trách nhiệm của đơn vị trong khu
vực công. Loại hợp đồng này sẽ có 5
đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thỏa thuận có tính hợp đồng và
thường sẽ mang tính chất dài hạn.
- Tạo ra sự khuyến khích giúp nâng
cao hiệu quả của sản phẩm cuối cùng
cung cấp.
- Chia sẻ rủi ro liên quan đến nhu
cầu, vận hành, đầu tư hay sự tài trợ.
- Chia sẻ lợi ích giữa các bên
tham gia.
- Chia sẻ thẩm quyền ra quyết định
khi đối diện với các vấn đề quan trọng.
Như vậy, có thể khẳng định qua các
khái niệm trên thì quan hệ hợp tác theo
dạng PPP này chính là sự chia sẻ và
chuyển giao rủi ro, phần thưởng giữa
khu vực công và khu vực tư. Kết quả
của quá trình là việc đạt được tối đa hóa
giá trị giữa hai nhóm, thiết lập một cấu
trúc hợp lý về tài chính, phân phối kết
quả như đã mong đợi với lợi ích cho
công chúng được tốt nhất. Tại Việt
Nam, trước đây, theo Nghị định
15/2015/NĐ-CP ban hành ngày 14-02-
2015 thì đầu tư theo hình thức đối tác
công tư là hình thức đầu tư được thực
hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư,
các doanh nghiệp dự án để tiến hành
thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết
cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công.
Ngày 04-05-2018 Chính phủ đã ban
hành Nghị định 63/2018/NĐ-CP thay
thế cho Nghị định 15 nêu trên để có sự
thay đổi nhất định trong khái niệm này.
Theo đó, đầu tư theo hình thức đối tác
công tư (PPP) là hình thức đầu tư được
thực hiện trên cơ sở hợp đồng dự án
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để
xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh
doanh, quản lý công trình hạ tầng, cung
cấp dịch vụ công.
Trên cơ sở đối chiếu hai khái niệm
trên, có thể thấy rằng nội dung hoạt
động trong PPP đã được mở rộng hơn
trước. Trước kia, hợp tác PPP chỉ gồm
quản lý và vận hành nhưng hiện nay đã
thêm vào hoạt động xây dựng, cải tạo
cũng như kinh doanh các đối tượng.
Việc hợp tác giữa các đơn vị thuộc khu
vực tư và khu vực công nhằm phân chia
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
136
trách nhiệm trong việc cung cấp cơ sở
hạ tầng hay dịch vụ để phục vụ cho mục
tiêu dài hạn là yếu tố chất lượng và
hướng đến những lợi ích sau:
- Xác định được mục tiêu chung
giữa các bên và hướng đến lợi ích
chung của toàn xã hội.
- Tạo ra những sản phẩm có được
chất lượng tốt nhất với chi phí phù hợp
nhất cho các bên.
- Hình thành một chiến dịch chung
trong từng lĩnh vực cụ thể và có điều
kiện để đánh giá.
Nhìn chung, điểm khác biệt cơ bản
giữa hợp đồng kiểu PPP với các dạng
truyền thống trước đây chính là PPP có
sự liên kết chặt với khu vực tư trong kết
quả đạt được với quá trình thực hiện.
2.2. Những lợi thế và hạn chế
của PPP
Những lợi ích này được hình thành
do những ưu điểm riêng có của hợp
đồng PPP này. Cụ thể, khi có sự hợp tác
giữa công và tư sẽ hướng đến những lợi
thế sau:
- Nguồn lực về tài chính và nguồn
lực vật chất được kết hợp một cách
chuẩn tắc nhất.
- Đạt được sự nỗ lực về quá trình
kết hợp giữa nội địa hóa và quốc tế hóa
dịch vụ công.
- Tạo ra những hướng dẫn cụ thể
cho địa phương để phát triển với sự tư
vấn của chuyên gia.
- Sự cố gắng được tập trung giải
quyết thành một vấn đề tổng thể bao trùm.
