Thứ ba, BLTTHS năm 2015 quy định
thời gian lấy lời khai, hỏi cung không được
quá hai giờ trong một lần, không được
quá hai lần trong một ngày là phù hợp.
Tuy nhiên, theo chúng tôi cần bổ sung
quy định về khoảng thời gian giữa hai lần
hỏi cung, lấy lời khai nhằm tránh việc hỏi
cung thông qua giờ trưa, bỏ đói người bị
tạm giữ, bị can (một hình thức nhục hình
biến tướng), hoặc dù vẫn đảm bảo việc lấy
lời khai, hỏi cung hai lần trong một ngày
nhưng thời gian quá sát nhau và hình thức
được thể hiện bằng biên bản lấy lời khai,
hỏi cung. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe, tinh thần của người
dưới 18 tuổi. Do đó, tác giả kiến nghị bổ
sung khoảng cách giữa hai lần hỏi cung,
lấy lời khai để đảm bảo tính chặt chẽ.
Thứ tư, bổ sung quy định trong trường
hợp người đại diện theo pháp luật, đại diện
của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo dưới 18
tuổi học tập, sinh hoạt vắng mặt có lí do
chính đáng thì Tòa án phải ra quyết định
hoãn phiên tòa xét xử. Bởi nếu không quy
định như vậy sẽ dẫn đến trường hợp, Tòa
án sẽ không có căn cứ để hoãn phiên tòa khi
những người này vắng mặt có lí do chính
đáng. Hơn nữa, việc tham gia của người đại
diện theo pháp luật, đại diện nhà trường, tổ
chức trong những vụ án có người dưới 18
tuổi tham gia tố tụng vừa bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi,
vừa thể hiện sự đặc biệt so với các thủ tục tố
tụng thông thường khác. Trong trường hợp
những người này cố ý vắng mặt mà không
có lí do chính đáng thì phiên tòa vẫn được
tiếp tục nhưng phải ghi rõ lí do vắng mặt
vào biên bản phiên tòa. Song song với quy
định này, cần có những hướng dẫn cụ thể
của các cơ quan có thẩm quyền về những
trường hợp “có lí do chính đáng” và “không
có lí do chính đáng”(1) Phiên toà xét xử bị
cáo là người chưa thành niên phải có mặt
người đại diện theo pháp luật của bị cáo,
đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo
học tập, sinh hoạt. Trong trường hợp những
người này vắng mặt mà có lí do chính đáng
thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa;
trong trường hợp cố ý vắng mặt mà không
có lí do chính đáng thì vẫn tiếp tục phiên tòa
nhưng phải ghi rõ lí do vắng mặt vào biên
bản phiên tòa.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Việt Nam sớm tham gia Công ước về quyền trẻ
em và thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó
đặc biệt quan tâm đến đối tượng trẻ em
vi phạm pháp luật, nhất là trường hợp
người dưới 18 tuổi, hay còn gọi là người
chưa thành niên phạm tội. Chính sách
hình sự của Nhà nước ta đối với người
chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm
giáo dục, giúp đỡ họ nhận ra và sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh để trở
thành công dân có ích cho xã hội. Chính
vì vậy, thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên phạm tội được quy định
thành một chương riêng (Chương XXXII)
trong BLTTHS năm 2003 nhằm đảo bảo
thủ tục tố tụng quy định phù hợp với lứa
tuổi này. Thủ tục này đóng vai trò quan
trọng trong việc giải quyết những vụ án
hình sự có người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành
niên; qua thực tiễn thi hành, đã phát huy
hiệu lực, hiệu quả, góp phần tích cực
trong đấu tranh, xử lý tội phạm người
chưa thành niên. Mặc dù vậy, đứng trước
yêu cầu đổi mới, thủ tục tố tụng đối với
người chưa thành niên cần tiếp tục được
sửa đổi, bổ sung toàn diện để bảo đảm
việc xử lý người chưa thành niên phạm
tội được khách quan, chính xác, nhân
đạo hơn, thể hiện đúng đắn chính sách
hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội trong tình hình mới(1). Thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên
được quy định tại Chương XXVIII, Phần
thứ bảy (Thủ tục đặc biệt) trong BLTTHS
* Thạc sĩ, Phó Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân
tỉnh Thanh Hóa
1 PGS.TS Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), “Những nội dung
mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, 2016
BÀN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
LÊ VĂN ĐÔNG *
Đáp ứng yêu cầu quốc tế về bảo đảm quyền của người dưới 18 tuổi hay còn
gọi là người chưa thành niên, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 tiếp
tục dành một chương riêng để quy định về thủ tục đối với người dưới 18 tuổi. Bài
viết đi sâu phân tích những quy định mới về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi trong BLTTHS năm 2015, từ đó đưa ra những kiến nghị đề xuất hoàn thiện
nhằm đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích cho họ.
