- Nhóm biện pháp bảo vệ. Các biện
pháp bảo vệ được sử dụng nhằm làm cho
sự xâm nhập từ bên ngoài vào một trong
những cấu phần của hệ thống thanh toán
điện tử bị ngăn cản trước khi một gian lận
có thể thực hiện được. Các thiết bị điện
tử được sử dụng trong các phương tiện
thanh toán điện tử trước tiên phải chống
lại sự xâm phạm từ bên ngoài. Đối với hệ
thống thẻ, việc xử lý liên quan đến sự an
toàn được thiết kế phần bên trong của thẻ,
chẳng hạn như các thẻ thông minh chứa
một mạch vi xử lý có chức năng này. Các
thiết bị đảm bảo an toàn cho người bán
cũng có thể là một thể thông minh. Một
cấu phần máy tính có chức năng an toàn
được cài đặt vào thiết bị ngoại vi xử lý
thanh toán của người bán,
Mật mã là một trong những cấu phần
quan trọng nhất trong việc ngăn chặn
gian lận trong tất cả hệ thống tiền điện
tử hiện hành.
Các hệ thống tiền điện tử có thể đưa
ra nhiều tầng bảo vệ bổ sung nhằm chống
lại các hành vi gian lận, ngăn ngừa sự cố
thiết bị,
Các biện pháp phát hiện. Tại hầu
hết các hệ thống, bản thân thiết bị lưu lại
thông tin đầy đủ hoặc vắn tắt về những
giao dịch đã thực hiện. Các thông tin được
thực hiện này sau đó có thể đọc được từ
một hệ thống trung tâm hoặc những giao
dịch có nghi ngờ để có thể kiểm tra bất
thường
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 416 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về thanh toán điện tử qua ngân hàng trong sự phát triển của thương mại điện tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẤN ĐỀ HÔM NAY
10Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
1. Thương mại điện tử
Trước hết cần xác lập chính thống,
thống nhất quan niệm về thương mại
điện tử [1].
Khái niệm “Thương mại điện tử”
(Electronic commerce) ra đời cùng sự phát
triển của Công nghệ thông tin, với nhiều tên
gọi khác, như: “Thương mại trực tuyến”
(Online trade), “Thương mại điều khiển
học” (Cyber trade), “Kinh doanh điện tử”
(Electronic business), “Thương mại phi
chứng từ” (Paperless commerce),
Theo Ủy ban về luật thương mại quốc
tế của Liên hợp quốc (Ucitral), thì theo
nghĩa rộng, thuật ngữ “Thương mại” bao
gồm các vấn đề phát sinh từ các mối quan
hệ mang tính chất thương mại (có hay
không có hợp đồng), như các giao dịch,
trao đổi hàng hóa, dịch vụ, thỏa thuận
phân phối, đại diện hoặc đại lý thương
mại, bao thanh toán, cho thuê tài chính,
xây dựng công trình, tư vấn, đầu tư, cấp
vốn, ngân hàng, bảo hiểm, thỏa thuận khai
thác, chuyển nhượng, liên doanh, chuyên
chở hàng hóa, hành khách, v.v.
Theo Ủy ban Châu Âu (EU), thì
“Thương mại điện tử” là hoạt động kinh
doanh qua các phương tiện điện tử dựa
trên việc xử lý và truyền dữ liệu dưới
dạng chữ, âm thanh, hình ảnh.
BÀN VỀ THANH TOÁN ĐIỆN TỬ QUA NGÂN HÀNG
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
PGS. TS. Mai Văn Bạn *
Tóm tắt: Trong điều kiện công nghệ số và nền tảng cách mạng công nghiệp lần
thứ 4 đã và đang mở ra một nền công nghệ kỹ thuật cao thì thanh toán qua ngân hàng
với các phương tiện, phương thức thanh toán hiện đại cũng phát triển mạnh mẽ, tương
thích với nền công nghệ cao đó. Mục đích của bài viết làm rõ thế nào là thương mại
điện tử, thanh toán điện tử qua ngân hàng trong thương mại điện tử, cũng như những
rủi ro có thể xảy ra trong thanh toán điện tử qua ngân hàng và những biện pháp chủ
yếu nhằm hạn chế những rủi ro, tổn thất có thể xảy ra.