- Chương trình kết hợp với công
dân của từng địa phương và góp phần
cải thiện giáo dục.
- Chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng
chuyên môn giữa khu vực tư và khu
vực công.
Những lợi thế của PPPs nêu trên bắt
nguồn từ Vương quốc Anh theo
Andersen & LSE Enterprise (2000) và
Public Policy Research (2001); ở Úc
theo nghiên cứu của Walker và Walker
(2000) Tuy nhiên bên cạnh đó, việc
hợp tác công tư này cũng gặp phải một
số hạn chế hoặc khó khăn như:
- Việc lựa chọn các bên tham gia
vào hợp đồng hợp tác chưa có tiêu chí
rõ ràng.
- Mâu thuẫn giữa các bên có thể
phát sinh để đảm bảo lợi ích đạt được.
- Cán cân về đòn bẩy tài chính của
các doanh nghiệp liên doanh, liên kết
trong PPP có thể ảnh hưởng đến quyết
định và hành động cụ thể của các bên.
- Chuyển giao trách nhiệm của cá
nhân, tư nhân sang chính phủ.
- Tính bền vững của nền kinh tế và
xã hội là vấn đề cần cân nhắc.
- Vấn đề về đạo đức và tính quan liêu
có thể tác động đến quá trình hợp tác.
Các hạn chế nêu trên đã được tìm
thấy trong nghiên cứu ở châu Âu tại
Đan Mạch của Greve (2003) và các
tranh luận xung quanh vấn đề PPPs
trong các nghiên cứu tại Anh, Canada
và Úc. Qua đây có thể hiểu rằng, hợp
tác công tư chính là sự kết hợp giữa một
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
137
nhu cầu xuất phát trong khu vực công
với những khả năng, nguồn lực riêng có
của khu vực tư để tạo ra một cơ hội
mang tính thị trường để nhu cầu đó
được giải quyết với một lợi nhuận mang
lại như mong đợi. Theo UNDP thì hợp
đồng PPP này cũng là một khuôn khổ
của sự thỏa thuận, một hợp đồng mang
tính truyền thống và là một sự liên kết
nhằm phân chia quyền sở hữu nhưng
đạt được một mức lợi ích tốt nhất cho
các bên khi tham gia chung cùng một
chương trình. Mối quan hệ công - tư ở
đây xuất phát theo hai bên, đó là bên
khu vực công sẽ cung cấp hệ thống
pháp lý và điều hành về mặt quản lý
chung cho các dự án hạ tầng, còn bên
khu vực tư sẽ cung cấp về khía cạnh tài
chính cũng như điều khiển trực tiếp tính
thực thi của dự án đó (Treasury
Committee, 2008) [3].
3. Vấn đề về kế toán trong PPP
3.1. Giới thiệu chung
Hầu hết các nghiên cứu về hợp tác
công tư theo PPP chủ yếu tập trung vào
chiến lược, quản trị hoặc về các kênh
trong quá trình đầu tư giữa hai bên
(Johnston & Gudergan, 2007) [4]. Bài
viết này nêu ra những nét chính cần lưu
ý trong công tác kế toán khi thực hiện
PPP giữa công và tư trong một quốc
gia. Cho đến thời điểm cuối năm 2017,
hơn 90 quốc gia trên toàn thế giới đã áp
dụng và thực hiện PPP theo nhiều hình
thức hoặc những phương thức khác
nhau với những giai đoạn triển khai
cũng có sự khác biệt theo hình 1.
Hình 1: Một số quốc gia áp dụng PPP với các giai đoạn khác nhau
Xét về nền tảng thì trong hợp đồng
PPP có ba vấn đề chủ yếu có liên quan
đến khía cạnh kế toán, chính là dòng
doanh thu chính của quá trình hợp tác,
chi phí của chu kỳ sống sản phẩm,
chuyển giao rủi ro và ghi nhận rủi ro
trong sổ sách. Ba nội dung này luôn
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
138
phải gắn liền với đặc điểm đầu ra từ hợp tác này (Dutz và cộng sự, 2006) [5].