Từ khóa: Thủ tục tố tụng, người dưới 18 tuổi.
After having met the international requirements for the rights assurance
of persons aged under 18 (so-called the juvenile), Criminal Procedure Code
(CPC) of 2015 continues to devote its whole specific chapter to the legal
proceedings for persons less than 18 years of age. The article is targeted
forward analyzing some advanced contents on the legal proceedings against
the juvenile in the CPC of 2015 and proposing some overall recommendations
in order to ensure the full rights and interests of the juvenile.
Keywords: Legal proceedings, persons less than 18 years of age.
LÊ VĂN ĐÔNG
13Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
năm 2015 với tên gọi là: “Thủ tục tố tụng
đối với người dưới 18 tuổi”, từ Điều 413
đến 430 với nhiều nội dung mới. Sau đây
tác giả xin được đi sâu phân tích những
quy định mới của BLTTHS năm 2015 về
thủ tục tố tụng đối với người phạm tội
là người chưa thành niên, từ đó đưa ra
những đánh giá, sửa đổi hoàn thiện hơn
nữa các quy định của pháp luật về người
chưa thành niên phạm tội.
1. Những quy định mới của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Thứ nhất, có thể nhận thấy ngay sự
khác biệt trong cách sử dụng thuật ngữ
giữa BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm
2015. Trong khi BLTTHS năm 2003 sử
dụng thuật ngữ “người chưa thành niên”
thì BLTTHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ
“người dưới 18 tuổi”, đều chỉ một nhóm
đối tượng là những những người chưa đủ
18 tuổi. Sự thay đổi trong cách sử dụng
thuật ngữ của BLTTHS năm 2015 nhằm
bảo đảm sự tương thích với Công ước
quốc tế về Quyền trẻ em và đồng bộ với
Luật Trẻ em năm 2016(1).
Thứ hai, lần đầu tiên trong BLTTHS
ghi nhận và quy định các nguyên tắc tiến
hành tố tụng giải quyết vụ án liên quan
đến người chưa thành niên. BLTTHS năm
2015 đã xây dựng một điều mới (Điều 414)
trong đó đã quy định đầy đủ, toàn diện 07
nguyên tắc mà cơ quan, người tiến hành tố
tụng phải quán triệt, tôn trọng và nghiêm
túc thực hiện khi tiến hành tố tụng đối với
1 . Vũ Thị Quyên, Nguyễn Thị Kiều Anh, “Thủ tục tố tụng
đối với bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí nhà nước và pháp
luật, Số 1 năm 2017.
những vụ án liên quan người chưa thành
niên, nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự(2). Các nguyên tắc
này được luật tố tụng hình sự đề ra nhằm
thể hiện quan điểm, chính sách nhân đạo
của Nhà nước, tạo điều kiện tối đa bảo
vệ quyền và lợi ích của người chưa thành
niên trong hoạt động giải quyết án hình
sự, vốn là hoạt động mang tính quyền lực
Nhà nước, có tính cưỡng chế và nghiêm
khắc. Cơ quan, người tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng phải
bắt buộc phải thực hiện nghiêm túc các
nguyên tắc này trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự liên quan đến người chưa
thành niên. Nghiêm cấm các hành vi vi
phạm hoặc thực thi không đầy đủ gây ảnh
hưởng hạn chế tới việc bảo đảm các quyền
và lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự.
Thứ ba, bổ sung quy định về việc xác
định tuổi của người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi. Trong thực tiễn thời gian
vừa qua, do BLTTHS năm 2003 không
quy định nên đã dẫn đến khó khăn trong
quá trình giải quyết khi không có căn cứ
để xác định rõ tuổi của người bị buộc tội,
làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với họ. Để giải quyết vấn đề này, các
cơ quan tư pháp Trung ương đã ban hành
văn bản hướng dẫn việc xác định tuổi của
người chưa thành niên phạm tội(3). Trên
cơ sở pháp điển hóa các văn bản hướng
dẫn hiện hành, để giải quyết triệt để các
2 . Xem Điều 414 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
3 . Thông tư 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTHS 2003 đối với người tham gia tố tụng là người
chưa thành niên.
