Thứ nhất: Cần xác định lại các hành
vi thoả thuận HCCT bị coi là những hành vi
thoả thuận HCCT một cách nghiêm trọng.
Tuỳ vào chiến lược cạnh tranh của mỗi
thời kỳ, mà phạm vi nhóm các thoả thuận
hardcore cartel này sẽ là rộng hẹp khác
nhau, nhưng các thoả thuận về giá cả, sản
lượng, phân chia thị trường và vấn đề thông
đồng trong đấu thầu sẽ luôn là hạt nhân trong
nhóm hardcore cartel;
Xét trong tương quan với Điều 12 của
Dự thảo, cách tiếp cận của Ban soạn thảo đã
coi 6 thoả thuận trong Điều 11 Dự thảo chính
là các hardcore cartel19. Cho nên, nhằm phù
hợp với cách tiếp cận đó, cần phải sửa khoản
1 Điều 14 của Dự thảo như sau:
“1. Thỏa thuận HCCT quy định tại
khoản 2 Điều 12 của Luật này có thể được
miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong
các điều kiện sau đây và có lợi cho người
tiêu dùng:
a) Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ;
b) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế;
c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất
các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
d) Thoả thuận các điều kiện thực hiện
hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không
liên quan đến giá và các yếu tố của giá”.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về vấn đề miễn trừ đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong dự thảo luật cạnh tranh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phạm Hoài Huấn*
* ThS. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt:
Trong tương quan so sánh với Luật Cạnh tranh năm 2004, vấn đề
miễn trừ đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh (thoả thuận)
được quy định trong Dự thảo sửa đổi Luật Cạnh tranh ngày
05/03/2018 có nhiều thay đổi (Dự thảo)1. Bên cạnh đó, Dự thảo
còn có một số vấn đề cần tiếp tục được hoàn thiện, trong đó có quy
định về vấn đề miễn trừ đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
1 Dự thảo lần 4:
Summary:
In comparison with the Competition Law of 2004, the matter
of exemptions to competition restriction agreements (“the
agreements”) is contained in the revised Bill of the Competition
Law of March 5, (the Bill of law). In addition, the Bill of law
has some issues that need to be further improved, including the
provisions on exemptions to restrictive competition agreements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: miễn trừ các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, Luật Cạnh tranh năm
2004
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 19/03/2018
Biên tập : 09/04/2018
Duyệt bài : 16/04/2018
Article Infomation:
Keywords: exemption of competition
restriction agreements, Competition
Law of 2004
Article History:
Received : 19 Mar. 2018
Edited : 09 Apr. 2018
Approved : 16 Apr. 2018
BÀN VỀ VẤN ĐỀ MIỄN TRỪ ĐỐI VỚI CÁC THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG DỰ THẢO LUẬT CẠNH TRANH
1. Dẫn nhập
Các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh
tranh không phải lúc nào cũng gây nên
những tổn hại đến cạnh tranh và người tiêu
dùng. Trong những trường hợp nhất định,
các thỏa thuận này có thể mang lại giá trị
thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường. Một
trong những khía cạnh tích cực của các thỏa
thuận thúc đẩy cạnh tranh là các thỏa thuận
về nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
Chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D),
đặc biệt là tạo ra những sản phẩm mang tính
đột phá, thường là rất lớn. Chi phí lớn và rủi
ro cao chính là một trong những thách thức
lớn nhất của hoạt động R&D. Thế nên, việc
từng doanh nghiệp riêng lẻ thực hiện hoạt
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
26 Số 8(360) T4/2018
động này mang tính độc lập xét về khía cạnh
kinh tế là không hiệu quả. Đó cũng chính là
lý do thúc đẩy các doanh nghiệp thỏa thuận
cùng thực hiện các hoạt động R&D. Thực
tiễn pháp luật cạnh tranh các nước luôn coi
các thỏa thuận nghiên cứu và phát triển sản
phẩm là các thỏa thuận thúc đẩy cạnh tranh
hoặc sẽ dành cho các thỏa thuận này sự
miễn trừ2.
Tuy vậy, không phải thỏa thuận nào
cũng thúc đẩy cạnh tranh một cách rõ ràng
như các thỏa thuận R&D. Trên thực tế, các
thỏa thuận từ chối giao dịch với đối thủ là
một trong những thỏa thuận gây nhiều tranh
cãi nhất trong quá trình thực thi. Theo đó,
vẫn có nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến
việc nên coi các thỏa thuận từ chối giao dịch
với đối thủ là các thỏa thuận vi phạm pháp
luật cạnh tranh một cách mặc nhiên nên áp
dụng nguyên tắc lập luận hợp lý khi xử lý3.