Hình 2: Ba khía cạnh kế toán quan trọng trong PPP
Theo Do và cộng sự (2016) [6], để
có thể hiểu rõ những yếu tố về kế toán
này tác động như thế nào đến các chủ
thể tham gia trong quá trình PPP thì cần
phải làm sáng tỏ những loại hình khác
nhau. Theo khía cạnh thực tế thì có 7
hình thức hợp tác PPP (hình 3).
Hình 3: Các hình thức khác nhau trong PPP
(Nguồn: Skelcher, 2010 [7])
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
139
Dù theo hình thức nào thì yếu tố
chính của các hợp tác này đều có những
đặc điểm sau:
- Hợp tác này chính là quá trình
phối hợp chặt chẽ về nội bộ trong khu
vực công.
- Tạo ra một môi trường liên kết
chặt chẽ giữa tính chất hoạt động công
và tư.
- Hình thành được những dự án
mang tính chất quan trọng với quy mô
lớn hơn.
- Tạo lập các tình huống kinh doanh
mang tính cụ thể và có tính thú vị.
- Cung cấp thông tin và quy trình
kinh doanh một cách nhanh chóng.
- Bảo đảm giá cạnh tranh một cách
công bằng, tạo ra kết quả tốt hơn.
Những dự án nếu được ký kết theo
hình thức PPP có thể hướng đến nhiều
lĩnh vực khác nhau trong xã hội hoặc
trong nền kinh tế, chẳng hạn như: điện,
dầu khí, viễn thông, hàng không, đường
sắt, đường bộ, cảng biển, cây trồng, tiện
ích khác, hệ thống nước (Ashwin và
cộng sự, 2011) [8].
3.2. Những điểm chính về kế toán
trong hợp tác PPP
Nhìn chung, khung pháp lý cơ bản
của hợp đồng hợp tác công tư PPP theo
khung pháp lý của chế độ kế toán doanh
nghiệp của Thông tư 200/2014/TT-
BTC. Nếu đơn vị có thiết lập ban quản
lý dự án thì sẽ thực hiện thêm chế độ kế
toán dành cho ban quản lý. Bên cạnh
chế độ kế toán là điều cơ bản mà hầu
hết kế toán viên sẽ làm căn cứ để ghi
chép thì còn có luật kế toán và chuẩn
mực kế toán cho các khoản mục phát
sinh. Do đó nếu ghi chép kế toán trong
hợp đồng PPP thì xét về cơ bản không
có gì khác biệt đối với các mục trong
những công ty thông thường.
Các hợp đồng hợp tác PPP nhằm
nâng cao hiệu quả của các dự án cơ sở
hạ tầng thông qua phương tiện việc hợp
tác lâu dài giữa khu vực công và kinh
doanh của tư nhân. Đây là một hình
thức mới và có khá nhiều ưu điểm vì
đây là cách tiếp cận toàn diện và mở
rộng. Thuật ngữ PPP không xác định ở
mức độ cộng đồng, nó quan tâm đến
hình thức hợp tác giữa cơ quan công
quyền với thế giới kinh doanh của tư
nhân nhằm đảm bảo việc tài trợ, xây
dựng, đổi mới, quản lý và duy trì cơ sở
hạ tầng để cung cấp dịch vụ. Xét về
khía cạnh kinh tế cùng với những đặc
điểm đã nêu thì nó có liên quan đến
công tác kế toán với mô hình quan hệ
các bên theo hình 4.
