KẾT LUẬN
Ở 25oC, 30oC cùng 80% ẩm độ, chế độ chiếu
sáng 16 giờ/ngày đêm và thức ăn là lá cây đu đủ,
rệp sáp giả đu đủ có tỷ lệ sống sót của từng
pha/giai đoạn phát triển đạt rất cao (85,71-
100%). Tỷ lệ sống sót của cả giai đoạn trước
trưởng thành (từ trứng đến trưởng thành) đạt
cao. Đối với giới tính đực, chỉ tiêu này ở nhiệt độ
25oC đạt cao hơn so với ở 30oC (tương ứng là
76,79% và 62,5%). Đối với giới tính cái, chỉ tiêu
này ở cả hai nhiệt độ thí nghiệm (25oC, 30oC)
đều đạt khá cao, gần tương tự nhau, tương ứng
là 81,83% và 81,08%.
Nhiệt độ ảnh hưởng rõ ràng đến các chỉ tiêu
bảng sống của rệp sáp giả đu đủ. Ở 25oC, hệ số
nhân của một thế hệ (Ro), tỷ lệ tăng tự nhiên (rm),
giới hạn tăng tự nhiên (λ), thời gian một thế hệ
tính theo tuổi mẹ khi đẻ con (Tc) và thời gian tăng
gấp đôi số lượng của quần thể (DT) tương ứng
đạt 177,44 ♀/♀; 0,132 ♀/♀/ngày; 1,15 lần; 39,11
ngày và 5,23 ngày. Ở nhiệt độ 30oC, tùy thuộc
vào từng chỉ tiêu mà giá trị của nó có thể tăng lên
hoặc giảm xuống so với ở 25oC và tương ứng là
106,32 ♀/♀; 0,155 ♀/♀/ngày; 1,17 lần; 30,06
ngày và 4,46 ngày. Giá trị các chỉ tiêu bảng sống
này của rệp sáp giả đu đủ trong nghiên cứu này
đều nằm trong phạm vi biến động giá trị các chỉ
tiêu tương ứng trong các nghiên cứu ở nước
ngoài đã tham khảo được.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảng sống của rệp sáp giả đu đủ paracoccus marginatus williams and granara de willink (homoptera: pseudococcidae) nuôi trong phòng thí nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
9
7. Ivo Toševski, Jelena Jović, Milana Mitrović,
Tatjana Cvrković, Oliver Krstić and Slobodan Krnjajić,
2011. Tuta absoluta (Meyrick, 1917) (Lepidoptera,
Gelechiidae): a New Pest of Tomato in Serbia. Pestic.
Phytomed. (Belgrade), 26(3): 197–204.
8. Lal Bahadur Chhetri, 2018. Tomato Leafminer
(Tuta absoluta) an emerging agricultural pest: Control
and management strategies: A Review. World
Scientific News .114: 30-43.
9. Nicolas Desneux, Eric Wajnberg, Kris A. G.
Wyckhuys, Giovanni Burgio Salvatore Arpaia,
Consuelo A, Narva´ez-Vasquez, Joel Gonza´lez-
Cabrera Diana Catala´n Ruescas, Elisabeth Tabone,
Jacques Frandon, Jeannine Pizzol Christine Poncet,
Toma´s Cabello, Alberto Urbaneja, 2010. Biological
invasion of European tomato crops by Tuta absoluta:
ecology, geographic expansion and prospects for
biological control. Journal of Pest Science 83:197–215.
10. Reyard Mutamiswa, Honest Machekano and
Casper Nyamukondiwa, 2017. First report of tomato
leaf miner, Tuta absoluta (Meyrick) (Lepidoptera:
Gelechiidae), in Botswana. Agriculture and food
security 6:49.
11. Sridhar V, A. K. ChakraVarthy, R. Asokan, L.
S. Vinesh, K. B. Rebijith, S. Vennila, 2014. New record
of the invasive South American tomato leaf miner, Tuta
absoluta (Meyrick) (Lepidoptera: Gelechiidae) in India.
Pest Management in Horticultural Ecosystems, 20 (2):
148-154.
