Một số kiến nghị hoàn thiện
Trên cơ sở phân tích những điểm bất cập tại
khoản 2 và khoản 5 Luật THADS 2008 (sửa đổi
bổ sung 2014) nêu trên, tác giả kiến nghị sửa đổi
các nội dung này theo hướng như sau:
3.1 Về phạm vi những người mà chấp hành viên
không được tư vấn
Theo quy định hiện hành tại khoản 2 Điều 21
Luật THADS thì: “CHV không được tư vấn cho
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật”. Như đã
phân tích ở phần nội dung thì quy định về phạm
vi người mà CHV không được tư vấn hiện nay là
khá hẹp. Để khắc phục hạn chế này, tác giả đề
xuất sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 21 Luật
THADS theo hướng: “CHV không được tư vấn
cho đương sự, người thân thích của đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến
việc thi hành án trái pháp luật”.
3.2 Về quy định chấp hành viên không được thực
hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích
của bản thân và các chủ thể khác tại điểm b,
khoản 5, Điều 21 Luật thi hành án dân sự
Quy định tại điểm b khoản 5 Điều 21 đã hạn
chế đến mức tối đa việc CHV có thể thực hiện
việc thi hành án theo hướng có lợi cho bản thân;
có lợi cho người thân thích không chỉ của CHV
mà còn của vợ hoặc của chồng CHV; quy định
này đảm bảo sự khách quan, vô tư của CHV;
cũng như đảm bảo sự bình đẳng về quyền và lợi
ích hợp pháp cho các đương sự, cho người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong quá trình
THADS. Tuy nhiên, quy định nêu trên vẫn cần
được bổ sung thêm một nhóm chủ thể nữa, đó là
cụ nội, cụ ngoại của CHV cũng như của vợ hoặc
của chồng CHV thì sẽ làm cho quy định này có
tính bao quát hơn, chặt chẽ hơn; đảm bảo hơn
nữa sự khách quan, vô tư của CHV trong quá
trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất sửa
đổi, bổ sung khoản 5, Điều 21 Luật THADS theo
hướng như sau:
CHV không được thực hiện việc thi hành án
liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và
những người sau đây:
a) Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi;
b) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, cụ nội,
cụ ngoại, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của
CHV, của vợ hoặc chồng của CHV;
c) Cháu ruột mà CHV là ông, bà, bác, chú,
cậu, cô, dì.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định tại khoản
2 và điểm b, khoản 5 Điều 21 Luật THADS nêu
trên sẽ góp phần đảm bảo sự liêm chính, khách
quan, vô tư của CHV, đảm bảo CHV luôn phải
thực hiện tốt phương châm “trái tim nóng nhưng
đầu nguội lạnh” [12] cũng như đảm bảo sự bình
đẳng về quyền và lợi ích hợp pháp cho người
được thi hành án, người phải thi hành án, cho
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong
quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của CHV.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về những việc chấp hành viên không được làm theo quy định của Luật thi hành án dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-64
58
Original Article
Discuss Things That Enforcers are Not Allowed to Comply With the
Provisions of Vietnam's Law on Enforcement of Civil Judgments
Tran Cong Thinh
VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 22 January 2020
Revised 17 March 2020; Accepted 26 June 2020
Abstract: Enforcers are State officials, assigned tasks and powers in the process of executing legally
effective judgments and decisions of courts and competent agencies. In order to ensure impartiality
and objectivity in the course of performing their duties and powers, the Law on enforcement of Civil
Judgments provides for things that enforcers must not do. This article analyzes some inadequacies
and proposes to amend and supplement the provisions of Article 21 of the Law on enforcement of
civil judgments on things that enforcers must not do.
Keywords: enforcers; law on enforcement of civil judgments, impartial, objective, relatives.
________
Corresponding author.
Email address: trancongthinh1686@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4295
N.T. Duong / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-64 59
Bàn về những việc chấp hành viên không được làm
theo quy định của Luật thi hành án dân sự
Trần Công Thịnh
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 22 tháng 01 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 17 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 6 năm 2020
Tóm tắt: Chấp hành viên là cán bộ, công chức Nhà nước, được giao nhiệm vụ, quyền hạn trong quá
trình thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền.