Học giả Herbert Hovenkamp đã đưa
những lập luận thuyết phục liên quan đến
việc kiểm soát hành vi thỏa thuận từ chối
giao dịch. Giả định rằng có ba doanh nghiệp
cùng nhau thực hiện một dự án R&D, từ đầu
họ đã mời doanh nghiệp thứ tư tham gia,
nhưng doanh nghiệp này không đồng ý. Do
đó, dự án chỉ bao gồm ba doanh nghiệp. Sau
đó, dự án nghiên cứu thành công bắt đầu
phát huy giá trị thương mại. Tại thời điểm
này, doanh nghiệp thứ tư muốn được tham
gia vào quá trình này, thì cả ba doanh nghiệp
trên đã đồng loạt từ chối không cho doanh
nghiệp thứ tư tham gia4. Bản chất của các
hoạt động R&D là những hoạt động đầu tư
nghiên cứu mang tính mạo hiểm. Mấu chốt
của quá trình này chính là đối mặt với rủi ro
trong quá trình đầu tư để được hưởng lợi từ
sản phẩm mới sẽ mang tính đột phá hoặc tỷ
suất lợi nhuận cao trong tương lai. Cho nên,
nếu buộc các doanh nghiệp phải cho phép
2 Alison Jones, Brenda Sufrin (2011), EU Competition law: Text, cases, and materials, 4th Edition, Oxford University
Press, trang 253.
3 Các thỏa thuận từ chối giao dịch với đối thủ đôi khi còn được gọi là tẩy chay. Trong bài viết này, hai thuật ngữ này được
hiểu với cùng một nghĩa.
4 Herbert Hovenkamp (2005), Federal Antitrust Policy: The Law of Competition and Its Practice, 3rd Edition, Thomson/
West, trang 207.
doanh nghiệp thứ tư tham gia vào quá trình
sản xuất sản phẩm mới sẽ là bất công cho
các doanh nghiệp đã đối diện với rủi ro từ
đầu và cho phép doanh nghiệp thứ tư trục
lợi từ rủi ro của các doanh nghiệp khác một
cách bất chính. Trong hướng dẫn về chính
sách thực thi pháp luật cạnh tranh quốc tế
được ban hành năm 1998, Bộ Tư pháp Hoa
Kỳ cũng nhấn mạnh đến khía cạnh này liên
quan đến các thỏa thuận từ chối giao dịch.
Theo đó, việc buộc các liên doanh phải mở
ra cơ hội để các đối thủ cạnh tranh có thể
trở thành thành viên của liên doanh (hoặc
cấp license của các sản phẩm R&D của liên
doanh cho các doanh nghiệp đang muốn sở
hữu license) sẽ làm giảm đi động cơ của các
liên doanh trong R&D.
2. Vấn đề miễn trừ đối với các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh trong pháp luật
nước ngoài
Như trên đã đề cập, có những thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh (HCCT) có hại cho
cạnh tranh và người dùng. Nhưng cũng có
những thỏa thuận như thỏa thuận về R&D là
những thỏa thuận mang giá trị thúc đẩy cạnh
tranh. Đồng thời, cũng có những thỏa thuận
mang tính chất phản cạnh tranh, nhưng dưới
những điều kiện nhất định, các thỏa thuận
này lại phát huy giá trị thúc đẩy cạnh tranh.
Cho nên, nhằm mục đích tạo tính hiệu quả
của hoạt động kiểm soát các thỏa thuận
HCCT, trên thực tế, pháp luật cạnh tranh
các nước phân các tiêu chí miễn trừ thành
ba nhóm:
Nhóm thứ nhất: các quy định miễn trừ
áp dụng tự động
Các quy định miễn trừ được áp dụng
tự động có nghĩa là khi doanh nghiệp thực
hiện các thỏa thuận, nhưng theo quy định
của pháp luật cạnh tranh nó được xác định
là các thỏa thuận có giá trị thúc đẩy cạnh
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
27Số 8(360) T4/2018
tranh một cách mặc nhiên. Cơ quan cạnh
tranh không cần phải xem xét các khía
cạnh có lợi hay tác động phản cạnh tranh
của thỏa thuận. Theo pháp luật cạnh tranh
của Liên minh châu Âu5, các thỏa thuận về
R&D là thỏa thuận được miễn trừ tự động6.