12. Viện Bảo vệ thực vật, 1997. Phương pháp
điều tra cơ bản sâu bệnh hại cây trồng nông nghiệp
tập 1. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Phản biện: PGS.TS. Khuất Đăng Long
BẢNG SỐNG CỦA RỆP SÁP GIẢ ĐU ĐỦ Paracoccus marginatus Williams
and Granara de Willink (Homoptera: Pseudococcidae)
NUÔI TRONG PHÕNG THÍ NGHIỆM
Life Table of the Papaya Mealybug, Paracoccus marginatus Williams and
Granara de Willink (Homoptera: Pseudococcidae) under Laboratory Conditions
Đoàn Thị Lƣơng
1
, Phạm Văn Lầm
2
, Lê Thị Tuyết Nhung
3
,
Nguyễn Hồng Sơn
4
và Trƣơng Thị Hƣơng Lan
3
Ngày gửi bài: 04.7.2019 Ngày chấp nhận: 19.7.2019
Abstract
Life table parameters of the the papaya mealybug, Paracoccus marginatus Williams and Granara de Willink
(Hom.: Pseudococcidae) was evaluated under laboratory conditions at constant temperatures of 25°C, and 30°C,
80% RH and a photoperiod of 16L:8D using leaves of papaya variety Taiwan as food.
In this study, the survival rates of egg and each nymphal instar of the papaya mealybug were very high
(85.71-100%). The survival rate of the pre-imaginal period was high. For males, the survival rate of the pre-
imaginal period was higher at temperature of 25°C than that at temperature of 30°C (76.79% and 62.5%,
respectively). For females, the survival rate of the pre-imaginal period was almost similar at temperature of 25°C
and 30°C (81.83% and 81.08%, respectively).
Temperature influenced on the life table parameters of the papaya mealybug. At temperature of 25°C, the net
reproductive rate (Ro), intrinsic rate of increase (rm), finite rate of increase (λ), mean generation time (Tc), and
doubling time (DT) were 177.44, 0.132, 1.15, 39.11 and 5.23, respectively. Increasing temperatures from 25°C to
30°C, these life table parameters of the papaya mealybug could increase or decrease depending upon the kind of
parameter, and their values (as in above order) were 106.32, 0.155, 1.17, 30.06 and 4.46, respectively. All the life
table parameters of the papaya mealybug obtained in
this study varied in the range of those reported by
oversea researchers.
Keywords: Life table, papaya, papaya mealybug,
Paracoccus marginatus.
1. NCS Viện KHNN Việt Nam
2. Hội Côn trùng học Việt Nam
3. Viện Bảo vệ thực vật,
4. Viện KHNN Việt Nam
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
10
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rệp sáp giả đu đủ Paracoccus marginatus
Williams and Granara de Willink (Homoptera:
Pseudococcidae) là loài côn trùng có nguồn gốc
ở Trung Mỹ và trở thành loài ngoại lai ở khoảng
50 quốc gia trên thế giới (Nisha and Kennedy,
2014). Loài côn trùng này được ghi nhận trên cây
sắn ở vùng Đông Nam Bộ năm 2014 (Lê Thị
Tuyết Nhung và nnk., 2014). Trên thế giới đã có
nhiều nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học và
sinh thái học. Trong khi đó, những dẫn liệu về
đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của bất kỳ
loài côn trùng hại nào cũng sẽ là cơ sở khoa học
để xây dựng biện pháp phòng chống chúng một
cách hợp lý. Ở Việt Nam, đến nay chưa có
nghiên cứu nào về bảng sống của rệp sáp giả đu
đủ. Bài viết này cung cấp kết quả nghiên cứu
bảng sống của rệp sáp giả đu đủ để bạn đọc có
thêm hiểu biết về loài côn trùng này ở Việt Nam.
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguồn rệp sáp giả đu đủ dùng trong nghiên
cứu này được thu năm 2016 tại vùng trồng đu đủ
ở ngoại ô thành phố Hà Nội. Rệp sáp giả đu đủ
đã thu được nuôi trong lồng lưới (kích thước 60 ×
40 × 40 cm) ở điều kiện tự nhiên của phòng thí
nghiệm (25 - 30
o
C, 70 - 75% ẩm độ) với thức ăn
là lá non của cây đu đủ giống Đài Loan được
trồng cách ly trong nhà lưới và không sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật. Trưởng thành cái xuất
hiện được tách nuôi bằng lá đu đủ sạch cho đẻ
trứng để phục vụ thí nghiệm.
Thí nghiệm được tiến hành theo phương
pháp của Amarasekare et al. (2008a) có sự cải
tiến cho phù hợp điều kiện Việt Nam. Rệp sáp
giả đu đủ được nuôi cá thể trong tủ sinh thái côn
trùng (nhãn hiệu RGX-400E) ở hai nhiệt độ 25ºC,
30ºC với cùng 80% ẩm độ và chế độ chiếu sáng
16 giờ/ngày đêm. Thức ăn dùng nuôi rệp sáp giả
đu đủ là lá đu đủ sạch lấy từ cây đu đủ 3 tháng
tuổi ở vườn được cách ly, không sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật. Lá đu đủ được cắt thành các đĩa
lá hình tròn đặt lọt vào trong hộp petri (đường
kính 6 cm) sẵn bông ẩm để giữ cho lá đu đủ luôn
có độ tươi cần thiết và cứ 2 ngày một lần thay
mới lá đu đủ.