BÀN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI...
14 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn áp
dụng, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy
định về việc xác định tuổi của người dưới
18 tuổi. Bảo đảm hợp lý nhất, phù hợp
nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội
là người chưa thành niên. Theo đó, việc
xác định tuổi của người bị buộc tội, người
bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực
hiện theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự(1). Có ý kiến cho rằng việc quy
định cách xác định tuổi của người bị hại
là người chưa thành niên tương ứng với
cách xác định tuổi của người chưa thành
niên phạm tội theo Điều 417 BLTTHS năm
2015 là không hợp lý, làm xấu đi tình trạng
của người bị buộc tội, vi phạm nguyên
tắc suy đoán vô tội(2). Theo đó, cần xác
định tuổi của người bị hại là người chưa
thành niên theo hướng dẫn của Thông
tư 01/2011 TTLT-VKSNDTC-TANDTC-
BCA-BTP-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành
một số quy định của BLTTHS 2003 đối
với người tham gia tố tụng là người chưa
thành niên(3). Chúng tôi không đồng tình
với quan điểm này, bởi lẽ việc quy định
cách xác định tuổi của người dưới 18 tuổi
phạm tội theo Điều 417 BLTTHS năm
2015 là nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
những người bị hại dưới 18 tuổi, phù hợp
với nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất
1 . Xem Điều 417 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
2 . Ths. Trần Thị Thu Hiền, Ths. Nguyễn Phương Anh,
“Một số điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về thủ
tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”, Tạp chí Tòa án
nhân dân kỳ 2 tháng 10/2016.
3 . Thông tư 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTHS 2003 đối với người tham gia tố tụng là người
chưa thành niên hướng dẫn xác định tuổi của người bị
hại là người chưa thành niên theo hướng có lợi cho người
bị buộc tội bằng cách xác định ngược lại với trường hợp
người chưa thành niên phạm tội.
của người dưới 18 tuổi” theo quy định tại
khoản 1 Điều 414 BLTTHS năm 2015. Mục
đích của việc xác định tuổi của người dưới
18 tuổi nhằm mục đích áp dụng các quy
định để hỗ trợ, bảo vệ lợi ích của người
dưới 18 tuổi trong quá trình giải quyết vụ
án. Mặt khác, khi cơ quan tố tụng không
chứng minh được tuổi của người bị hại
thì phải giải thích theo hướng có lợi cho
người bị buộc tội để bảo đảm nguyên tắc
suy đoán vô tội.
Thứ tư, nhằm đảm bảo việc áp dụng
biện pháp giám sát người chưa thành
niên bị buộc tội tại gia đình, nơi cư trú
được thực hiện hiệu quả, đúng mục đích,
BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ hơn
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng,
người đại diện của người chưa thành niên
tại Điều 418. Theo đó, đối với trường hợp
người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn
hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung
cấp tài liệu sai sự thật, tiêu hủy, giả mạo
chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu
tán tài sản liên quan đến vụ án: đe dọa,
khống chế, trả thù người làm chứng, bị
hại, người tố giác tội phạm hoặc người
thân thích của những người này hoặc tiếp
tục phạm tội thì người được giao nhiệm
vụ giám sát phải kịp thời thông báo và
phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng để có biện pháp ngăn chặn,
xử lý kịp thời.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung làm rõ hơn
điều kiện và yêu cầu đối với người tiến
hành tố tụng. Khi quy định về chủ thể
tiến hành tố tụng trong vụ án người chưa
thành niên, BLTTHS năm 2003 chỉ đề cập
đến các chủ thể: Điều tra viên, Kiểm sát
LÊ VĂN ĐÔNG
15Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
viên, Thẩm phán. Quy định như trên là
chưa đầy đủ và thiếu sót(1), vì vậy BLTTHS
năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung thêm một
số các chủ thể bằng quy định tại Điều 415:
“Những người tiến hành tố tụng đối với
vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người
đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm
trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên
quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết
cần thiết về tâm lý học, khoa học, giáo
dục, đối với người dưới 18 tuổi”. Cùng
với việc bổ sung thêm chủ thể tiến hành
tố tụng, BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa
hơn các điều kiện của người tiến hành tố
tụng: phải là người đã được đào tạo hoặc
có kinh nghiệm trong điều tra, truy tố,
xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18
tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
khoa học, giáo dục, đối với người dưới
18 tuổi. Quy định này đã khắc phục được
cách quy định chung chung, khó xác định
như Điều 302 BLTTHS năm 2003. Điều
302 BLTTHS năm 2003 chỉ quy định điều
kiện đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán là người có những hiểu biết
cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục
cũng như về hoạt động đấu tranh phòng,
chống tội phạm của người chưa thành
niên. Trên thực tế, xác định thế nào là có
những hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
khoa học giáo dục cũng như hoạt động
đấu tranh phòng, chống tội phạm rất khó
và không đồng nhất giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng và giữa các địa phương(2).