Để đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Luật thi
hành án dân sự quy định những việc mà chấp hành viên không được làm. Bài viết này phân tích một
số điểm bất cập và đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định tại Điều 21 Luật thi hành án dân sự về
những việc mà chấp hành viên không được làm.
Từ khóa: chấp hành viên, thi hành án dân sự, khách quan, vô tư, người thân thích.
1. Mở đầu
Luật Thi hành án dân sự (THADS) 2008 có
hiệu lực từ ngày 01/7/2009 (và được sửa đổi bổ
sung một số điều năm 2014, có hiệu lực kể từ
ngày 01/07/2015) là một cơ sở pháp lý quan
trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức
THADS. Việc ban hành Luật THADS với các
quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung kịp
thời và được áp dụng trong thực tiễn đã góp phần
làm cho công tác THADS có những chuyển biến
tích cực, bảo đảm thực hiện được mục đích xét
xử của Tòa án, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước,
bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của các
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân; củng
cố hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao vị thế, uy
tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung
và cơ quan THADS nói riêng. Tuy nhiên thực
tiễn cũng chỉ ra rằng nhiều quy phạm pháp luật
đã bộc lộ những bất cập, cần tiếp tục được nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn áp dụng để
nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác THADS,
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: trancongthinh1686@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4295
bảo đảm nhanh chóng, kịp thời và chính xác
quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể khi
tham gia quan hệ pháp luật THADS. Trong phạm
vi bài viết này, tác giả xin bàn về một số vấn đề
liên quan đến những việc Chấp hành viên (CHV)
không được làm theo quy định của Luật THADS.
2. Những việc mà chấp hành viên không được
làm theo quy định của Luật thi hành án dân sự
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao
nhiệm vụ [1] thi hành các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật hoặc phần bản án, quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết
định của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; bản án, quyết
định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định
của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt
Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ
N.T. Duong / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-64 60
ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự
nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án;
quyết định của Trọng tài thương mại; bản án,
quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao
động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ
cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại
về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần,
nhận người lao động trở lại làm việc; quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,[2].
Không có hoạt động của CHV thì các bản án,
quyết định có hiệu lực của Tòa án và các cơ quan
có thẩm quyền sẽ chỉ là những quyết định trên
giấy tờ do không được tổ chức thi hành hoặc
được tổ chức thi hành không đầy đủ trên thực tế.
Do có vị trí, vai trò quan trọng như vậy trong
công tác THADS nên Luật THADS 2008 (sửa
đổi bổ sung một số điều năm 2014), Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
THADS, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày
17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 62/2015/NĐ-CP và các văn bản pháp luật
có liên quan đã có những điều khoản quy định
chi tiết, cụ thể về tiêu chuẩn bổ nhiệm, miễn
nhiệm CHV; về nhiệm vụ, quyền hạn của CHV
cũng như những việc mà CHV không được làm;
Luật THADS 2008 quy định CHV không
được làm những công việc sau đây [3]:
1. CHV không được làm những việc mà pháp
luật quy định công chức không được làm.
2. CHV không được tư vấn cho đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến
việc thi hành án trái pháp luật.
3. CHV không được can thiệp trái pháp luật
vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi
dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có
trách nhiệm thi hành án.
4. CHV không được sử dụng trái phép vật
chứng, tiền, tài sản thi hành án.
5. CHV không được thực hiện việc thi hành
án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và
những người sau đây:
a) Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi;
b) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì
và anh, chị, em ruột của CHV, của vợ hoặc chồng
của CHV;
c) Cháu ruột mà CHV là ông, bà, bác, chú,
cậu, cô, dì.
6. CHV không được sử dụng thẻ CHV, trang
phục, phù hiệu thi hành án, công cụ hỗ trợ để làm
những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
được giao.
7. CHV không được sách nhiễu, gây phiền
hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ thi hành án.
8. CHV không được cố ý thi hành trái nội
dung bản án, quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài
thời gian giải quyết việc thi hành án được giao
không có căn cứ pháp luật.