Trưởng thành rệp sáp giả đu đủ được nuôi
trên lá đu đủ sạch (như đã nêu trên). Hàng ngày
quan sát, khi thấy phía cuối cơ thể trưởng thành
cái xuất hiện túi sáp có chứa trứng thì chuyển túi
trứng này vào các điều kiện nhiệt độ thí nghiệm
nêu trên. Sau đó 2 ngày, tiến hành khéo léo loại
bỏ túi sáp, để lại trứng. Hàng ngày quan sát sự
phát triển của trứng. Khi rệp sáp non tuổi 1 nở,
dùng bút lông đã thấm nước nhẹ nhàng chuyển
chúng sang đĩa petri có đĩa lá đu đủ sạch để nuôi
cá thể. Số lượng rệp sáp non tuổi 1 được bắt
đầu nuôi thí nghiệm đủ lớn sao cho đến cuối
từng tuổi, từng giai đoạn phát triển cá thể phải có
đủ ít nhất 30 cá thể trong mỗi nhiệt độ thí
nghiệm. Hàng ngày vào thời gian nhất định quan
sát, theo dõi tập tính hoạt động sống ở các pha
phát triển của rệp sáp giả đu đủ. Ghi nhận thời
điểm trứng nở, lột xác chuyển tuổi của rệp sáp
non, thời điểm xuất hiện pha trưởng thành. Theo
dõi tỷ lệ hoàn thành phát triển các pha của rệp
sáp giả đu đủ. Khi trưởng thành xuất hiện, tiến
hành xác định tỷ lệ giới tính và theo dõi các chỉ
tiêu liên quan đến sinh sản, tuổi thọ đối với ít
nhất 15 cá thể trưởng thành của mỗi giới tính
trong từng nhiệt độ thí nghiệm.
Các chỉ tiêu bảng sống của rệp sáp giả đu đủ
(Ro, rm, λ, Tc, DT) được tính theo Birch (1948) và
Kakde và nnk. (2014).
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Tỷ lệ sống ở giai đoạn trƣớc trƣởng
thành của rệp sáp giả đu đủ
Rệp sáp giả đu đủ được nuôi ở nhiệt độ 25
o
C,
30
o
C cùng 80% ẩm độ và chế độ chiếu sáng 16
giờ/ngày đêm với thức ăn là lá cây đu đủ. Trong
điều kiện như vậy, rệp sáp giả đu đủ có tỷ lệ
sống ở từng pha/giai đoạn phát triển trước
trưởng thành đạt khá cao (bảng 1, bảng 2).
Bảng 1. Tỷ lệ sống của các pha/giai đoạn phát triển trƣớc trƣởng thành giới tính đực
của rệp sáp giả đu đủ ở các nhiệt độ thí nghiệm
Nhiệt độ thí
nghiệm (ºC)
Tỷ lệ sống của các pha/giai đoạn phát triển (%) Tỷ lệ sống ở giai đoạn
trước trưởng thành (%) Trứng RSN tuổi 1 RSN tuổi 2 Tiền nhộng Nhộng
25 100 91,0 92,16 95,83 93,48 76,79
30 100 89,41 93,02 87,50 85,71 62,50
Ghi chú: RSN=rệp sáp non, Ẩm độ 80%, chế độ chiếu sáng 16 giờ/ngày đêm, thức ăn là lá cây đu
đủ, n30 cá thể
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
11
Bảng 2. Tỷ lệ sống của các pha/giai đoạn phát triển trƣớc trƣởng thành giới tính
cái của rệp sáp giả đu đủ ở các nhiệt độ thí nghiệm
Nhiệt độ thí
nghiệm (ºC)
Tỷ lệ sống của các pha/giai đoạn phát triển (%) Tỷ lệ sống của giai đoạn
trước trưởng thành (%) Trứng RSN tuổi 1 RSN tuổi 2 RSN tuổi 3
25 100 91,0 95,0 94,74 81,83
30 100 89,41 93,94 96,77 81,08
Ghi chú: RSN=rệp sáp non, ẩm độ 80%, chế độ chiếu sáng 16 giờ/ngày đêm, thức ăn là lá cây đu
đủ, n 30 cá thể
Ở hai nhiệt độ thí nghiệm (25
o
C, 30
o
C), pha
trứng có tỷ lệ nở đều đạt tối đa (100%). Tỷ lệ
sống của rệp sáp non các tuổi (cả hai giới tính)
cũng đều đạt rất cao, tương ứng gần tương tự
nhau (rệp sáp non giới tính đực có tỷ lệ sống là
89,41-93,02% và rệp sáp non giới tính cái có tỷ
lệ sống là 89,41-96,77%). Tuy nhiên, rệp sáp non
tuổi 1 có tỷ lệ sống thấp hơn so với rệp sáp non
tuổi 2 và tuổi 3. Đây có thể do rệp sáp non tuổi 1
phải đi tìm kiếm nơi phù hợp để cư trú. Tiền
nhộng và nhộng cũng có tỷ lệ sống đạt cao,
tương ứng là 87,5-95,83% và 85,71-93,48%. Tỷ
lệ sống của cả giai đoạn trước trưởng thành (từ
trứng đến trưởng thành) đối với giới tính đực
được nuôi ở nhiệt độ 25
o
C đạt cao hơn so với ở
30
o
C, tương ứng là 76,79% và 62,5%. Chỉ tiêu
này đối với giới tính cái ở cả hai nhiệt độ thí
nghiệm đều đạt cao, tương tự nhau, cao hơn so
với giới tính đực, đạt 81,83% ở 25
o
C và 81,08%
ở 30
o
C (bảng 1, bảng 2).