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
140
Hình 4: Các đối tượng và hoạt động phát sinh trong PPP
(Nguồn: ADB, 2017)
Những hoạt động trên để đảm bảo
tính hiệu quả số liệu kế toán được ghi
chép đầy đủ, cung cấp thông tin hữu
hiệu đến người sử dụng ra các quyết
định kinh tế cần thiết. Cho đến thời
điểm hiện tại thì chưa có một quy tắc kế
toán chung hay chuẩn mực kế toán cụ
thể nào hướng dẫn về PPP. Trong số
chuẩn mực hiện hành thì có thể đề cập
đến chuẩn mực về thuê tài sản (Lease)
là có mối quan hệ tương đối mật thiết.
Bên cạnh đó, có một số hướng dẫn khác
của tác giả Ravets (2010) [9] có đề cập
đến PPP chính là chuẩn châu Âu ESA
95 và Cẩm nang thống kê tài chính
chính phủ GFSM 2001. Hai văn bản
này đề cập đến 3 vấn đề chính: các
khoản chi của chính phủ và các bên có
liên quan, chuyển giao tài sản cho chính
phủ sau khi hoàn tất hợp tác, các khoản
đảm bảo được ấn định.
Những yếu tố phát sinh trong công
tác kế toán sẽ phát sinh dựa theo các đối
tượng trên và sẽ cần chú ý đến ba nội
dung có liên quan đến kế toán như sau:
a. Đối với khía cạnh chi phí trong
hợp tác
Khi tiến hành hợp tác giữa hai hay
nhiều bên thì vấn đề chi phí trong kế
toán được xem là khó và quan trọng
hơn cả bởi có những khoản mang tính
riêng, có những khoản mang tính
chung và có những khoản đã chi ra
nhưng chưa nhận định được phân chia
như thế nào. Tùy theo loại hợp tác thì
sẽ phát sinh các khoản chi phí cụ thể
có sự khác nhau. Có thể chú ý đến các
khoản sau: phí các khoản mua ngoài,
phí nhân công, phí nguyên liệu xây
dựng cơ sở hạ tầng, phí máy móc thiết
bị, phí bảo hành các thiết bị máy móc,
phí bảo hiểm
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
141
b. Đối với khía cạnh doanh thu
trong hợp tác
Doanh thu là khoản mà các bên
mong đợi có được từ quá trình hợp tác.
Doanh thu bị chi phối khá nhiều bởi kết
quả của dự án trong mối quan hệ với thị
trường. Điểm quan trọng khi các dự án
PPP phát sinh chính là khu vực công có
thể bị giảm quyền kiểm soát khi hợp
tác, từ đó nguồn thu có thể chưa đạt
được như dự toán đề ra. Các khoản
doanh thu theo hướng dẫn của quốc tế
liên quan đến PPP chẳng hạn như doanh
thu phân chia từ sản phẩm, dịch vụ;
nguồn thu từ các khoản còn lại, thu từ
tài chính đầu tư
c. Đối với khía cạnh kế toán chuyển
giao rủi ro
Việc chuyển giao rủi ro trong quá
trình hợp tác này là việc quản lý, kiểm
soát những tài sản phát sinh trong khi
thực hiện hợp tác giữa hai khu vực. Khi
quản lý rủi ro thì cần phải trải qua 5 giai
đoạn, đó là: nhận diện rủi ro, tập hợp rủi
ro, phân bổ rủi ro, xử lý rủi ro, giám sát
và kiểm soát. Mặc dù rủi ro chủ yếu
thuộc phương diện tài chính nhưng nếu
xét về kế toán thì nó vẫn tồn tại và các
thành viên tham gia dự án đều phải luôn
quan tâm để tránh cho rủi ro phát sinh có
thể ảnh hưởng đến việc đe dọa mục tiêu
của tổ chức đã đề ra (Pereira, 2014) [10].