Từ khóa: thương mại điện tử, thanh toán điện tử, thanh toán ngân hàng
Abstract: In the context of digital technology and fourth industrial revolution
which have been ushering in a high-tech technology, the payment via banks with
modern means is developing vigorously.compatible with the high-tech technology.
The article aims at clarifying what e-commerce is, what electronic payment via banks
in e-commerce as wel as possible risks in electronic payment via banks is, and the
fundamental measures to restrict possible losses and risks.
Keywords: E-commerce, electronic payment, bank payment
* Phó Chủ nhiệm khoa Ngân hàng -
Trường ĐH KD và CN Hà Nội
VẤN ĐỀ HÔM NAY
11Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
Theo Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), “Thương mại điện tử” bao gồm
sản xuất, quảng cáo, bán hàng, phân phối
sản phẩm, thanh toán trên mạng internet,
nhưng được giao nhận hữu hình các sản
phẩm cụ thể, cũng như thông tin số hóa
qua mạng internet.
Theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh
tế (OECD), “Thương mại điện tử” là các
giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ
liệu qua mạng truyền thông internet.
Như vậy, nội dung chủ yếu của
“Thương mại điện tử” là việc trao đổi
thông tin thương mại hoặc thực hiện các
giao dịch tài chính và thương mại bằng
phương tiện điện tử, mà không cần in ra
giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bộ
giao dịch.
2. Điều kiện thực hiện thương mại
điện tử
- Về nhận thức, khi thực hiện thương
mại điện tử sẽ làm thay đổi cách thức giao
dịch, vận hành giữa các thành viên trong
xã hội, từ người sản xuất tới người tiêu
thụ sản phẩm, vận hành hệ thống các nhà
công nghệ và phát triển sản phẩm, các cơ
quan quản lý. Vì thế, cần phải nhận thức
đầy đủ, đúng mức rằng thương mại điện
tử mang tính “cách mạng” về mọi “giao
dịch”; phải hiểu, phải quen thuộc, phải
có khả năng thành thạo vận hành và có
đội ngũ chuyên gia am hiểu công nghệ.
khi triển khai và phát triển thương mại
điện tử.
- Về hạ tầng công nghệ, phải đảm
bảo các điều kiện hiện đại, tương thích về
viễn thông, internet, điện tử, cùng đội
ngủ nhân lực được đào tạo, tổ chức đào
tạo và tiêu chuẩn công nghệ.
3. Thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử là khâu cuối cùng,
quan trọng nhất trong thương mại điện tử
và bản thân thanh toán cũng là một hình
thái hoạt động của thương mại điện tử.
Thanh toán điện tử là việc thực hiện lệnh,
hoàn tất lệnh từ người trả tiền cho tới
người nhận tiền hoàn toàn tự động và phi
chứng từ. Ngược lại, thương mại điện tử
chỉ tồn tại khi đã tồn tại một cơ chế thanh
toán cho phép thực hiện các giao dịch
thanh toán hoàn toàn tự động.
Ngoài những điều kiện trên, thương
mại điện tử muốn phát triển cần có các
điều kiện khác rất quan trọng, như bảo
vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền tiêu dùng,
tiêu chuẩn hàng hóa công nghệ, thương
mại, an ninh, an toàn thương mại điện
tử, bảo vệ mạng thông tin, các dữ liệu
trên mạng, giải quyết tranh chấp, an ninh
quốc gia,
4. Thanh toán ngân hàng
Cùng với sự phát triển của thương
mại điện tử, thanh toán ngân hàng trong
thương mại điện tử [2] cũng đang thay
đổi, phát triển nhanh chóng trên phạm vi
toàn cầu với nhiều phương tiện, phương
thức thanh toán hiện đại, với tốc độ nhanh
và độ an toàn cao.