Pha trứng của rệp sáp giả đu đủ trong nghiên
cứu này có tỷ lệ nở cao hơn so với trong nghiên
cứu của Amarasekare và nnk. (2008a, 2008b),
Mastoi và nnk. (2014), Nishi và Kennedy (2014).
Kết quả nghiên cứu của Amarasekare và nnk.
(2008a, 2008b) cho thấy tỷ lệ nở của trứng rệp
sáp giả đu đủ đạt 82,8-85,9% ở nhiệt độ 25
o
C
hoặc 30
o
C trên các cây Acalypha wilkesiana,
Hibiscus rosa-sinensis hay Parthenium
hysterophorus. Theo Mastoi và nnk. (2014), tỷ lệ
nở của trứng rệp sáp giả đu đủ đạt 94-96% khi
nuôi trên quả đu đủ xanh ở 26±2
o
C và 60±5% ẩm
độ. Còn theo Nishi và Kennedy (2014), tỷ lệ nở
của trứng rệp sáp giả đu đủ đạt cao nhất (88%)
khi nuôi trên cây đu đủ và đạt thấp hơn (66,67-
84,0%) khi nuôi trên các cây bông, cà tím, dâm
bụt, dâu tằm, khoai tây, sắn. Tỷ lệ sống của rệp
sáp non các tuổi (cả hai giới tính) cũng như tỷ lệ
sống của cả giai đoạn trước trưởng thành ở rệp
sáp giả đu đủ trong nghiên cứu này đều đạt cao
hơn hoặc gần tương tự như trong nghiên cứu
của Amarasekare và nnk. (2008a, 2008b). Theo
các tác giả này, phụ thuộc vào nhiệt độ (25
o
C
hay 30
o
C) hoặc cây thức ăn (A. wilkesiana, H.
rosa-sinensis, P. hysterophorus), tỷ lệ sống của
rệp sáp non các tuổi và của cả giai đoạn trước
trưởng thành ở rệp sáp giả đu đủ tương ứng
biến động trong phạm vi 79,9-97,5% và 49,9-
70,8%.
3.2 Bảng sống của rệp sáp giả đu đủ
3.2.1 Tỷ lệ sống (lx), sức sinh sản (mx) của rệp
sáp giả đu đủ ở nhiệt độ 25ºC và 80% ẩm độ
Ở 25ºC, 80% ẩm độ, chế độ chiếu sáng 16
giờ/ngày đêm với thức ăn là lá cây đu đủ, trưởng
thành cái rệp sáp giả đu đủ có tỷ lệ sống (lx) đạt
100% đến ngày tuổi thứ 34. Từ ngày tuổi thứ 35
bắt đầu có cá thể trưởng thành cái chết và tỷ lệ
sống (lx) bị giảm nhẹ. Nhưng từ thời điểm này
đến ngày tuổi thứ 40 tỷ lệ sống (lx) vẫn duy trì ở
mức khá cao và đạt 93,3%. Tỷ lệ sống (lx) bắt
đầu giảm mạnh từ ngày tuổi thứ 42. Từ thời điểm
này đến ngày tuổi thứ 47, tỷ lệ sống (lx) của
trưởng thành cái rệp sáp giả đu đủ biến động
trong phạm vi 53,3-73,3%. Từ ngày tuổi thứ 48
đến ngày tuổi thứ 56, tỷ lệ sống (lx) của trưởng
thành cái rệp sáp giả đu đủ tiếp tục giảm và biến
động trong phạm vi 20,0-40,0%. Chỉ tiêu này chỉ
còn đạt 6,7% vào ngày tuổi thứ 58. Đến ngày tuổi
thứ 59 tất cả các cá thể trưởng thành cái rệp sáp
giả đu đủ đều chết (hình 1a).
