Bàn về thị trường khoa học và công nghệ hay thị trường công nghệ
Thứ ba, đối với chủ trương chuyển viện nghiên cứu sang hoạt động theo cơ
chế thị trường thì không nên cứng nhắc chỉ xem xét các viện thuộc lĩnh vực
nghiên cứu ứng dụng. Có thể tiến hành chuyển đổi cả những bộ phận hoạt
động nghiên cứu cơ bản mà có khả năng thương mại hóa sản phẩm. Chính
điều này đã được chú ý tới trong cải cách hệ thống viện nghiên cứu ở Trung
Quốc.
Mặt khác, những sản phẩm nghiên cứu khoa học trở thành hàng hóa thì
không có nghĩa đã loại trừ hoàn toàn vai trò Nhà nước. Do nghiên cứu cơ
bản có thể gắn với sản xuất và mang lại ý nghĩa thực tiễn, và nghiên cứu cơ
bản không phải quá nhiều như nhiều người nghĩ (trái lại là quá ít trước đòi
hỏi của sự phát triển), bởi vậy, nhiều chính phủ đang tích cực đầu tư mạnh
cho nghiên cứu cơ bản. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học của nhà nước được
đặt trong mối quan hệ bổ sung lẫn nhau với đầu tư của doanh nghiệp.
Thứ tư, chủ động trước các quan hệ tiêu cực nảy sinh trong nghiên cứu khoa
học. Đang xuất hiện các hiện tượng như biến sản phẩm khoa học thành của
riêng, chạy theo những nghiên cứu mang lại lợi nhuận lớn bất chấp khía
cạnh đạo đức, “tập tục giữ bí mật” phát triển trong các tổ chức KH&CN,
ngăn cản tự do thông tin,. Không thể phủ nhận hậu quả của các hiện tượng
này3. Đồng thời cần coi các tiêu cực trên như là mặt trái/ khuyết tật của thị
trường và tìm cách giải quyết chúng thông qua các biện pháp thị trường.
Như vậy, cần chấp nhận khái niệm thị trường KH&CN, và coi sự phân biệt
thị trường KH&CN và thị trường công nghệ không chỉ là vấn đề về câu chữ,
trái lại phân biệt này liên quan tới xử lý các vấn đề đang diễn ra trên thực tế.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 286 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về thị trường khoa học và công nghệ hay thị trường công nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JSTPM Vol 1, No 2, 2012 71
BÀN VỀ THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
HAY THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ
Xuân Minh
Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
Tóm tắt:
Việc xem xét sản phẩm nghiên cứu khoa học có là hàng hóa hay không phải bám sát vào sự
vận động, phát triển theo lịch sử. Trên thực tế, bản thân khoa học và công nghệ (KH&CN)
hiện nay đang có những biến đổi mạnh mẽ theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu cơ
bản và nghiên cứu ứng dụng, KH&CN,... Cùng với đó, đã dần xuất hiện tính chất hàng hóa
và quan hệ thị trường trong sản phẩm nghiên cứu khoa học.
Vấn đề sản phẩm nghiên cứu khoa học là hàng hóa và tồn tại thị trường KH&CN không chỉ
có ý nghĩa học thuật thuần túy, mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng như liên quan
tới các vấn đề về môi trường pháp lý mới phù hợp với trao đổi sản phẩm nghiên cứu,
phương thức quản lý phù hợp với từng ngành khoa học,...
Hiện nay ở nước ta đang có tranh luận về thị trường KH&CN hay thị trường
công nghệ. Không chỉ giới học thuật mà cả trong các văn bản chính thức
cũng có sự khác nhau. Trong khi Luật KH&CN, được Quốc hội Khóa X
thông qua ngày 08/6/2000 tại kỳ họp lần thứ 7, dùng thuật ngữ “thị trường
công nghệ” (tại Điều 33), thì trong các văn kiện của Đảng vẫn có thuật ngữ
“thị trường KH&CN”.