Hiểu một cách giản đơn, thanh toán
là việc chuyển quyền về sở hữu tài sản
từ một bên này sang một bên khác. Việc
chuyển giao có thể thực hiện bằng cách
chuyển giao giá trị định lượng bằng giấy
bạc ngân hàng hoặc số dư tiền gửi tại
một định chế tài chính hoặc Ngân hàng
trung ương. Thanh toán có thể thực hiện
dưới những hình thức vô cùng giản đơn
tồn tại dưới dạng trao đổi vật chất, như
hàng đổi hàng, chi trả bằng tiền mặt, hoặc
thực hiện một giao dịch thanh toán phi vật
chất, thanh toán điện tử phi chứng từ.
Thanh toán điện tử được hiểu là việc
thanh toán liên thông qua một thông điệp
điện tử thay cho tiền mặt (đối với thanh
toán bằng tiền mặt) hoặc chứng từ giấy.
Sự mở rộng việc xử lý điện tử trong toàn
VẤN ĐỀ HÔM NAY
12Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
bộ công đoạn của quá trình thanh toán
– quyết toán đến khách hàng dẫn tới sự
phát triển của một phương tiện thanh toán
mới – Tiền điện tử. Đồng thời với những
lợi ích mới, phương tiện điện tử cũng
mang theo những rủi ro, tổn thất mới,
những vấn đề về pháp lý mới, cũng như
những vấn đề khác có liên quan phải giải
quyết. Trong quá trình phát triển thương
mại điện tử, thanh toán điện tử ngân hàng
đóng vai trò ngày càng quan trọng, bởi vì
không ai khác, ngoài ngân hàng, có thể
cung ứng các phương thức thanh toán
được thừa nhận rộng rãi với chức năng
trung gian thanh toán nói chung và hoạt
động thương mại điện tử nói riêng.
Thanh toán ngân hàng trong thương
mại điện tử có những đặc trưng riêng,
khác với những phương thức thanh toán
ngân hàng truyền thống về kết cấu sản
phẩm, dịch vụ, những rủi ro liên quan và
những vấn đề xảy ra khác.
a) Nội dung chủ yếu của thanh toán
ngân hàng trong thương mại điện tử
Gồm những vấn đề sau:
- Phương tiện thanh toán trong
thương mại điện tử cũng có chức năng
trung gian trong việc chuyển giao giá
trị từ sở hữu của người này sang sở hữu
của người khác. Những điểm khác biệt
căn bản của phương tiện thanh toán sử
dụng trong thương mại điện tử là giá trị
chuyển giao là giá trị điện tử được lưu
trữ phi vật chất trên các thiết bị điện tử.
Phương tiện thanh toán đặc trưng nhất
trong thanh toán thương mại điện tử có
tên gọi thông dụng là “Tiền điện tử”. Bản
chất của tiền điện tử được xác định là sản
phẩm giá trị lưu trữ hoặc giá trị trả trước,
trong đó ghi lại số tiền hoặc số tiền dành
cho người sử dụng được lưu trữ trên một
thiết bị điện tử thuộc sở hữu của người
đó. Giá trị điện tử được sử dụng “mua
bán” giá trị điện tử này được khấu trừ
khi khách hàng sử dụng các thiết bị điện
tử này trong việc trả tiền hàng hóa, dịch
vụ hoặc rút từ các máy ATM, hoặc thực
hiện các giao dịch khác.