Trong điều kiện thí nghiệm nêu trên, từ
ngày tuổi thứ 32 bắt đầu có trưởng thành cái
đẻ trứng với sức sinh sản (mx) theo ngày tuổi
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
12
là 3,138. Trưởng thành cái rệp sáp giả đu đủ
có sức sinh sản (mx) theo ngày tuổi đạt cao
nhất vào ngày tuổi thứ 36 với mx là 19,283.
Sức sinh sản (mx) theo ngày tuổi của trưởng
thành cái rệp sáp giả đu đủ từ ngày tuổi thứ 37
đến ngày tuổi thứ 39 duy trì ở mức 14,032-
17,144. Sau đó, sức sinh sản (mx) theo ngày
tuổi giảm dần và chỉ ở mức 6,846-10,291 đến
ngày tuổi thứ 52. Sức sinh sản (mx) theo ngày
tuổi của trưởng thành cái rệp sáp giả đu đủ từ
ngày tuổi thứ 53 đến ngày tuổi thứ 55 giảm
xuống rất thấp, chỉ còn là 2,334-3,760. Cá thể
cuối cùng của trưởng thành cái rệp sáp giả đu
đủ ngừng đẻ trứng vào ngày tuổi thứ 55. Thời
gian đẻ trứng của các cá thể trưởng thành cái
rệp sáp giả đu đủ ở 25ºC kéo dài 24 ngày và
chúng đều đẻ trứng tập trung vào tuần lễ đầu
tiên của thời gian đẻ trứng (hình 1a). Như vậy,
ở 25ºC, 80% ẩm độ, chế độ chiếu sáng 16
giờ/ngày đêm với thức ăn là là lá cây đu đủ,
sức sinh sản (mx) của trưởng thành cái rệp sáp
giả đu đủ đạt không cao và là 232,44.
a. Ở nhiệt độ 25ºC và 80% ẩm độ b. Ở nhiệt độ 30ºC và 80% ẩm độ
Hình 1. Tỷ lệ sống (lx) và sức sinh sản (mx) của trƣởng thành cái rệp sáp giả đu đủ
theo thời gian ở các nhiệt độ thí nghiệm
3.2.2 Tỷ lệ sống (lx), sức sinh sản (mx) của rệp
sáp giả đu đủ ở nhiệt độ 30ºC và 80% ẩm độ
Ở 30ºC, 80% ẩm độ, chế độ chiếu sáng 16
giờ/ngày đêm, với thức ăn là lá cây đu đủ trưởng
thành cái rệp sáp giả đu đủ có tỷ lệ sống (lx) đạt
100% đến ngày tuổi thứ 31. Trưởng thành cái bắt
đầu chết từ ngày tuổi thứ 32 và tỷ lệ sống (lx) của
chúng giảm nhẹ, đạt 93,3%. Sau đó tỷ lệ sống (lx)
của chúng giảm mạnh, từ 76,9% vào ngày tuổi
thứ 33 xuống còn 20,0% vào ngày tuổi thứ 37.
Từ ngày tuổi thứ 38 đến ngày tuổi thứ 42, tỷ lệ
sống (lx) của trưởng thành cái rệp sáp giả đu đủ
chỉ còn 6,7%. Đến ngày tuổi thứ 43 tất cả trưởng
thành cái rệp sáp giả đu đủ đều chết (hình 1b).
Trong điều kiện thí nghiệm nêu trên, trưởng
thành cái rệp sáp giả đu đủ bắt đầu đẻ trứng từ
ngày tuổi thứ 26 với sức sinh sản (mx) theo ngày
tuổi là 8,975. Sức sinh sản (mx) theo ngày tuổi
của trưởng thành cái rệp sáp giả đu đủ đạt cao
nhất là 19,454 vào ngày tuổi thứ 29. Sau đó, sức
sinh sản (mx) theo ngày tuổi của trưởng thành cái
rệp sáp giả đu đủ giảm dần theo thời gian. Từ
ngày tuổi thứ 33 đến ngày tuổi thứ 42 sức sinh
sản (mx) theo ngày tuổi của trưởng thành cái rệp
sáp giả đu đủ biến động trong phạm vi không cao
(3,902-8,668). Ngày tuổi thứ 42 là ngày đẻ trứng
cuối cùng của các cá thể trưởng thành cái rệp
sáp giả đu đủ. Ở 30ºC, trưởng thành cái rệp sáp
giả đu đủ có thời gian đẻ trứng (chỉ là 17 ngày)
ngắn hơn so với ở 25ºC (24 ngày) và chúng cũng
đều đẻ trứng tập trung vào tuần lễ đầu tiên của
thời gian đẻ trứng (hình 1b). Như vậy, ở 30ºC,
80% ẩm độ, chế độ chiếu sáng 16 giờ/ngày đêm
với thức ăn là là lá cây đu đủ, sức sinh sản (mx)
của trưởng thành cái rệp sáp giả đu đủ đạt thấp
hơn so với ở 25ºC, chỉ là 144,68.