Trong số 8 công việc nêu trên, tác giả xin
được đưa ra quan điểm của mình về công việc
thứ 2 và thứ 5 mà CHV không được làm.
2.1. Chấp hành viên không được tư vấn cho
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật (khoản 2
Điều 21 Luật thi hành án dân sự)
Quy định nêu trên là nhằm đảm bảo sự liêm
chính, khách quan, vô tư của CHV trong quá
trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình;
đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ tố tụng giữa các bên đương sự. Có thể
nói, trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, CHV chính là người thường xuyên
phải động chạm[4] đến đời sống kinh tế, vật chất
và tinh thần của người phải thi hành án và quyền
lợi hợp pháp của người được thi hành án.
Việc quy định CHV không được tư vấn cho
đương sự, cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật là
hoàn toàn xác đáng. Thực tiễn cho thấy có những
CHV vì vụ lợi hoặc vì có mối quan hệ cá nhân,
tình cảm nên đã tư vấn có lợi cho một trong các
bên đương sự dẫn đến việc thi hành án trái pháp
luật; nhiều CHV đã bị kỷ luật, chậm chí phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi tư vấn trái pháp
luật cho đương sự.
N.T. Duong / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-64 61
Ví dụ: Bị cáo Văn Công Mới (nguyên Chi
cục trưởng Chi cục THADS Huyện Mỹ Tú) và
Nguyễn Văn Luân (nguyên cán bộ Chi cục
THADS Huyện Mỹ Tú) đã có nhiều sai phạm, có
hành vi tư vấn cho đương sự dẫn đến việc thi
hành án trái pháp luật và vào ngày 22/8/2018,
TAND Tỉnh Sóc Trăng đã đưa ra xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đối với 02 bị cáo này, cùng bị truy
tố về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi
thi hành công vụ” [5]; Hay gần đây tại Bình
Định, bà Phan Thị Chúc, CHV, Chi cục THADS
huyện Hoài Nhơn bị ông Nguyễn Thanh Hùng,
người được thi hành án (ở thôn Thiện Đức Đông,
xã Hoài Hương, huyện Hoài Nhơn, Bình Định)
tố cáo là đã nhiều lần đã “hiến kế” cho người
phải thi hành án tìm cách tẩu tán tài sản để “né”
thi hành án [6].
Tuy nhiên điều tác giả băn khoăn ở đây là
phạm vi người mà CHV không được tư vấn ở đây
có quá hẹp hay không. Luật chỉ quy định CHV
không được tư vấn cho đương sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi
hành án trái pháp luật. Thế còn đối với những
người khác, giả sử như là vợ hoặc chồng của
đương sự, hoặc là người thân thích khác của
đương sự (như cha mẹ của đương sự, con của
đương sự, anh chị em ruột của đương sự) thì
CHV có được tư vấn cho những người này dẫn
đến việc thi hành án trái pháp luật hay không?
Đặt giả thiết trong quá trình tổ chức thi hành bản
án, quyết định của Tòa án, A là đương sự, A
không trực tiếp gặp mặt X (CHV) nhưng lại để
cho vợ mình là B đi quan hệ, gặp gỡ, nhờ vả X,
sau đó X đã tư vấn cho B để sau đó chổng B là
A thực hiện việc tẩu tán tài sản, né tránh việc thi
hành nghĩa vụ của mình thì có vi phạm pháp luật
về THADS hay không? Và trong trường hợp này
nếu C (đương sự còn lại) biết được việc này thì
C có quyền yêu cầu Thủ trưởng cơ quan THADS
ra quyết định thay đổi CHV X hay không? Nếu
căn cứ vào quy định tại Điều 10, Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
THADS thì đây không phải là căn cứ để đương
sự có quyền yêu cầu thay đổi CHV:
Đương sự có quyền yêu cầu thay đổi CHV
trong trường hợp sau đây [7]:
a) Thuộc trường hợp quy định tại Khoản 5
Điều 21 Luật THADS;
b) CHV đã tham gia với tư cách người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người làm chứng trong cùng vụ án đó;
c) CHV chậm trễ giải quyết việc thi hành án;
d) Có căn cứ khác cho rằng CHV không vô
tư trong khi làm nhiệm vụ.