- Kỹ thuật thanh toán ngân hàng. Về
mặt lý thuyết, kỹ thuật có thể cho phép
các sản phẩm tiền điện tử có những đặc
tính giống như tiền mặt, nhưng không để
lại dấu vết giao dịch thanh toán, là công
cụ thanh toán không ghi danh người sở
hữu, có thể chuyển nhượng giá trị cho bất
cứ người nào khác trong bất kỳ tình huống
nào, mà không có sự can thiệp hoặc tham
gia của bất cứ bên thứ ba nào khác. Tuy
nhiên, trên thực tế chưa có một sản phẩm
nào như vậy tồn tại và tiền điện tử mặc dù
mang một số đặc tính chung như tiền mặt,
song lại có những điểm khác biệt lớn so
với tiền mặt, nếu xét trên góc độ thiết kế
sản phẩm, cách thức thực hiện giao dịch
như lưu trữ giá trị, chuyển nhượng giá trị,
những ứng dụng của sản phẩm, cơ cấu
phát hành, cấp phép trực tuyến, ghi nhận
thông tin giao dịch, ứng dụng thiết bị,
đồng tiền thanh toán, phát hành và truy
nạp, thanh toán và chi trả,
b) Thanh toán ngân hàng trong
thương mại điện tử
Có ba mô hình:
Thứ nhất, mô hình chung, gồm ba
khu vực khác nhau trong hệ thống thanh
toán điện tử:
+ Khu vực thanh toán bù trừ và quyết
toán, trong đó có các định chế tài chính,
trung tâm thanh toán bù trừ và Ngân hàng
trung ương hoàn tất các nghĩa vụ tài chính
liên ngân hàng.
+ Khu vực phát hành, thanh toán, vận
hành, trong đó có một cấu trúc cho việc
phát hành, thanh toán các giá trị điện tử
và tương tác với khu vực thanh toán bù
trừ và quyết toán.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
13Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
+ Khu vực bán lẻ, trong đó các lưu
chuyển về giá trị điện tử giữa những
người sử dụng diễn ra dưới các hình thức
nạp tiền (hoặc phát hành), thanh toán,
gửi tiền.
Thứ hai, mô hình hệ thống một
nhà phát hành tiền điện tử: các luồng
lưu chuyển giá trị tương tự như trong các
hệ thống thanh toán thông thường liên
quan đến một định chế phát hành (như
Ngân hàng trung ương, hệ thống ngân
hàng thương mại, hệ thống mua bán lẻ).
Một nhà phát hành duy nhất tạo ra tiền
điện tử và và phát hành cho các định chế
tham gia.
Thứ ba, mô hình hệ thống đa nhà
phát hành: các chủ thể chính trong khu
vực phát hành/ thanh toán / vận hành là
các nhà phát hành, ngân hàng thanh toán,
nhà vận hành hệ thống. Trên thực tế, một
định chế tài chính thường có cả chức năng
phát hành và thanh toán.
c) Điều kiện thực hiện thanh toán
ngân hàng trong thương mại điện tử
- Điều kiện kinh tế là các yếu tố làm
phát sinh những động lực của các chủ
thể trên thị trường khiến các chủ thể này
tham gia vào hoạt động thanh toán ngân
hàng. Những chủ thể khác nhau tham gia
thị trường sẽ có những động cơ khác nhau
khi tham gia thanh toán ngân hàng.
Đối với các nhà phát hành tiền điện
tử, thì động lực thúc đẩy là các khoản thu
nhập từ việc thu được các loại phí, từ đầu
tư vốn. Đối với các nhà ngân hàng còn
là việc tiết giảm những chi phí bảo quản,
vận chuyển và kiểm đếm tiền mặt nếu tiền
điện tử có khả năng thay thế tiền mặt với
khối lượng lớn.
Đối với người sử dụng tiền điện tử,
nhu cầu sử dụng tiền điện tử trước hết tùy
thuộc vào khả năng đáp ứng được yêu cầu
của họ, như phí sử dụng tiền điện tử, khả
năng an toàn, bảo mật, sự thuận lợi, dễ
dàng trong sử dụng các thiết bị điện tử, sự
sẵn sàng chấp nhận phương tiện điện tử
trong thanh toán.
Đối với người bán hàng, mức độ sẵn
sàng chấp nhận tiền điện tử của họ trong
chi trả hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phí
phải trả cho nhà phát hành, nhà vận hành
hệ thống, chi phí cho các thiết bị ngoại vi
và mức độ tiết kiệm chi phí so với giữ tiền
mặt, và khả năng chấp nhận kỹ thuật mới
của người bán.