Với những nội dung trên thì đi vào
chi tiết sẽ có một số nội dung có thể
tham chiếu đến hệ thống kế toán của
Việt Nam cùng những khoản của các
chuẩn mực có liên quan. Cụ thể bao
gồm các vấn đề:
- Kế toán thuê tài chính theo hợp
đồng hợp tác: khi tiến hành thực hiện
hợp đồng này, các bên cần quan tâm
đến việc thuê tài chính hay thuê hoạt
động theo chuẩn mực Việt Nam vì hai
phạm trù này có sự khác biệt nhất định
(Nailor & Lennard, 2000) [11]. Tuy
nhiên theo quốc tế hướng dẫn, hầu hết
trong mọi trường hợp thì hợp đồng PPP
sẽ được xem là một dạng thuê tài chính.
Nếu chuyển giao rủi ro cho bên tư nhân
có sự giới hạn, chính phủ có thể cần
được xem là người chủ sở hữu của tài
sản hình thành theo PPP và tài sản này
chính là thuê tài chính. Đây chính là
cách tiếp cận theo hướng dẫn kế toán
của Anh và Úc. Nó yêu cầu kế toán cần
phải phán đoán về quyền sở hữu tài sản
PPP dựa trên việc phân chia rủi ro và
lợi ích giữa các bên.
- Kế toán chuyển giao rủi ro giới
hạn: nội dung này sẽ tiếp cận theo giác
độ kế toán rủi ro và mức độ này có thể
xem là tài sản PPP sẽ được ghi nhận
trên bảng cân đối kế toán của khu vực
công vì nó thỏa khá đầy đủ các tiêu chí
của một loại thuê tài chính. Còn các
nghiệp vụ kết hợp sẽ ghi chép vào báo
cáo hoạt động.
- Quyết định trên hướng dẫn của tổ
chức Eurostat: theo cách tiếp cận của
đơn vị này thì tài sản PPP sẽ được bù
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
142
trừ trên bảng cân đối kế toán chính phủ
nêu bên tư nhân gánh chịu hầu hết các
rủi ro xây dựng cũng như các rủi ro sẵn
có và rủi ro về tính cầu trên thị trường.
Đối với các dịch vụ được cung cấp bởi
chính phủ thì đây chính là hiện tượng
rủi ro cầu xuất hiện trong nền kinh tế.
Từ đó, trên bảng cân đối kế toán thì
khoản đầu tư PPP chính là khoản đầu tư
công và thực thi theo luật đầu tư công
tại Việt Nam.
Nhìn chung, PPP chính là một lựa
chọn tốt nhằm để chuyển từ việc đầu tư
công sang việc hạn chế hoặc không
dùng ngân sách trong hoạt động đầu tư
và giảm bớt các khoản nợ công trên
bảng cân đối kế toán của Chính phủ.
Vấn đề đặt ra chính là ghi nhận và tính
toán một cách rõ ràng, minh bạch đối
với các khoản chung, các khoản riêng
giữa bên công và bên tư cùng với những
rủi ro mà các bên gánh chịu.
4. Kết luận
Để đảm bảo thành công trong bối
cảnh Việt Nam hay các địa phương đang
thiếu hụt nguồn vốn đầu tư phát triển cho
cơ sở hạ tầng như hiện nay thì mô hình
hợp tác công tư PPP trong việc đầu tư
nâng cao chất lượng các dịch vụ công
được coi là hướng đi đúng đắn của các
địa phương tại trong giai đoạn hiện tại bởi
mô hình này có thể hạn chế được những
tồn tại nếu cho từng khu vực công hoặc
tư thực hiện riêng biệt. Việc ban hành
khuôn khổ pháp lý để hướng dẫn rõ công
tác kế toán về các nội dung trong mô hình
hợp tác công tư này thì cần thiết phải
được hướng dẫn rõ ràng nhằm đạt được
sự nhất quán giữa các đơn vị, tổ chức, địa
phương cũng như cả nước. Kết quả của
bài viết này chỉ cơ bản giới thiệu những
khía cạnh kế toán mà người làm những
dự án liên kết khu vực công với khu vực
tư cần quan tâm chứ chưa đi vào chi tiết
từng nội dung cụ thể về cách phần chi tiết
trong công tác kế toán. Tuy nhiên khi
xem những loại hợp tác cụ thể trong PPP
và từng giai đoạn thì cần có nhiều nghiên
cứu chi tiết hơn và rõ ràng hơn từng
nhóm khoản mục trong kế toán của dự án
PPP, qua đó đem lại thông tin minh bạch
hơn và thuyết phục hơn các nhà đầu tư tư
nhân tại các vùng, miền, từ đó sẽ tiếp tục
thu hút thêm đầu tư cho sự phát triển
chung của nền kinh tế của khu vực cũng
như của quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hodge, G. (2004), The risky business of public-private partnerships.