1 . Ngoài các chủ thể trên, trong quá trình giải quyết vụ án
đối với người chưa thành niên còn có thể có Hội thẩm, Cán
bộ điều tra, Kiểm tra viên, Bộ đội biên phòng, Hải quan,
2 . Ths. Trần Thị Thu Hiền, Ths. Nguyễn Phương Anh,
“Một số điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về
thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”, tạp chí Tòa án
nhân dân kỳ 2 tháng 10/2016.
Thứ sáu, đổi mới việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Để
bảo đảm thực hiện đúng tinh thần Công
ước quốc tế về quyền trẻ em, đồng thời
phù hợp với những quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017)(3). Với việc đổi mới việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn đối với người dưới
18 tuổi đã khắc phục được những bất cập
trong thời gian qua khi thi hành BLTTHS
năm 2003, đồng thời thể hiện rõ tính chất
nhân đạo của nhà nước ta, đảm bảo điều
kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế đều
nhẹ hơn so với các quy định đối với người
đã thành niên phạm tội.
Thứ bảy, bổ sung các quyền của người
đại diện, nhà trường, tổ chức khi tham gia
tố tụng. Trên cơ sở Điều 306 BLTTHS năm
2003, BLTTHS năm 2015 đã có sửa đổi, bổ
sung đầy đủ hơn các quyền khi tham gia
tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ
chức của người chưa thành niên tại Điều
420 BLTTHS năm 2015.
Thứ tám, đổi mới, quy định chặt chẽ
thủ tục lấy lời khai người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị hại, người làm
chứng, hỏi cung bị can; đối chất. Nhằm
bảo đảm các thủ tục lấy lời khai người
dưới 18 tuổi, hỏi cung bị can, tiến hành
đối chất người dưới 18 tuổi được thực
hiện phù hợp với độ tuổi, tâm sinh lý
của họ, đáp ứng yêu cầu của Công ước
quốc tế về quyền trẻ em đặt ra đối với
việc hoàn thiện các thủ tục tố tụng hình
sự liên quan đến người chưa thành niên.
BLTTHS năm 2015 đã quy định chặt chẽ
3 . Xem Điều 419 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
BÀN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI...
16 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
và toàn diện về các thủ tục này(1).
Thứ chín, bổ sung quy định rõ việc bảo
đảm quyền bào chữa. Điều 422 BLTTHS
năm 2015 đã quy định cụ thể về vấn đề
bào chữa của người chưa thành niên, loại
bỏ quy định mang tính tùy nghi “có thể”
mà BLTTHS năm 2003 thường sử dụng,
quy định cụ thể: Người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa; Người đại
diện của người dưới 18 tuổi bị buộc tội có
quyền lựa chọn người bào chữa hoặc tự
mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi bị
buộc tội; Trường hợp người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi không có người bào
chữa hoặc người đại diện của họ không
lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định
người bào chữa theo quy định tại Điều 76
của Bộ luật này.