Ở 80% ẩm độ, chế độ chiếu sáng 16 giờ/ngày
đêm, với thức ăn là lá cây đu đủ, thời gian
trưởng thành cái có tỷ lệ sống đạt 100% ở 25
o
C
(là 4 ngày) ngắn hơn so với ở 30
o
C (là 7 ngày).
Nhưng, thời gian trưởng thành cái có tỷ lệ sống
đạt trên 50% ở 25
o
C (là 17 ngày) lại kéo dài hơn
so với ở 30
o
C (là 11 ngày). Do đó, đường biểu
diễn tỷ lệ sống (lx) của trưởng thành cái ở 30ºC
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
13
dốc đứng hơn so với ở 25ºC (hình 1). Nhiệt độ
tăng từ 25ºC lên 30ºC dẫn đến sự phát triển
nhanh hơn, trưởng thành cái bắt đầu và kết thúc
đẻ trứng sớm hơn: thời điểm bắt đầu và kết thúc
đẻ trứng của trưởng thành cái ở 25ºC tương ứng
vào ngày tuổi thứ 32 và ngày tuổi thứ 55; còn ở
30ºC các thời điểm này tương ứng vào ngày tuổi
thứ 26 và ngày tuổi thứ 42. Như vậy, tăng từ
25ºC lên 30ºC làm rút ngắn thời gian đẻ trứng và
làm giảm sức sinh sản (mx) của trưởng thành cái
rệp sáp giả đu đủ. Các chỉ tiêu này từ 24 ngày và
232,44 ở 25ºC tương ứng giảm còn 17 ngày và
144,68 ở 30ºC. Sức sinh sản (mx) theo ngày tuổi
của trưởng thành cái đạt khá cao vào tuần lễ đầu
tiên của thời gian đẻ trứng và sau đó giảm dần
theo thời gian. Sức sinh sản (mx) theo ngày tuổi
của trưởng thành cái rệp sáp giả đu đủ đạt
đỉnh cao vào ngày tuổi thứ 36 ở 25ºC và ngày
tuổi thứ 29 ở 30ºC. Đường biểu diễn sức sinh
sản (mx) theo ngày tuổi của trưởng thành cái
sau thời điểm đỉnh cao ở cả hai nhiệt độ (25ºC
và 30ºC) đều giảm, nhưng theo hướng tương
đối dốc (hình 1). Thời điểm bắt đầu đẻ trứng và
thời điểm đỉnh cao của sức sinh sản (mx) theo
ngày tuổi ở trưởng thành cái rệp sáp giả đu đủ
đến sớm khi nhiệt độ thí nghiệm tăng từ 25ºC
lên 30ºC cũng quan sát thấy trong thí nghiệm
rệp sáp giả đu đủ trên cây bông của Amutha và
Dharajothi (2016).
3.2.3 Các chỉ tiêu bảng sống của rệp sáp giả
đu đủ
Dựa trên số liệu thí nghiệm nuôi rệp sáp giả
đu đủ ở các nhiệt độ 25
o
C, 30
o
C cùng 80% ẩm
độ và chế độ chiếu sáng 16 giờ/ngày đêm với
thức ăn là lá cây đu đủ đã tính được một số chỉ
tiêu (Ro, rm, λ, Tc, DT) liên quan đến bảng sống
của rệp sáp giả đu đủ. Ở nhiệt độ 25
o
C, hệ số
nhân của một thế hệ (Ro), tỷ lệ tăng tự nhiên (rm),
giới hạn tăng tự nhiên (λ) thời gian một thế hệ tính
theo tuổi mẹ khi đẻ con (Tc) và thời gian tăng gấp
đôi số lượng của quần thể (DT) ở rệp sáp giả đu
đủ tương ứng đạt 177,44 ♀/♀; 0,132 ♀/♀/ngày;
1,15 lần; 39,11 ngày và 5,23 ngày. Giá trị của
các chỉ tiêu này ở nhiệt độ 30
o
C lần lượt là
106,32 ♀/♀; 0,155 ♀/♀/ngày; 1,17 lần; 30,06
ngày và 4,46 ngày (bảng 3).