- Điều kiện về cơ chế chính sách
và cơ sở pháp lý. Đây là yếu tố rất quan
trọng để phát triển thanh toán ngân hàng
trong thương mại điện tử. Về chính sách,
cơ sở pháp lý bảo vệ người tiêu dùng là
khung pháp lý phù hợp, khuyến khích các
hành vi trung thực, tạo cơ sở cho các thỏa
thuận giữa các bên liên quan trong thanh
toán tiền điện tử, đến rủi ro trong thanh
toán tiền điện tử, độ an toàn, bảo mật, tính
minh bạch, công khai thông tin.
Về cơ chế chính sách và cơ sở pháp
lý phòng chống tội phạm, phải xây dựng
khung pháp lý như cấm giả mạo, lừa đảo,
chống rửa tiền, Cơ chế chính sách và
điều kiện pháp lý đối với các định chế
thanh toán trong thương mại điện tử. Có
hai xu hướng pháp lý đối với các định chế
phát hành tiền điện tử, như việc phát hành
tiền điện tử có thể xem như nhận tiền gửi
không kỳ hạn và các quy định về giám sát
việc nhận tiền gửi áp dụng chung cho cả
tiền điện tử. Việc phát hành tiền điện tử
được coi như một hình thức hoạt động đặc
biệt, nên phải có những quy định đặc biệt.
- Rủi ro có thể xảy ra đối với thanh
toán ngân hàng trong thương mại điện tử
thường được phân thành hai loại cơ bản,
tùy thuộc nguồn gốc phát sinh:
+ Rủi ro từ hành vi cố tình gian lận
(chủ quan), như sao chép thiết bị, sửa đổi
VẤN ĐỀ HÔM NAY
14Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
hoặc sao chép phần mềm, dữ liệu, sửa đổi
bức điện, lấy trộm thiết bị, không ghi lại
giao dịch,...
+ Rủi ro do sự cố ngẫu nhiên trong
hoạt động hoặc bị mất các dữ liệu trên
thiết bị, một chức năng nào đó ngừng hoạt
động do nhiều nguyên nhân gây ra,...
+ Rủi ro đối với người tiêu dùng tham
gia thanh toán ngân hàng trong thương mại
điện tử. Ngoài những rủi ro mất an toàn
khi sử dụng phương tiện điện tử để thanh
toán thì có thể gặp rủi ro như chi tiết giao
dịch không ghi lại đầy đủ, sai sót, nhà phát
hành lâm vào phá sản, hoặc mất khả năng
chi trả, người sử dụng do không thể hoàn
tất với số tiền, thời gian và nơi nhận như
dự định chẳng hạn do sử dụng thẻ tín dụng
quá hạn mất hiệu lực, séc cá nhân bị từ
chối, v.v., người sử dụng có thể gặp vấn đề
về bảo mật thông tin, bị gian lận.
+ Rủi ro đối với các nhà phát hành
tiền điện tử là khi phát hành tiền điện tử
đồng nghĩa với sự hình thành tài sản nợ
trên bảng cân đối của nhà phát hành, đó
chính là những khoản mà nhà phát hành
phải trả theo mệnh giá phát hành cho các
chủ thể chấp nhận tiền điện tử trong thanh
toán – Điều đó là yếu tố tạo ra rủi ro hoạt
động và rủi ro mất khả năng thanh toán
của nhà phát hành. Ngoài ra nhà phát
hành còn chịu rủi ro về tín dụng, rủi ro thị
trường, các rủi ro tài chính khác có liên
quan đến phát hành tiền điện tử.