Xoay quanh những tranh luận về thị trường KH&CN hay thị trường công
nghệ có thể quy về 3 loại ý kiến. Ý kiến thứ nhất cho rằng chỉ có thị trường
công nghệ bởi khoa học không thể trở thành hàng hóa. Ý kiến thứ hai cho
rằng đây là quy ước nên gọi thế nào cũng được, không nên quá câu nệ vào
câu chữ. Ý kiến thứ ba khẳng định sự tồn tại của thị trường KH&CN, và
khoa học cũng có thể trao đổi mua bán.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy sự xuất hiện của mỗi loại hàng hóa và thị
trường phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Sản phẩm tiêu dùng đã có
lúc không phải là hàng hóa nhưng sau đó trở thành hàng hóa và xuất hiện thị
trường hàng hóa tiêu dùng. Điều đó diễn ra tương tự đối với sức lao động,
đất đai,... Việc xem xét sản phẩm nghiên cứu khoa học có là hàng hóa hay
không cũng không thể chỉ dựa vào những ví dụ của thời kỳ xa xưa (giống
Bàn về thị trường KH&CN hay thị trường công nghệ 72
như dẫn chứng thường được nêu ra là không ai đi mua định luật Newton
cả...), mà phải bám sát vào sự vận động, phát triển theo lịch sử.
Trên thực tế, bản thân KH&CN hiện nay đang có những biến đổi mạnh mẽ
theo hướng nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, KH&CN có xu
hướng kết hợp rất chặt chẽ với nhau. Ám chỉ hiện tượng này, các nhà nghiên
cứu đã đưa ra những khái niệm như “công nghệ hóa khoa học, khoa học hóa
công nghệ”, “nửa khoa học, nửa công nghệ”, “cộng sinh giữa khoa học
thuần tuý và khoa học ứng dụng”, “khoa học kiểu Jefferson”, “ứng dụng hóa
khoa học cơ bản, cơ bản hóa khoa học ứng dụng”19[1].
Đằng sau các khái niệm mới lạ là những nội dung cụ thể như:
- Nền công nghệ hiện đại hoàn toàn được xây dựng trên cơ sở lý luận
khoa học. Đồng thời, nền khoa học hiện đại cũng được trang bị những
thiết bị kỹ thuật hiện đại;
- Nghiên cứu cơ bản có vai trò quan trọng trong đổi mới công nghệ mũi
nhọn. Nó giúp cho người ta lựa chọn tinh tường thứ công nghệ cần thiết
trong số muôn vàn các công nghệ khác nhau. Robert Galvin, cựu chủ
tịch - tổng giám đốc Motorola rất coi trọng việc soạn thảo “những bản
đồ lộ trình công nghệ” để giúp các doanh nghiệp lớn xác định chiến lược
công nghệ. Những bản lộ trình này mô tả các cải tiến công nghệ trong
tương lai mà kiến thức khoa học hiện nay cho phép và cho phép lựa
chọn công nghệ nào có nhiều tiềm năng phát triển hơn cả. Một ví dụ
khác là trong những năm 1970 và đầu những năm 1980, Ralph Gomory,
lúc đó là giám đốc nghiên cứu của IBM, đã thành lập các nhóm nghiên
cứu chuyên trách thu thập những kiến thức khoa học để giúp hãng có
được các công nghệ hiện đại. Những nhóm này đã khuyến nghị IBM từ
bỏ mạch nối siêu dẫn Josephson, vốn là giải pháp thay thế triệt để cho
cách sử dụng truyền thống chất bán dẫn bằng silic trong vi mạch...;
- Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng kết hợp với nhau trong mục
tiêu nhất định. Ngoại trừ một vài ngành (như vật lý phân tử, vũ trụ học
và một số lĩnh vực toán học thuần túy) là có thể xác định được chương
trình nghiên cứu theo chủ đề không cần quan tâm về ứng dụng kinh tế