Bảng 3. Chỉ tiêu bảng sống của rệp sáp giả đu đủ ở điều kiện phòng thí nghiệm
Nhiệt độ thí nghiệm
(ºC)
Giá trị các chỉ tiêu bảng sống
Ro rm λ Tc DT
25 177,44 0,132 1,15 39,11 5,23
30 106,32 0,155 1,17 30,06 4,46
Ghi chú: Ẩm độ 80%, chế độ chiếu sáng 16 giờ/ngày đêm, thức ăn là lá cây đu đủ
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệt độ đã ảnh
hưởng rất rõ đến giá trị các chỉ tiêu bảng sống
(Ro, rm, λ, Tc, DT) của rệp sáp giả đu đủ. Khi nhiệt
độ tăng từ 25
o
C lên 30
o
C thì hệ số nhân của một
thế hệ (Ro), thời gian một thế hệ tính theo tuổi mẹ
khi đẻ con (Tc) và thời gian tăng gấp đôi số lượng
của quần thể (DT) bị giảm rất rõ ràng. Thí dụ, giá
trị của các chỉ tiêu Ro, Tc, DT tương ứng bị giảm
1,7; 1,3 và 1,2 lần. Ngược lại, tỷ lệ tăng tự nhiên
(rm) lại gia tăng 1,2 lần (từ 0,132 tăng lên 0,155),
còn thông số λ tăng nhẹ, từ 1,15 tăng lên 1,17
(bảng 3).
Dưới ảnh hưởng của nhiệt độ thí nghiệm, giá
trị các chỉ tiêu bảng sống (trừ giá trị Ro) ở rệp sáp
giả đu đủ trong nghiên cứu này có xu thế biến
động tương tự như xu thế biến động của giá trị
các chỉ tiêu tương ứng trong nghiên cứu của
Amutha và Dharajothi (2016) khi nuôi rệp sáp giả
đu đủ trên cây bông vải. Thí dụ, theo các tác giả
này, khi nhiệt độ tăng từ 25
o
C lên 30
o
C, tỷ lệ tăng
tự nhiên (rm) tăng từ 0,1652 ♀/♀/ngày lên 0,1952
♀/♀/ngày, thời gian một thế hệ tính theo tuổi mẹ
khi đẻ con (Tc) giảm từ 28,6 ngày xuống 26,6
ngày,...
Nhìn chung, giá trị các chỉ tiêu bảng sống (Ro,
rm, λ, Tc, DT) của rệp sáp giả đu đủ trong nghiên
cứu này (trừ giá trị Tc ở 25
o
C) đều nằm trong
phạm vi biến động giá trị các chỉ tiêu tương ứng
trong các nghiên cứu ở nước ngoài đã tham
khảo được. Thí dụ, hệ số nhân của một thế hệ
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
14
(Ro) hay tỷ lệ tăng tự nhiên (rm) của các nghiên
cứu ở nước ngoài tương ứng biến động trong
phạm vi 23,6-559,48 và 0,0765-0,570; (Amutha
and Dharajothi, 2016; Mastoi et al., 2014;
Nagrare et al., 2011; Nisha and Kennedy, 2017).
Nếu so sánh riêng các chỉ tiêu bảng sống của
rệp sáp giả đu đủ trong nghiên cứu này với các
nghiên cứu ở nước ngoài thì thấy như sau: Hệ
số nhân của một thế hệ (Ro) trong nghiên cứu
này có giá trị lớn hơn so với 43,36 trong nghiên
cứu của Mastoi và nnk. (2014), nhưng nhỏ hơn
so với 282,53-559,48 trong nghiên cứu của
Nisha và Kennedy (2017), tương tự (110,3-
176,1) như trong nghiên cứu của Nagrare và nnk
(2011) cũng như của Amutha và Dharajothi
(2016). Tỷ lệ tăng tự nhiên (rm) trong nghiên cứu
này có giá trị lớn hơn so với 0,1248 trong nghiên
cứu của Mastoi và nnk. (2014), nhưng lại nhỏ
hơn so với 0,1652-0,570 trong nghiên cứu của
Amutha và Dharajothi (2016), Nagrare và nnk.
(2011) cũng như của Nisha và Kennedy (2017).