Thứ mười, sửa đổi, bổ sung thủ tục
xét xử. Về thành phần Hội đồng xét xử sơ
thẩm vụ án, ngoài giáo viên hoặc cán bộ
Đoàn thanh niên, đã bổ sung đối tượng
là người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý
người dưới 18 tuổi cũng có thể tham gia
xét xử với tư cách là Hội thẩm nhằm mở
rộng, đa dạng hóa đối tượng tham gia Hội
thẩm, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét
xử vụ án người chưa thành niên. Trường
hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là
người dưới 18 tuổi thì Tòa án có thể quyết
định xét xử kín. Phiên tòa xét xử bị cáo là
người dưới 18 tuổi phải có mặt người đại
diện của bị cáo, đại diện của nhà trường,
tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt, trừ
trường hợp những người này vắng mặt
mà không vì lý do bất khả kháng hoặc
1 . Xem Điều 421 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
không do trở ngại khách quan. Việc xét
hỏi, tranh luận với bị cáo, bị hại, người
làm chứng là người dưới 18 tuổi tại phiên
tòa được tiến hành phù hợp với lứa tuổi,
mức độ phát triển của họ. Phòng xử án
được bố trí thân thiện, phù hợp với người
dưới 18 tuổi. Đối với vụ án có bị hại,
người làm chứng là người dưới 18 tuổi,
Hội đồng xét xử phải hạn chế việc tiếp
xúc giữa bị hại, người làm chứng với bị
cáo khi bị hại, người làm chứng trình bày
lời khai tại phiên tòa. Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa có thể yêu cầu người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
hỏi bị hại, người làm chứng. Khi xét xử,
nếu thấy không cần thiết phải quyết định
hình phạt đối với bị cáo thì Hội đồng xét
xử áp dụng biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng. Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao quy định chi tiết việc xét xử vụ án
có người dưới 18 tuổi của Tòa gia đình và
người chưa thành niên.
Thứ mười một, quy định mới về thẩm
quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện
pháp giám sát, giáo dục đối với người
chưa thành niên phạm tội được miễn
trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở các quy
định của BLTTHS năm 2015, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung
mới các quy định về thẩm quyền và trình
tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám
sát, giáo dục người chưa thành niên phạm
tội khi họ được miễn trách nhiệm hình sự
tại các điều 426, 427, 428, 429 và Điều 430.
Đây là một trong những nội dung đổi mới
cơ bản, quan trọng nhất, lần đầu tiên được
đề cập, ghi nhận trong BLTTHS năm 2015.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
LÊ VĂN ĐÔNG
17Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
về thủ tục tố tụng đối với người 18 tuổi
phạm tội
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, có
hiệu lực từ ngày 1/1/2018 về cơ bản đã
có những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên (người dưới 18 tuổi) phạm tội, đảm
bảo tính cụ thể, phù hợp trong các quy
định về trình tự, thủ tục, tạo thuận lợi
trong áp dụng tương đồng và thống nhất
với các quy định của Bộ luật hình sự về
xử lý trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội, đáp ứng tốt
các yêu cầu của cải cách tư pháp và hội
nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong BLTTHS
năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với
người dưới 18 tuổi vẫn còn một số điểm
cần nghiên cứu làm rõ:
Thứ nhất, mặc dù tại Điều 415 BLTTHS
năm 2015 đã bổ sung thêm một số các chủ
thể tiến hành tố tụng bằng cách sử dụng
thuật ngữ: “Những người tiến hành tố
tụng đối với vụ án” thay cho quy định
trong BLTTHS năm 2003: “Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán”. Người tiến
hành tố tụng bao gồm: Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Cán bộ điều tra; Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên; Chánh án, Phó Chánh án
Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa
án, Thẩm tra viên(1). Theo chúng tôi, việc
bổ sung chủ thể theo quy định của Điều
415 BLTTHS năm 2015 là chưa đầy đủ, khi
giải quyết các vụ án có người chưa thành
niên, còn có thể có sự tham gia của các cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra. Vì vậy, chúng tôi
1 . Xem Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
kiến nghị sửa đổi Điều 415 BLTTHS năm
2015 như sau:
“Điều 415. Người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là
người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm
điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi”.
Thứ hai, Điều 419 BLTTHS năm 2015
đã quy định rất chặt chẽ và cụ thể về việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội. Tuy nhiên, với cách quy
định về căn cứ áp dụng biện pháp tạm
giam đối với người dưới 18 tuổi sẽ gây
khó khăn, vướng mắc cho Cơ quan tiến
hành tố tụng. Theo quy định của BLTTHS
năm 2015 thì người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi có thể bị tạm giam trong trường
hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
nếu có căn cứ quy định tại các điểm a, b,
c, d và đ khoản 2 Điều 119 hoặc phạm tội
nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng
mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt
tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội,
bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Như vậy, BLTTHS năm 2015 đã bỏ sót
trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội
ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy
định phạt tù từ trên 2 năm đến 3 năm tù.