Theo đó, căn cứ vào Điều 81 (3) của Hiệp
định, các điều khoản của Quy chế này, tuyên
bố rằng Điều 81 (1) sẽ không áp dụng đối
với các thoả thuận giữa hai hoặc nhiều bên
(sau đây gọi là các bên) liên quan đến các
điều kiện mà các bên đó theo đuổi: (i) cùng
nhau nghiên cứu và phát triển các sản phẩm
hoặc quy trình và cùng khai thác các kết quả
của nghiên cứu và phát triển đó; (ii) cùng
nhau khai thác các kết quả nghiên cứu và
phát triển các sản phẩm hoặc quy trình mà
họ đã cùng nhau nghiên cứu và phát triển
trước đó; hoặc là (iii) cùng nhau nghiên cứu
và phát triển chung các sản phẩm hoặc quy
trình nhưng không bao gồm khai thác chung
kết quả.
Miễn trừ này sẽ được áp dụng trong
trường hợp các thoả thuận đó (dưới đây gọi
là "các thỏa thuận nghiên cứu và phát triển")
có những hạn chế về cạnh tranh thuộc phạm
vi điều chỉnh của Điều 81(1)7.
Nhóm thứ hai: miễn trừ áp dụng theo
ngưỡng thị phần
Thị phần là một trong những cơ sở
quan trọng để đánh giá sức mạnh thị trường
của một hoặc một nhóm các doanh nghiệp
5 Cần lưu ý là, các quy định về thoả thuận HCCT được quy định tại Điều 81 (3) của Hiệp định về Liên minh châu Âu
(Treaty on European Union). Tuy vậy, đến năm 2007 Hiệp định này được thay thế bằng Hiệp định quy định về Chức
năng của Liên minh châu Âu (Treaty on the Functioning of the European Union - TFEU), được kí tại Lisbon. Các
nguyên tắc về thoả thuận HCCT vẫn được giữ nguyên trong TFEU, ngoại trừ vị trí của quy định được thay đổi từ Điều
81(3) thành 101(3).
6 European Commission, Commission Regulation (EC) No. 2659/2000 ngày 29/11/2000 về việc áp dụng Điều 81(3) của
Hiệp định về nhóm các thỏa thuận nghiên cứu và phát triển. Có thể tải về từ
ALL/?uri=CELEX:32000R2659 Truy cập ngày 06/03/2018. Văn bản này, đến nay được thay thế bởi Commission Regulation
(EU) No 1217/2010 on the application of Article 101(3) of the Treaty on the Functioning of the European Union to certain
categories of research and development agreements nhưng tinh thần của hướng dẫn vẫn được giữ nguyên.
7 Khoản 1 Điều 1 Regulation No. 2659/2000.
8 Alison Jones, Brenda Sufrin (2011), EU Competition law: Text, cases, and materials, 4th Edition, Oxford University
Press, trang 255.
9 European Commission (2010), Regulation No. 330/2010, đoạn 8, Có thể tải về từ
LexUriServ.do?uri=OJ:L:2010:102:0001:0007:EN:PDF Truy cập ngày 08/05/2017
10 European Commission (2000), Regulation No. 2659/2000.
11 European Commission (2000), Regulation No. 2659/2000, khoản 2 điều 4, có thể tải về từ
en/publication-detail/-/publication/65d75346-c14d-4074-9be9-b281bf03a62c/language-en Truy cập ngày 08/05/2017.
trên thị trường liên quan. Theo pháp luật
cạnh tranh của Liên minh châu Âu, đa số
các quy định miễn trừ đều sử dụng ngưỡng
thị phần làm cơ sở để xem xét8. Theo Quyết
định số 330/2010 của Ủy ban châu Âu ngày
20/4/2010 về việc áp dụng Điều 101(3) của
TFEU về việc phân loại các thỏa thuận theo
chiều dọc và các hành vi phối hợp hành động
thì ngưỡng thị phần để xem xét áp dụng đó
là không vượt quá 30%: “Nếu thị phần của
mỗi bên tham gia thỏa thuận không vượt quá
30% trên thị trường liên quan, các thỏa thuận
theo chiều dọc không bao hàm một số loại
HCCT nghiêm trọng, thường dẫn đến việc
cải tiến sản xuất hoặc phân phối và mang lại
lợi ích cho người dùng”9.