hay xã hội sau đó. Còn nhìn chung, định hướng của nghiên cứu cơ bản
phải nhằm tạo ra các sản phẩm hoặc kiến thức đem lại lợi nhuận cao và
có giá trị đối với xã hội; đồng thời nghiên cứu ứng dụng đã cung cấp
công cụ mới giúp cho nghiên cứu cơ bản có được các bước tiến mạnh
mẽ;
1 Xem: Người đưa tin UNESCO 5/99, tr.10
JSTPM Vol 1, No 2, 2012 73
- Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng thống nhất với nhau trong
mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Trong khoảng thời
gian ngắn, một số nghiên cứu cơ bản chưa chắc chắn sẽ dẫn tới những
đổi mới công nghệ. Nhưng về lâu dài, nếu không có nguồn cung cấp
kiến thức do nghiên cứu cơ bản đem lại, thì đổi mới sẽ không thể tiếp
tục;
- Trong khi vẫn tiếp tục giữ nguyên phương hướng nghiên cứu ngày càng
đi sâu vào bản chất của thế giới vật chất, thì khoa học cơ bản ngày nay
đồng thời lại đang tiến gần và xâm nhập vào lĩnh vực nghiên cứu ứng
dụng thông qua sự phát triển đa phương, đa diện, đa mục đích. Ngược
với phương hướng đưa các nghiên cứu cơ bản lại gần các nghiên cứu
ứng dụng, trong phát triển các khoa học ứng dụng ngày nay cũng nổi lên
một phương hướng mới là cơ bản hóa các khoa học ứng dụng. Các bộ
môn khoa học - kỹ thuật mới hình thành gần đây, trong khi vẫn giữ
nguyên hướng kỹ thuật, cũng đang trở thành các bộ môn lý thuyết, cơ
bản;
- Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng là những phần của quá trình
liên tục, đan xen và nhiều khi các ranh giới trở nên rất mờ nhạt. Xét về
một khía cạnh, việc khám phá ra enzyme cắt và nối các nucleotide ADN
là kết quả của sự khao khát muốn hiểu biết cách thức các tế bào làm việc
ở mức độ phân tử và là một thành tựu nổi bật của khoa học cơ bản.
Nhưng ở khía cạnh khác, những phát hiện tương tự đã ngay lập tức tạo
ra công nghệ then chốt, xây dựng nên cả một ngành công nghiệp mới là
“công nghệ sinh học”. Cũng không dễ dàng có được định nghĩa chính
xác về công nghệ nano. Một số nanotech không phải là nano, khi hoạt
động ở thang micro, tức 1000 lần lớn hơn, có khi nanotech không phải là
công nghệ, vì nó liên quan tới các nghiên cứu cơ bản ở những cấu trúc
có ít nhất một chiều từ một tới hàng trăm năm. Một ví dụ khác nữa,
muốn sử dụng tia lazer trong liên lạc viễn thông, các nhà khoa học phải
tìm cách chế tạo các sợi thuỷ tinh tinh khiết. Họ phải tiến hành những
công trình nghiên cứu cơ bản về tính chất những khuyết tật hoặc những
tạp chất của thuỷ tinh để nhằm vào các mục đích thực tiễn rất cụ thể.
Cùng với những biến đổi trên, cũng dần xuất hiện tính chất hàng hóa và
quan hệ thị trường trong sản phẩm nghiên cứu khoa học.
Đã có nhu cầu về sản phẩm nghiên cứu khoa học từ phía các doanh nghiệp.
Nhu cầu thị trường về khoa học gắn liền với ích lợi trực tiếp mà khoa học
mang lại cho kinh doanh. Chẳng hạn, trong công nghệ sinh học, những kiến
thức về cấu trúc của tế bào sống và gen trước kia chỉ liên quan tới môn sinh
học thuần tuý, thì nay có thể nhanh chóng biến thành các dược phẩm đắt
tiền hoặc các công nghệ y học để phát hiện bệnh tật.