+ Khả năng bị lợi dụng do các hoạt
động gian lận, phi pháp, như tội phạm tấn
công vào hệ thống an toàn của thanh toán
ngân hàng, tội phạm lợi dụng hệ thống
thanh toán để rửa tiền, trốn thuế, đánh bạc
phi pháp, v.v.
d) Kết quả hoạt động hệ thống thanh
toán điện tử
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng (IBPS) của Việt Nam thời gian qua
thực chất là hệ thống thanh toán điện tử
quốc gia. Ngoài hệ thống này sử dụng
trong thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ
Việt Nam, không có hệ thống thanh toán
điện tử nào khác. Nhà nước giao cho
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì
thực hiện thanh toán điện tử liên ngân
hàng. Hệ thống thanh toán này kết nối
tất cả các tổ chức, các định chế tài chính
có tham gia thanh toán (các đơn vị cung
ứng dịch vụ thanh toán) trên phạm vi toàn
quốc. Đây là hệ thống thanh toán điện tử
trực tuyến, hiện đại, xây dựng theo chuẩn
quốc tế, là kênh thanh toán nhanh nhất,
thời gian của một lệnh thanh toán chỉ diễn
ra không quá 10 giây.
Hệ thống bắt đầu được xây dựng từ
năm 1995 và khai trương hoạt động từ
năm 2002 tại trụ sở chính của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và 5 chi nhánh ngân
hàng tỉnh, thành phố. Năm 2008 hoàn tất
giai đoạn II của Dự án hiện đại hóa ngân
hàng và hệ thống thanh toán, đáp ứng nhu
cầu cơ bản của các tổ chức tín dụng về
thanh toán, tốc độ dung lượng xử lý giao
dịch, độ an toàn, bảo mật. Đây là cơ sở để
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
phát triển các phương tiện, dịch vụ thanh
toán cho khách hàng, mở rộng thanh toán
không dùng tiền mặt. Mạng lưới hoạt
động của IBPS gồm một trung tâm thanh
toán quốc gia (NPSC) đặt tại số nhà 64
phố Nguyễn Chí Thanh và một trung
tâm dự phòng đặt tại Ba Vì, TP Hà Nội.
Các trung tâm hoạt động 24/24 giờ. Có 5
trung tâm xử lý khu vực (RPC) đặt tại các
chi nhánh Ngân hàng Nhà nước các thành
phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hồ Chí
Minh và Cần Thơ.
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng được thiết lập hoạt động xử lý thanh
toán đồng thời gồm ba tiểu hệ thống: Tiểu
hệ thống thanh toán giá trị cao (HVSS)
VẤN ĐỀ HÔM NAY
15Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
với giá trị xử lý thanh toán trên 500 triệu
đồng, Tiểu hệ thông giá trị thấp với giá trị
thanh toán dưới 500 triệu đồng không đòi
hỏi cấp thiết về thời gian, Tiểu hệ thống
xử lý tài khoản thanh toán (tiểu hệ thống
xử lý quyết toán vốn).
Thành viên tham gia hệ thống thanh
toán điện tử liên ngân hàng là tất cả các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán trong
toàn quốc và phải tuân thủ các điều kiện
nhất định của hệ thống thanh toán này.
Theo báo cáo tại cuộc họp báo của
Ngân hàng Nhà nước ngày 7/1/2019, thì
hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
đã và đang vận hành với hiệu quả tốt, đảm
bảo an toàn, thông suốt, thanh toán bù trừ
đã hoàn thiện và đưa vào vận hành chính
thức từ năm 2008.
Cuối tháng 12/2018, hệ thống thanh
toán điện tử liên ngân hàng đã xử lý
137.544 giao dịch với giá trị 73 triệu tỷ
đồng, gấp 13 lần, GDP tương ứng tăng
25% so với năm 2017 tăng 24%. Số lượng
và giá trị giao dịch bình quân hệ thống
xử lý đạt trên 544.000 giao dịch/ngày với
trên 289.000 tỷ đồng/ngày.
Đến cuối tháng 9/2018, toàn quốc đã
cài đặt 18.173 máy ATM, 296.000 máy
POS tăng tương ứng 4,5% và tăng 13,5%
so cùng kỳ năm 2017.
Thanh toán thẻ nội địa đạt 167 triệu
giao dịch, tăng 21% so cùng kỳ năm 2017,
với giá trị giao dịch đạt 442.000 tỷ đồng.