Theo Quyết định số 2659/2000 của
Ủy ban châu Âu ngày 29/11/2000 về việc
áp dụng Điều 81(3) Hiệp định nhằm phân
loại các thỏa thuận nghiên cứu và phát triển
thì vấn đề miễn trừ chỉ áp dụng đối với thỏa
thuận giữa các đối thủ cạnh tranh khi thị
phần không vượt quá 25% trên thị trường
liên quan10. “Trường hợp hai hoặc nhiều bên
tham gia là các đối thủ cạnh tranh, vấn đề
miễn trừ theo Điều 1 sẽ được áp dụng cho
giai đoạn được quy định tại khoản 1 chỉ khi,
vào thời điểm ký kết thỏa thuận về nghiên
cứu và phát triển thị phần kết hợp của các
bên không vượt quá 25% trên thị trường liên
quan cho các sản phẩm có khả năng được cải
thiện hoặc thay thế bằng các sản phẩm theo
hợp đồng”11.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
28 Số 8(360) T4/2018
Nhóm thứ ba: Các thỏa thuận HCCT
nghiêm trọng
Các thỏa thuận ấn định giá, phân chia
thị trường, sản lượng và thông đồng trong
đấu thầu là những thỏa thuận được các nước
xếp vào nhóm các thỏa thuận nghiêm trọng12.
Lịch sử phát triển và kinh nghiệm thực thi
pháp luật đã chỉ ra rằng, các thỏa thuận này
gây tổn hại nghiêm trọng cho cạnh tranh và
không có bất kỳ cơ sở nào để lý giải cho
hành vi này13. Cho nên, ngoài việc áp dụng
nguyên tắc vi phạm mặc nhiên để xử lý thì
các thỏa thuận này cũng sẽ mặc nhiên không
được hưởng miễn trừ (illegal perse).
Tuy vậy, cần phải thấy rằng, mặc dù
chia thành các nhóm như trên, nhưng trên
thực tế, các cơ quan cạnh tranh luôn có
quyền xem xét hoặc rút lại các quyết định
cho hưởng miễn trừ trước đó khi bối cảnh
không còn phù hợp. Nguyên tắc mang tính
phổ biến là việc áp dụng miễn trừ luôn mang
tính có điều kiện và luôn luôn có thời hạn.
“Ủy ban châu Âu có thể rút lại các quyết
định cho hưởng miễn trừ nếu họ phát hiện
trong bất kỳ thỏa thuận cụ thể nào, quyết
định hoặc các hành động phối hợp của các
doanh nghiệp mà Ủy ban đã ra quyết định
cho hưởng miễn trừ trước đó không còn phù
hợp với Điều 101(3) TFEU”14
3. Vấn đề miễn trừ đối với thoả thuận
hạn chế cạnh tranh trong Dự thảo Luật
Cạnh tranh
Theo quy định tại Điều 14 của Dự
thảo, các thỏa thuận HCCT quy định tại
Điều 12 có thể được miễn trừ có thời hạn
nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây
và có lợi cho người tiêu dùng:
a) Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật,
12 Thuật ngữ hay sử dụng là hard core cartel.
13 OECD, What are cartels and how do they affect consumers? Nguồn: Truy cập
ngày 06/03/2018.
14 Alison Jones, Brenda Sufrin (2011), EU Competition law: Text, cases, and materials, 4th Edition, Oxford University
Press, trang 255.
15 Khoản 1 Điều 12 Dự thảo.
16 Điều 9, Điều 10 Luật Cạnh tranh.
công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ;
b) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế;
c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất
các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
d) Thoả thuận các điều kiện thực hiện
hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không
liên quan đến giá và các yếu tố của giá.