Bàn về thị trường KH&CN hay thị trường công nghệ 74
Đã có những nguồn cung sản phẩm nghiên cứu khoa học mang tính chất thị
trường. Không chỉ phát triển công nghệ hay nghiên cứu ứng dụng mà cả
nghiên cứu cơ bản cũng được diễn ra trong các phòng thí nghiệm của những
doanh nghiệp năng động về công nghệ. Có khá nhiều cơ sở công nghiệp tư
nhân tham gia vào nghiên cứu cơ bản. Lập luận của các cơ sở công nghiệp
tư nhân này rất sòng phẳng: nếu công ty đã trả tiền cho một phát kiến khoa
học bằng cách tài trợ cho nhà nghiên cứu, thì công ty có quyền làm cho đầu
tư của mình sinh lời bằng cách đòi những người khác phải thanh toán tiền
khi sử dụng những phát kiến đó.
Thực tế cũng đang tồn tại một số sản phẩm nghiên cứu khoa học dưới dạng
sở hữu tư nhân. Trong công nghệ thông tin, những công thức toán học vốn
được coi là quá trừu tượng, không thể là tài sản tư nhân, thì nay thông qua
việc xử lý thông tin dựa vào những máy điện toán siêu mạnh và thuật toán
rất phức tạp mà trở thành của riêng.
Mối quan hệ trong nghiên cứu khoa học cũng gần gũi với kinh doanh thị
trường. Các ngành khoa học tăng cường liên kết chặt chẽ với nhau. Sự xâm
nhập của giới kinh doanh vào hoạt động nghiên cứu đã có tác dụng phá bỏ
những ranh giới văn hóa thông thường giữa các môi trường nghiên cứu khác
nhau. Ngày càng nhiều các chương trình nghiên cứu mới được lập ra bởi
những nhóm nhà khoa học đa ngành. Không chỉ có sự tương tác giữa các
ngành khoa học tự nhiên với nhau, giữa khoa học tự nhiên và khoa học công
nghệ để cùng giải quyết các vấn đề của sản xuất mà còn nổi bật cả mối quan
hệ khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ với khoa học xã hội. Quan hệ
giữa khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ và khoa học xã hội vừa là định
hướng, vừa là điều kiện đảm bảo gắn kết bền vững giữa nghiên cứu khoa
học và sản xuất.
Trên thực tế, hiện đang nổi lên xu hướng xem xét lại ranh giới phân biệt
dường như quá hiển nhiên giữa “phát kiến khoa học” (không thể cấp bằng
sáng chế) và “sáng chế kỹ thuật” (có thể cấp bằng). Cơ sở của việc đặt lại
vấn đề là ngày nay một phát kiến khoa học có thể nhanh chóng tiến tới một
sản phẩm công nghệ và đem lại lợi nhuận to lớn.
Ngoài ra, khoa học đang ngày càng mang dáng dấp của một ngành kinh tế.
Ngành này tập hợp các yếu tố cần thiết, hình thành nên các “công xưởng
khoa học” và các “nhà máy khoa học” và từ băng chuyền của chúng sản
xuất ra hàng loạt sản phẩm khoa học cung cấp cho các nhà sản xuất, nhà
kinh doanh2. Việc vận hành nghiên cứu khoa học như một ngành kinh tế
xem ra hoàn toàn phù hợp với kinh nghiệm lịch sử. Đó là mỗi khi hình
thành yếu tố mới tham gia vào lực lượng sản xuất thì liền tiếp theo xuất hiện
2 Xem thêm: Viện Thông tin KHXH, Tài liệu phục vụ nghiên cứu, TN 2002 - 78&79, tr.4
JSTPM Vol 1, No 2, 2012 75
một ngành kinh tế mới: công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng... Từ đây,
có thể đồng ý với nhận định cho rằng đang xuất hiện phân công lao động xã
hội lần thứ tư với đặc trưng là nghiên cứu khoa học được tách ra khỏi hệ
thống sản xuất xã hội thành một ngành kinh tế.