Về thanh toán điện tử qua internet,
tính đến tháng 9/2018, số lượng giao dịch
tài chính trên mạng đạt 178 triệu giao
dịch, với giá trị 11 triệu tỷ đồng, tương
ứng tăng 33% và tăng 18% so với cùng
kỳ năm 2017. Giao dịch qua kênh điện
thoại di động là 122 triệu giao dịch, với
giá trị 1,1 triệu tỷ đồng, tăng 29% về số
lượng giao dịch và giá trị tăng 128% so
với cùng kỳ năm 2017.
e) Những biện pháp chủ yếu nhằm
phòng ngừa, hạn chế rủi ro
Nhiều biện pháp khác nhau được sử
dụng nhằm đảm bảo an toàn trong thanh
toán điện tử. Có thể chia thành ba nhóm
chính:
- Nhóm biện pháp bảo vệ. Các biện
pháp bảo vệ được sử dụng nhằm làm cho
sự xâm nhập từ bên ngoài vào một trong
những cấu phần của hệ thống thanh toán
điện tử bị ngăn cản trước khi một gian lận
có thể thực hiện được. Các thiết bị điện
tử được sử dụng trong các phương tiện
thanh toán điện tử trước tiên phải chống
lại sự xâm phạm từ bên ngoài. Đối với hệ
thống thẻ, việc xử lý liên quan đến sự an
toàn được thiết kế phần bên trong của thẻ,
chẳng hạn như các thẻ thông minh chứa
một mạch vi xử lý có chức năng này. Các
thiết bị đảm bảo an toàn cho người bán
cũng có thể là một thể thông minh. Một
cấu phần máy tính có chức năng an toàn
được cài đặt vào thiết bị ngoại vi xử lý
thanh toán của người bán,
Mật mã là một trong những cấu phần
quan trọng nhất trong việc ngăn chặn
gian lận trong tất cả hệ thống tiền điện
tử hiện hành.
Các hệ thống tiền điện tử có thể đưa
ra nhiều tầng bảo vệ bổ sung nhằm chống
lại các hành vi gian lận, ngăn ngừa sự cố
thiết bị,
Các biện pháp phát hiện. Tại hầu
hết các hệ thống, bản thân thiết bị lưu lại
thông tin đầy đủ hoặc vắn tắt về những
giao dịch đã thực hiện. Các thông tin được
thực hiện này sau đó có thể đọc được từ
một hệ thống trung tâm hoặc những giao
dịch có nghi ngờ để có thể kiểm tra bất
thường .
Các biện pháp kiềm chế. Các danh
sách nóng ghi lại số seri của các thiết bị có
nghi ngờ do nhà vận hành hệ thống cung
VẤN ĐỀ HÔM NAY
16Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
cấp và nó cũng có thể được cung cấp cho
người bán để ngăn chặn các khoản chi trả
từ các thiết bị có nghi ngờ.
- Nhóm biện pháp quản lý rủi ro đối
với người tham gia thanh toán. Các khách
hàng tham gia thanh toán điện tử phải áp
dụng các biện pháp tự bảo vệ, như đảm
bảo an toàn thẻ, máy tính cá nhân có lưu
thiết bị điện tử, các chìa khóa mật mã, mã
số nhận dạng để truy cập, giới hạn số tiền
mà họ lưu giữ,
- Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro
đối với nhà phát hành tiền điện tử. Các
nhà phát hành thiết lập một cơ chế kiểm
soát nội bộ đủ mạnh để ngăn chặn sự gian
lận nội bộ, thiết kế các biện pháp và thủ
tục đảm bảo an toàn nghiêm ngặt, ngăn
chặn sự lừa đảo, đảm bảo an toàn
Ngày nhận bài: 20/7/2019
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ. Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không
dùng tiền mặt. Hà Nội, 2012.
2. Tạp chí Ngân hàng số 22. Hà Nội, 2018.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Báo cáo kết quả thanh toán điện tử ngân hàng tại
cuộc họp ngày 7/1/2019. Hà Nội, 2017.
4. Đề tài khoa học cấp ngành. Mã số KNH-2001-15.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_thanh_toan_dien_tu_qua_ngan_hang_trong_su_phat_trien.pdf