Cách tiếp cận của Dự thảo trong việc
kiểm soát đối với các Thoả thuận HCCT đã
có nhiều khác biệt so với Luật Cạnh tranh
năm 2004 (Luật Cạnh tranh). Theo đó, Ban
soạn thảo đã chọn cách tiếp cận phù hợp
với thông lệ quốc tế khi tiến hành phân loại
nhóm các Thoả thuận HCCT nghiêm trọng
và đường lối xử lý đối với các Thoả thuận
nghiêm trọng này là cấm mà không cần
quan tâm đến yếu tố thị phần15. Chúng tôi
đánh giá đây là điểm tiến bộ của Dự thảo so
với Luật Cạnh tranh. Cụ thể, theo quy định
tại Điều 9 Luật Cạnh tranh, các thoả thuận
như thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch
vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thoả
thuận phân chia thị trường, Thoả thuận hạn
chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản
xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
được xác định là các thoả thuận không gây
HCCT nghiêm trọng. Nên hệ quả của nó là
các thoả thuận này chỉ bị cấm khi thị phần
kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thoả
thuận đạt 30% trên thị trường liên quan và
có thể được hưởng miễn trừ16.
Tuy vậy, quy định về miễn trừ của Dự
thảo thì lại không nhất quán. Cụ thể, Điều 14
quy định một cách chung chung rằng:
“Thỏa thuận HCCT quy định tại Điều
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 8(360) T4/2018
12 của Luật này có thể được miễn trừ có thời
hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau
đây và có lợi cho người tiêu dùng”17.
Trong khi đó, so sánh với cách quy
định của Luật Cạnh tranh về vấn đề miễn trừ
đối với các thoả thuận HCCT, chúng ta thấy
cách tiếp cận là khá tương đồng. Cụ thể:
1. Thoả thuận HCCT quy định tại
khoản 2 Điều 9 của Luật này được miễn trừ
có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều
kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho
người tiêu dùng:
a) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình
kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
b) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công
nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ;
c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất
các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
d) Thống nhất các điều kiện kinh
doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không
liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
đ) Tăng cường sức cạnh tranh của
doanh nghiệp nhỏ và vừa;
e) Tăng cường sức cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
quốc tế18.
Như vậy, có thể thấy bản chất của
hai quy định trong Dự thảo và Luật Cạnh
tranh là tương đồng. Điều này là một khiếm
khuyết cần được khắc phục. Bởi lẽ, như đã
phân tích trên đây, các thoả thuận HCCT
nghiêm trọng luôn bị xử lý theo nguyên tắc
illegal perse.
4. Những đề xuất, kiến nghị
Cơ sở kinh tế của vấn đề miễn trừ luôn
là đánh giá tương quan giữa các yếu tố có
lợi và khía cạnh gây hại của Thoả thuận. Các
yếu tố như giá cả, sản lượng, phân chia thị
17 Khoản 1 Điều 14 Dự thảo.
18 Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh.
19 Khoản 1 đến khoản 6 Điều 11.
trường và thông đồng trong đấu thầu luôn là
các yếu tố cơ bản mà các doanh nghiệp trong
thị trường cạnh tranh quan tâm. Các yếu tố
này một khi bị kiểm soát bởi doanh nghiệp,
sẽ gây ra tổn hại đến quyền lợi của người
tiêu dùng cũng như ảnh hưởng đến tính hiệu
quả của việc phân bổ các nguồn lực xã hội.
Chính vì lẽ đó, chúng tôi kiến nghị:
Thứ nhất: Cần xác định lại các hành
vi thoả thuận HCCT bị coi là những hành vi
thoả thuận HCCT một cách nghiêm trọng.
Tuỳ vào chiến lược cạnh tranh của mỗi
thời kỳ, mà phạm vi nhóm các thoả thuận
hardcore cartel này sẽ là rộng hẹp khác
nhau, nhưng các thoả thuận về giá cả, sản
lượng, phân chia thị trường và vấn đề thông
đồng trong đấu thầu sẽ luôn là hạt nhân trong
nhóm hardcore cartel;
Xét trong tương quan với Điều 12 của
Dự thảo, cách tiếp cận của Ban soạn thảo đã
coi 6 thoả thuận trong Điều 11 Dự thảo chính
là các hardcore cartel19. Cho nên, nhằm phù
hợp với cách tiếp cận đó, cần phải sửa khoản
1 Điều 14 của Dự thảo như sau:
“1. Thỏa thuận HCCT quy định tại
khoản 2 Điều 12 của Luật này có thể được
miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong
các điều kiện sau đây và có lợi cho người
tiêu dùng:
a) Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ;
b) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế;
c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất
các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
d) Thoả thuận các điều kiện thực hiện
hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không
liên quan đến giá và các yếu tố của giá”.
(Xem tiếp trang 64)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 8(360) T4/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_van_de_mien_tru_doi_voi_cac_thoa_thuan_han_che_canh_t.pdf