Như vậy, nói sản phẩm nghiên cứu khoa học có là hàng hóa hay không và
tồn tại thị trường KH&CN hay không thì phải đặt trong bối cảnh phát triển
mạnh mẽ hiện nay của KH&CN và mối quan hệ giữa KH&CN với sản xuất.
Đồng thời, tính chất hàng hóa và thị trường thể hiện ở những khía cạnh,
quan hệ và giới hạn/ mức độ cụ thể.
Cũng như hàng hóa và thị trường nói chung, sản phẩm nghiên cứu khoa học
trở thành hàng hóa và xuất hiện thị trường KH&CN là hiện tượng khách
quan, ngoài ý muốn chủ quan của chúng ta. Ở đây không thích hợp để bàn
về các lập luận kiểu “Nếu coi sản phẩm nghiên cứu khoa học là hàng hóa thì
sẽ rất nguy hiểm”. Tuy nhiên vẫn cần xác định rõ tác dụng và khuyết tật của
hàng hóa sản phẩm nghiên cứu khoa học để có phương thức quản lý. Vấn đề
sản phẩm nghiên cứu khoa học là hàng hóa và tồn tại thị trường KH&CN
không chỉ có ý nghĩa học thuật thuần túy, mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất
quan trọng.
Trước hết, cần có môi trường pháp lý mới phù hợp với trao đổi sản phẩm
nghiên cứu. Việc tư nhân tham gia vào nghiên cứu cơ bản đang có tác động
ảnh hưởng hệ thống luật. Simon Cohen, luật gia chuyên về “Luật về bằng
sáng chế” của Công ty Taylo Johnson Carrett có trụ sở tại Luân Đôn, cho
rằng: “Trong thực tế, những lĩnh vực như di truyền và công nghệ thông tin,
sự phân biệt giữa sáng chế công nghệ và phát kiến khoa học không còn có ý
nghĩa nữa”. Quan điểm này ngày càng được các tòa án của các nước công
nghiệp phát triển chấp nhận. Chẳng hạn các tòa án Mỹ và Châu Âu đã cấp
bằng cho kiến thức về các chuỗi hóa học làm nền cho gen con người hay
loài vật, vì cho đây là một “phát hiện” quan trọng không bị ai phản bác (nó
đã được công bố trên những tạp chí khoa học có uy tín). Các tòa án chỉ bảo
lưu một ý: cần phải chứng minh rằng kiến thức đó thực sự có giá trị thương
mại tiềm tàng - điều này không phải là khó, ví dụ như đối với kiến thức về
gen, người ta biết là có liên quan đến bệnh ung thư vú... Các tòa án cũng tán
thành việc cấp bằng sáng chế cho các thuật toán.
Thứ hai, cần có phương thức quản lý phù hợp với từng ngành khoa học.
Những ngành khoa học đang có các bước ngoặt lớn như công nghệ sinh học
và công nghệ thông tin,... thì cần thiết và có thể quản lý hoạt động nghiên
cứu thông qua cơ chế thị trường. Thông qua cơ chế thị trường để thực hiện
các quan hệ cân đối, trả lời cho câu hỏi nghiên cứu cái gì, nghiên cứu bao
nhiêu và nghiên cứu như thế nào.
Bàn về thị trường KH&CN hay thị trường công nghệ 76
Thứ ba, đối với chủ trương chuyển viện nghiên cứu sang hoạt động theo cơ
chế thị trường thì không nên cứng nhắc chỉ xem xét các viện thuộc lĩnh vực
nghiên cứu ứng dụng. Có thể tiến hành chuyển đổi cả những bộ phận hoạt
động nghiên cứu cơ bản mà có khả năng thương mại hóa sản phẩm. Chính
điều này đã được chú ý tới trong cải cách hệ thống viện nghiên cứu ở Trung
Quốc...