Hay chúng ta có thể lý giải là việc tư vấn trái
pháp luật cho những người thân thích của A nêu
trên thuộc về căn cứ tại điểm d: “Có căn cứ khác
cho rằng CHV không vô tư trong khi làm nhiệm
vụ.”? hoặc căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 7,
điểm e khoản 1 Điều 7a Luật THADS về quyền,
nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải
thi hành án đã quy định quyền được yêu cầu thay
đổi CHV trong trường hợp có căn cứ cho rằng
CHV không vô tư khi làm nhiệm vụ. Theo tác
giả thì suy luận như vậy cũng không ổn vì trên
thực tế là Luật THADS và các Nghị đinh hướng
dẫn thi hành lại không có quy định nào giải thích
hiểu thế nào là có căn cứ hoặc có căn cứ khác
cho rằng CHV không vô tư trong khi làm nhiệm
vụ. Chính vì sự thiếu sót này dẫn đến thực trạng
Cơ quan THADS “tùy nghi” chấp thuận yêu cầu
của đương sự, tức là cùng một sự việc hay cùng
một hành vi, khi đương sự có đơn yêu cầu thay
đổi CHV, có lúc cơ quan THADS chấp nhận yêu
cầu của đương sự, nhưng cũng có trường hợp cơ
quan THADS cho rằng không có căn cứ nên
không chấp nhận. Thực tế thì Tổng cục THADS
cũng nêu quan điểm cần làm rõ như thế nào là
“có căn cứ cho rằng CHV không vô tư khi làm
nhiệm vụ” quy định tại Điều 7 Luật THADS,
điểm d khoản 1 Điều 10 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP mà đến nay chưa có văn bản
hướng dẫn. Qua nắm bắt thực tiễn các địa
phương, Tổng cục THADS thừa nhận có tình
trạng cùng một sự việc hay cùng một hành vi, khi
đương sự có đơn yêu cầu thay đổi CHV, có lúc
cơ quan THADS chấp nhận yêu cầu của đương
sự, nhưng cũng có lúc không chấp nhận mà cho
rằng không có căn cứ [8].
2.2 CHV không được thực hiện việc thi hành án
liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và các
N.T. Duong / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-64 62
chủ thể khác quy định tại khoản 5 Điều 21 Luật
THADS:
CHV không được thực hiện việc thi hành án
liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân; liên
quan đến vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em
ruột của CHV, của vợ hoặc chồng của CHV;
cháu ruột mà CHV là ông, bà, bác, chú, cậu, cô,
dì; đây là những người có mối quan hệ về hôn
nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với CHV,
hay còn được hiểu là những “người thân thích”
của CHV.
Quy đinh nêu trên về mặt nội dung, có ý
nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo sự khách quan,
vô tư của CHV trong quá trình tổ chức thi hành
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án và các cơ quan có thẩm quyền. Có thể nói về
mặt phạm vi chủ thể có mối quan hệ với CHV,
thì quy định như trên rộng hơn rất nhiều so với
các quy định tương ứng của các đạo luật khác
trong lĩnh vực dân sự theo nghĩa rộng.
Theo quy định tại khoản 19 Điều 3 Luật Hôn
nhân và gia đình 2014, khái niệm người thân
thích được định nghĩa như sau: “Là người có
quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng
dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm
vi ba đời”.
Bộ luật dân sự 2015 tại Điều 651 quy định về
những người thừa kế theo pháp luật [9], những
người này được hiểu là người thân thích của
người để lại di sản bao gồm: “a) vợ, chồng, cha
đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết; b) ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người
chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) cụ nội,
cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột
của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về
người thân thích của đương sự tại điểm a khoản
1 Điều 52 nhưng lại không chỉ rõ người thân
thích của đương sự bao gồm những người nào.