Với cách quy định này, BLTTHS 2015 một
lần nữa lại trở lại vấn đề vướng mắc trong
thực tiễn thời gian qua, khi không thể áp
dụng biện pháp tạm giam đối với họ mặc
dù đã áp dụng các biện pháp khác nhưng
vẫn vi phạm. Do đó, tác giả kiến nghị sửa
đổi khoản 4 Điều 419 BLTTHS năm 2015
BÀN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI...
18 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
như sau: “Đối với bị can, bị cáo từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít
nghiêm trọng thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm
giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị
bắt theo quyết định truy nã”.
Thứ ba, BLTTHS năm 2015 quy định
thời gian lấy lời khai, hỏi cung không được
quá hai giờ trong một lần, không được
quá hai lần trong một ngày là phù hợp.
Tuy nhiên, theo chúng tôi cần bổ sung
quy định về khoảng thời gian giữa hai lần
hỏi cung, lấy lời khai nhằm tránh việc hỏi
cung thông qua giờ trưa, bỏ đói người bị
tạm giữ, bị can (một hình thức nhục hình
biến tướng), hoặc dù vẫn đảm bảo việc lấy
lời khai, hỏi cung hai lần trong một ngày
nhưng thời gian quá sát nhau và hình thức
được thể hiện bằng biên bản lấy lời khai,
hỏi cung. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe, tinh thần của người
dưới 18 tuổi. Do đó, tác giả kiến nghị bổ
sung khoảng cách giữa hai lần hỏi cung,
lấy lời khai để đảm bảo tính chặt chẽ.
Thứ tư, bổ sung quy định trong trường
hợp người đại diện theo pháp luật, đại diện
của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo dưới 18
tuổi học tập, sinh hoạt vắng mặt có lí do
chính đáng thì Tòa án phải ra quyết định
hoãn phiên tòa xét xử. Bởi nếu không quy
định như vậy sẽ dẫn đến trường hợp, Tòa
án sẽ không có căn cứ để hoãn phiên tòa khi
những người này vắng mặt có lí do chính
đáng. Hơn nữa, việc tham gia của người đại
diện theo pháp luật, đại diện nhà trường, tổ
chức trong những vụ án có người dưới 18
tuổi tham gia tố tụng vừa bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi,
vừa thể hiện sự đặc biệt so với các thủ tục tố
tụng thông thường khác. Trong trường hợp
những người này cố ý vắng mặt mà không
có lí do chính đáng thì phiên tòa vẫn được
tiếp tục nhưng phải ghi rõ lí do vắng mặt
vào biên bản phiên tòa. Song song với quy
định này, cần có những hướng dẫn cụ thể
của các cơ quan có thẩm quyền về những
trường hợp “có lí do chính đáng” và “không
có lí do chính đáng”(1) Phiên toà xét xử bị
cáo là người chưa thành niên phải có mặt
người đại diện theo pháp luật của bị cáo,
đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo
học tập, sinh hoạt. Trong trường hợp những
người này vắng mặt mà có lí do chính đáng
thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa;
trong trường hợp cố ý vắng mặt mà không
có lí do chính đáng thì vẫn tiếp tục phiên tòa
nhưng phải ghi rõ lí do vắng mặt vào biên
bản phiên tòa.
Thứ năm, BLTTHS năm 2015 quy
định việc bắt quả tang người dưới 18
tuổi phạm tội theo quy định tại khoản 2,
3 Điều 419 là rất khó thực hiện trên thực
tế. Bởi người có thẩm quyền bắt người
phạm tội quả tang rất khó để xác định
tuổi cũng như loại tội phạm tại thời
điểm bắt người(2). Nếu chờ có đủ các căn
cứ quy định tại khoản 2, 3 Điều 419 thì
quy định về việc bắt người dưới 18 tuội
phạm tội quả tang sẽ mất đi ý nghĩa. Do
đó, chúng tôi kiến nghị bỏ quy định về
các điều kiện áp dụng biện pháp bắt quả
tang tại Điều 419 BLTTHS năm 2015./.
1 . PGS.TS. Đỗ Thị Phượng, “Các quy định về thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên trong dự thảo Bộ luật
tố tụng hình sự Việt Nam (sửa đổi)”, Tạp chí luật học số
12/2014.
2 . Vũ Văn Hùng, Huỳnh Thị Kim Ánh, “Hoàn thiện các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 12 năm 2013.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_thu_tuc_to_tung_doi_voi_nguoi_duoi_18_tuoi_pham_toi_t.pdf