Mặt khác, những sản phẩm nghiên cứu khoa học trở thành hàng hóa thì
không có nghĩa đã loại trừ hoàn toàn vai trò Nhà nước. Do nghiên cứu cơ
bản có thể gắn với sản xuất và mang lại ý nghĩa thực tiễn, và nghiên cứu cơ
bản không phải quá nhiều như nhiều người nghĩ (trái lại là quá ít trước đòi
hỏi của sự phát triển), bởi vậy, nhiều chính phủ đang tích cực đầu tư mạnh
cho nghiên cứu cơ bản. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học của nhà nước được
đặt trong mối quan hệ bổ sung lẫn nhau với đầu tư của doanh nghiệp.
Thứ tư, chủ động trước các quan hệ tiêu cực nảy sinh trong nghiên cứu khoa
học. Đang xuất hiện các hiện tượng như biến sản phẩm khoa học thành của
riêng, chạy theo những nghiên cứu mang lại lợi nhuận lớn bất chấp khía
cạnh đạo đức, “tập tục giữ bí mật” phát triển trong các tổ chức KH&CN,
ngăn cản tự do thông tin,... Không thể phủ nhận hậu quả của các hiện tượng
này3. Đồng thời cần coi các tiêu cực trên như là mặt trái/ khuyết tật của thị
trường và tìm cách giải quyết chúng thông qua các biện pháp thị trường.
Như vậy, cần chấp nhận khái niệm thị trường KH&CN, và coi sự phân biệt
thị trường KH&CN và thị trường công nghệ không chỉ là vấn đề về câu chữ,
trái lại phân biệt này liên quan tới xử lý các vấn đề đang diễn ra trên thực tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải. (1998) Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng
khoa học - công nghệ. H.: NXB Chính trị Quốc gia, tr.101.
2. Nền kinh tế học hỏi và chính sách đổi mới. Tổng luận Khoa học - Kỹ thuật - Kinh tế, số
12/99.
3. Quản lý công nghệ và phát triển. Tổng luận Khoa học - Kỹ thuật - Kinh tế, số 1/99.
3 Chẳng hạn, "tập tục giữ bí mật" (những nhà nghiên cứu trong những phòng thí nghiệm ở cạnh nhau cũng ngại
thảo luận về vấn đề đã tìm ra được, tạo nên sự im lặng lớn bao trùm các trường đại học) gần đây đã là chủ đề một
cuộc hội thảo do Viện Công nghệ Massachusetts và Hiệp hội Mỹ vì sự tiến bộ khoa học cùng tổ chức. Trong cuộc
hội thảo, đã có các ý kiến đáng lưu ý, Alan Goldhammer thuộc Tổ chức Công nghệ công nghiệp sinh học đã tuyên
bố: "Một phần của vấn đề là hệ quả của việc có những học giả nghĩ rằng “ơn Chúa, tôi sắp giầu có rồi!”; John
Deutch, cựu giám một bộ môn khoa học của Viện Công nghệ Massachusetts đã coi việc giữ bí mật là “nguy cơ lớn
đối với khoa học... trái với mục đích, lý do tồn tại các trường đại học”.
JSTPM Vol 1, No 2, 2012 77
4. Ban thư ký OECD. (2002) Tiến tới nền kinh tế tri thức: những xu thế gần đây và định
hướng chính sách của OECD. Báo cáo trình bày tại hội thảo OECD - IPS về "Thúc đẩy
nền kinh tế tri thức ở Châu Á", Singapore, 21-22/11/2002.
5. Sáng chế và đổi mới: Xu hướng và những thách thức về chính sách. Tổng luận Khoa
học - Công nghệ - Kinh tế số 12/2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_thi_truong_khoa_hoc_va_cong_nghe_hay_thi_truong_cong.pdf