Tuy nhiên căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC [10] thì Người thân thích
của đương sự là người có quan hệ sau đây với
đương sự:a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha
nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của đương sự;b)
Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của đương sự;c) Là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của
đương sự;d) Là cháu ruột của đương sự, mà
đương sự là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
Như vậy có thể thấy quy định về “người thân
thích” tại điểm b khoản 5 Điều 21 Luật THADS
có phạm vi rộng hơn so với các đạo luật khác,
thể hiện rõ nhất ở điểm không những CHV
không được thực hiện việc thi hành án liên quan
đến quyền, lợi ích của bản thân và của vợ, chồng,
con đẻ, con nuôi; liên quan đến quyền, lợi ích của
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh,
chị, em ruột của CHV mà CHV còn không được
phép thực hiện việc thi hành án liên quan đến
quyền, lợi ích của cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi của,
mẹ nuôi của vợ hoặc chồng của CHV; thậm chí
CHV còn không được phép thực hiện việc thi
hành án liên quan đến cả ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị,
em ruột của vợ hoặc chồng của CHV;
Với độ “phủ sóng” bao quát và rộng lớn như
vậy, có thể nói đây là một “điểm cộng” rất lớn
của Luật THADS. Dễ thấy điểm b khoản 5 Điều
21 đã hạn chế đến mức tối đa việc CHV có thể
thực hiện việc thi hành án theo hướng có lợi cho
người thân thích không chỉ của CHV mà còn của
vợ hoặc của chồng CHV; quy định này đảm bảo
sự khách quan, vô tư của CHV; cũng như đảm
bảo sự bình đẳng về quyền và lợi ích hợp pháp
cho các đương sự, cho người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan trong quá trình THADS.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng, điểm b khoản 5
Điều 21 Luật THADS cần được mở rộng hơn
nữa về phạm vi những người có mối quan hệ với
CHV. Theo quy định hiện hành thì CHV không
được thực hiện việc thi hành bản án, quyết định
có liên quan đến cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
N.T. Duong / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-64 63
nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác,
chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của CHV,
của vợ hoặc chồng của CHV; Theo quan điểm
của tác giả thì cần bổ sung thêm chủ thể cụ nội,
cụ ngoại của CHV, của vợ hoặc chồng của CHV
vào danh sách những người mà CHV không
được thực hiện việc thi hành án thì sẽ hợp lý hơn.
Giả sử tuổi của một CHV sơ cấp A là từ 25 tuổi
đến 30 tuổi (22 tuổi tốt nghiệp cử nhân luật; có
thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở
lên; đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân
sự; trúng tuyển kỳ thi tuyển CHV sơ cấp); như
vậy có thể suy luận độ tuổi của cha, mẹ của
CHV A từ 45 đến 50 tuổi; độ tuổi của ông bà
nội ngoại của CHV A có thể từ 65 đến 70 tuổi
và độ tuổi của cụ nội, cụ ngoại của CHV A có
thể từ 85 đến 90 tuổi. (Số liệu thống kê cho
thấy tuổi thọ trung bình của người dân Việt
Nam hiện nay là 73,6 tuổi; tỷ lệ người dân có
độ tuổi từ 65 trở lên chiếm hơn 6% tổng dân số
của Việt Nam) [11]. Với chất lượng sống ngày
càng được nâng cao, thì tuổi thọ trung bình của
người dân Việt Nam trong những năm tới được
dự báo sẽ còn gia tăng nữa.
Trong thực tế, có thể có những trường hợp
cụ nội, cụ ngoại của CHV hoặc của vợ hoặc
chồng của CHV là người được thi hành án hoặc
người phải thi hành án. Nếu trường hợp này
xảy ra thì CHV có được phép thực hiện việc
thi hành bản án, quyết định có liên quan đến
những người này không? Nếu CHV được phép
thì có đảm bảo sự vô tư, khách quan trong khi
thi hành nhiệm vụ không?
3. Một số kiến nghị hoàn thiện
Trên cơ sở phân tích những điểm bất cập tại
khoản 2 và khoản 5 Luật THADS 2008 (sửa đổi
bổ sung 2014) nêu trên, tác giả kiến nghị sửa đổi
các nội dung này theo hướng như sau:
3.1 Về phạm vi những người mà chấp hành viên
không được tư vấn
Theo quy định hiện hành tại khoản 2 Điều 21
Luật THADS thì: “CHV không được tư vấn cho
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật”. Như đã
phân tích ở phần nội dung thì quy định về phạm
vi người mà CHV không được tư vấn hiện nay là
khá hẹp. Để khắc phục hạn chế này, tác giả đề
xuất sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 21 Luật
THADS theo hướng: “CHV không được tư vấn
cho đương sự, người thân thích của đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến
việc thi hành án trái pháp luật”.