Thời gian một thế hệ tính theo tuổi mẹ khi đẻ con
(Tc) trong nghiên cứu này có giá trị lớn hơn so
với 12,35-28,6 ngày trong nghiên cứu của Amutha
và Dharajothi (2016), Nagrare và nnk. (2011),
Nisha và Kennedy (2017). Thời gian một thế hệ
tính theo tuổi mẹ khi đẻ con (Tc) ở 30
o
C trong
nghiên cứu này có giá trị tương tự kết quả của
Mastoi và nnk. (2014) là 30,73 ngày.
Kết quả nghiên cứu này cùng với một số kết
quả nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy các chỉ
tiêu bảng sống của rệp sáp giả đu đủ ở những
điều kiện thí nghiệm khác nhau thì rất khác nhau
phụ thuộc vào nhiệt độ và cây thức ăn.
4. KẾT LUẬN
Ở 25
o
C, 30
o
C cùng 80% ẩm độ, chế độ chiếu
sáng 16 giờ/ngày đêm và thức ăn là lá cây đu đủ,
rệp sáp giả đu đủ có tỷ lệ sống sót của từng
pha/giai đoạn phát triển đạt rất cao (85,71-
100%). Tỷ lệ sống sót của cả giai đoạn trước
trưởng thành (từ trứng đến trưởng thành) đạt
cao. Đối với giới tính đực, chỉ tiêu này ở nhiệt độ
25
o
C đạt cao hơn so với ở 30
o
C (tương ứng là
76,79% và 62,5%). Đối với giới tính cái, chỉ tiêu
này ở cả hai nhiệt độ thí nghiệm (25
o
C, 30
o
C)
đều đạt khá cao, gần tương tự nhau, tương ứng
là 81,83% và 81,08%.
Nhiệt độ ảnh hưởng rõ ràng đến các chỉ tiêu
bảng sống của rệp sáp giả đu đủ. Ở 25
o
C, hệ số
nhân của một thế hệ (Ro), tỷ lệ tăng tự nhiên (rm),
giới hạn tăng tự nhiên (λ), thời gian một thế hệ
tính theo tuổi mẹ khi đẻ con (Tc) và thời gian tăng
gấp đôi số lượng của quần thể (DT) tương ứng
đạt 177,44 ♀/♀; 0,132 ♀/♀/ngày; 1,15 lần; 39,11
ngày và 5,23 ngày. Ở nhiệt độ 30
o
C, tùy thuộc
vào từng chỉ tiêu mà giá trị của nó có thể tăng lên
hoặc giảm xuống so với ở 25
o
C và tương ứng là
106,32 ♀/♀; 0,155 ♀/♀/ngày; 1,17 lần; 30,06
ngày và 4,46 ngày. Giá trị các chỉ tiêu bảng sống
này của rệp sáp giả đu đủ trong nghiên cứu này
đều nằm trong phạm vi biến động giá trị các chỉ
tiêu tương ứng trong các nghiên cứu ở nước
ngoài đã tham khảo được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amarasekare K.G., J.H. Chong, N.D. Epsky,
C.M. Mannion, 2008a. Econ. Entomol., 6: 1798-1804.
2. Amarasekare K.G., C.M. Mannion, L.S.
Osborne, N.D. Epsky, 2008b. Enviromental
Entomolology, 37: 630-635.
3. Amutha M., B. Dharajothi, 2016. Indian Journal
of Plant Protection, Vol.44(1): 24-29.
4. Birch, L.C., 1948. Journal of animal ecology,
17: 15-26.
5. Kakde A.M., K.G. Patel, S. Tayade, 2014. IOSR
Jour. of Agriculture and Veterinary Science, Vol. 7(1):
40-43.
6. Mastoi M.I., A.N. Azura, R. Muhamad, A.B.
Idris, A.G. Arfan, Y. Ibrahim, 2014. Sci.Int.(Lahore),
26(5): 2323-2329.
7. Nagrare V.S., S. Kranthi, R. Kumar, B.D. Jothi,
M. Amutha, A.J. Deshmukh, K.D. Bisane, K.R. Kranthi,
2011. Compendium of cotton mealybugs. CICR
Publication, 1.
8. Lê Thị Tuyết Nhung, Phạm Văn Lầm, Kris
Wyckhuys, 2014. Báo cáo khoa học Hội nghị Côn
trùng học Quốc gia lần thứ 8, Hà Nội, ngày 10-11
tháng 4 năm 2014. Nxb Nông nghiệp: 140-146.
9. Nishi R., J.S. Kennedy, 2014. Trends in
Biosciences, 7(12): 1346-1349.
10. Nisha and Kennedy, 2017. Journal of
Entomology and Zoology Studies, 5(3): 91-102.
Phản biện: TS. NCVCC.Nguyễn Văn Liêm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bang_song_cua_rep_sap_gia_du_du_paracoccus_marginatus_willia.pdf