Australian Journal of Public Administration, 63, 37-49
2. Jane, B. & Richard, L (2003), Public private partnerships: an introduction.
Accounting, Auditing & Accountability Journal, 16(3), pp.332-
341, https://doi.org/10.1108/09513570310482282
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
143
3. Treasury Committee (2008), Financial Reporting and National Accounts:
Oral and Written Evidence: Tuesday 4 March 2008 – Witnesses: Financial
Reporting Advisory Board, Office for National Statistics, HC 397-i of Session 2007–
08 (London, Stationery Office)
4. Johnston, J., Gudergan, S. P. (2007), Governance of public-private
partnerships: Lessons learnt from an Australian case?, International Review of
Administrative Sciences, 73, 569-582
5. Dutz, M., Harris, C., Dhingra, I., Shugart, C. (2006), Public-private partnership
units: What are they, and what do they do? Washington, DC: World Bank
6. Do, M. T., Morten, F. & Idongesit, W (2016), Analyzing the role of the PPP in
the development of the Vietnamese telecoms market, The 1st Africa Regional ITS
Conference, Accra, Ghana
7. Skelcher, C (2010), Governing Partnerships. It is in G. Hodge, C. Greve and
A. Boardman (eds) (2010) International Handbook on Public-Private Partnerships,
Cheltenham: Edward Elgar, pp 292-304, ISBN 978-1-84844-356-3
8. Ashwin, M., Ganesh, A. D. & Satyanarayana, N. K (2011), A Comparative
Analysis of Public- Private Partnership (PPP) Coordination Agencies in India, Public
Works Management & Policy, 1(1), pp. 1-16
9. Ravets, C. (2010), Update of the SNA 1993 and Revision of ESA95 (available at:
993_ and_revision_of_ESA95 (last accessed 16 December, 2010)
10. Pereira C.G (2014), Public-Private Partnerships (PPP) and Concessions of
Public Services in Brazil, BRICS Law Journal, 1(1), pp. 25-43. DOI:10.21684/2412-
2343-2014-1-1-25-43
11. Nailor, H. and A. Lennard (2000), Leases: Implementation of a New
Approach, Financial Accounting Series - Special Report (Norwalk, CT, FASB)
DISCUSSING A NUMBER OF BASIC ISSUES TO ACCOUNTING FOR
PUBLIC-PRIVATE PARTNERSHIP CONTRACT
IN THE PRIVATE INVESTMENT
ABSTRACT
There is no state, no government or no local organization that could take over
all costs related to the infrastructure system because of limited budget resources.
Moreover, there is also no private investor that is able to do this matter because it
has had low economic efficiency and many risks. In order to enhance the value of
private investment and to bring benefits to the national budget, the public-private
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
144
partnership model is a significant key for addressing this issue. The main aim of this
paper is to present a general picture of the content, characteristics, strengths and
limitations to the contract of public-private partnerships (PPPs), thereby
approaching this collaborative content based on accounting issues. There are some
issues that need to be addressed when investing in the future. The main outcome of
this study is to provide a clear understanding of PPP in relation to the three
accounting groups in these partnerships.
Keywords: PPP, public private partnership, private investment, private sector,
public sector
(Received: 23/7/2018, Revised: 12/9/2018, Accepted for publication: 18/9/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_mot_so_van_de_co_ban_cua_ke_toan_trong_hop_dong_hop_t.pdf