3.2 Về quy định chấp hành viên không được thực
hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích
của bản thân và các chủ thể khác tại điểm b,
khoản 5, Điều 21 Luật thi hành án dân sự
Quy định tại điểm b khoản 5 Điều 21 đã hạn
chế đến mức tối đa việc CHV có thể thực hiện
việc thi hành án theo hướng có lợi cho bản thân;
có lợi cho người thân thích không chỉ của CHV
mà còn của vợ hoặc của chồng CHV; quy định
này đảm bảo sự khách quan, vô tư của CHV;
cũng như đảm bảo sự bình đẳng về quyền và lợi
ích hợp pháp cho các đương sự, cho người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong quá trình
THADS. Tuy nhiên, quy định nêu trên vẫn cần
được bổ sung thêm một nhóm chủ thể nữa, đó là
cụ nội, cụ ngoại của CHV cũng như của vợ hoặc
của chồng CHV thì sẽ làm cho quy định này có
tính bao quát hơn, chặt chẽ hơn; đảm bảo hơn
nữa sự khách quan, vô tư của CHV trong quá
trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất sửa
đổi, bổ sung khoản 5, Điều 21 Luật THADS theo
hướng như sau:
CHV không được thực hiện việc thi hành án
liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và
những người sau đây:
a) Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi;
b) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, cụ nội,
cụ ngoại, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của
CHV, của vợ hoặc chồng của CHV;
c) Cháu ruột mà CHV là ông, bà, bác, chú,
cậu, cô, dì.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định tại khoản
2 và điểm b, khoản 5 Điều 21 Luật THADS nêu
N.T. Duong / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-64 64
trên sẽ góp phần đảm bảo sự liêm chính, khách
quan, vô tư của CHV, đảm bảo CHV luôn phải
thực hiện tốt phương châm “trái tim nóng nhưng
đầu nguội lạnh” [12] cũng như đảm bảo sự bình
đẳng về quyền và lợi ích hợp pháp cho người
được thi hành án, người phải thi hành án, cho
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong
quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của CHV.
Tài liệu tham khảo
[1] Điều 17 Luật Thi hành án dân sự 2008.
[2] Điều 2 Luật Thi hành án dân sự 2008.
[3] Điều 21 Luật Thi hành án dân sự 2008.
[4] Hoàng Thảo Hà - Nghề Chấp hành viên
https://thads.moj.gov.vn/quangninh/noidung/tintuc/list
s/nghiencuutraodoi/viewdetail.aspx?itemid=40.
[5] https://dantri.com.vn/ban-doc/sau-loat-bai-dieu-
tra-cua-dan-tri-hai-nguyen-can-bo-thi-hanh-an-
chuan-bi-hau-toa-20180806081141529.htm
[6] https://dantri.com.vn/ban-doc/binh-dinh-can-bo-
thi-hanh-an-bi-to-hien-ke-de-bi-don-tau-tan-tai-
san-20160608083218809.htm.
[7] Khoản 1 Điều 10, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
ngày 18/7/2015
[8] https://baophapluat.vn/tu-phap/lung-tung-ap-
dung-quyen-yeu-cau-thay-doi-chap-hanh-vien-
cua-nguoi-duoc-thi-hanh-an-387078.html.
[9] Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015.
[10] Khoản 1 Điều 13, Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP -
Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân
sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự:
[11] https://vietnam.unfpa.org/vi/news/k%E1%BA%B
Ft-qu%E1%BA%A3-t%E1%BB%95ng-
%C4%91i%E1%BB%81u-tra-d%C3%A2n-
s%E1%BB%91-v%C3%A0-nh%C3%A0-
%E1%BB%9F-n%C4%83m-2019.
[12] Giáo trình Nghiệp vụ thi hành án dân sự, NXB Tư
pháp, Hà Nội, 2018, tr 146.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_nhung_viec_chap_hanh_vien_khong_duoc_lam_theo_quy_din.pdf