Mười chín bệnh nhân được nút mạch can thiệp
bằng keo sinh học histoacryl đều đạt kết quả tốt, các
dấu hiệu lâm sàng, cận lâm sàng cải thiện rõ, không
có bệnh nhân phải can thiệp lần hai, không có các
biến chứng sau can thiệp. Các bệnh nhân được xuất
viện từ 6 đến 10 ngày sau điều trị nút mạch can thiệp.
Tỷ lệ thành công là 100%. Tỷ lệ này cũng phù hợp
với nghiên cứu Jean-Claude Veille 97,6 -100%. [2]
Mặc dù bước đầu với 19 bệnh nhân, số lượng ít,
nhưng vẫn xem là phương pháp điều trị có hiệu quả
với chất liệu nút mạch keo sinh học histoacryl và
cần được áp dụng rộng rãi trên lâm sàng.
Cùng với sự phát triển các dụng cụ can thiệp
mạch như ống thông nhỏ microcatheter, vật liệu nút
mạch keo sinh học histoacryl là một trong những
lựa chọn giúp cho các nhà điện quang can thiệp
tiến hành nút mạch hiệu quả hơn, nhất là trong
các trường hợp di dạng mạch máu, dò thông tĩnh
mạch. [1],[2],[6],[8]. Do đặc tính dạng dung dịch
có thời gian trùng ngưng nhanh khi tiếp xúc với các
thành phần của máu, Histoacryl có thể di chuyển
nhanh và lấp đầy gây tắc các động mạch nuôi và
các nhân (nidus) của búi dị dạng mạch máu. Theo
nghiên cứu của Davol, histoacryl và hạt PVA đều có
giá trị tắc mạch tương đương, nhưng histoacryl có
nhiều lợi điểm hơn về sự tái thông mạch ít hơn và
giá thành rẻ hơn nhiều. Một số nghiên cứu khác cho
thấy tỷ lệ thành công khá cao nút mạch can thiệp dị
dạng động mạch não, tắc mạch trước mổ các u tăng
sinh mạch, tắc tĩnh mạch cửa làm phì đại gan còn
lại[1],[3],[5],[10].
Một số triệu chứng xảy ra sau can thiệp, như đau
bụng, sốt nhẹ, buồn nôn, nôn thường gặp sau nút
mạch can thiệp như ở các tạng. Các triệu chứng này
điều trị bằng các loại thuốc giảm đau, kháng sinh.
sẽ đỡ dần sau một đến ba ngày.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo 9 trường hợp can thiệp nội mạch bệnh nhân tiểu máu tại bệnh viện trung ương Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
84 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020
BÁO CÁO 9 TRƯỜNG HỢP CAN THIỆP NỘI MẠCH
BỆNH NHÂN TIỂU MÁU TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ
Lê Duy Cát1, Nguyễn Văn Hùng Anh1, Lê Bá Khánh Minh1
Nguyễn Văn Lợi1, Hồ Công Vĩnh Trường1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.59.12
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tiểu máu kéo dài thường do dò thông mạch máu vào đường dẫn niệu, gây ra sau chấn
thương, phẫu thuật thận, sinh thiết. Thực hiện can thiệp nội mạch gồm nhiều phương pháp và vật liệu nút
mạch khác nhau với mục đích gây tắc hoàn toàn các mạch máu gây thoát mạch hoặc giảm kích thước các
ổ dị dạng mạch máu, giảm tối đa các biến chứng và tái phát. Keo sinh học n-BCA (Histoacryl) là vật liệu nút
mạch được lựa chọn, sử dụng hiệu quả bằng đường can thiệp nội mạch.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 19 bệnh nhân có dấu hiệu thoát mạch, được điều trị bằng
phương pháp nút mạch can thiệp tại Bệnh viện Trung ương Huế từ 10/2013 đến 12/2018.
Kết quả: Không còn dấu hiệu thoát mạch sau nút mạch. Không có trường hợp nào chảy máu thứ phát.
Kết luận: Áp dụng can thiệp nội mạch bệnh nhân tiểu máu kéo dài, là phương pháp điều trị an toàn và
hiệu quả, giá thành rẻ. Phương pháp này có thể được ứng dụng rộng rãi.
Từ khóa: Can thiệp nội mạch, tiểu máu kéo dài
ABSTRACT
APPLICATIONS ENDOVASCULAR EMBOLIZATION FOR PERSISTENT
HEMATURIA AT HUE CENTRAL HOSPITAL: NINETEEN CASES SERIES
Le Duy Cat1, Nguyen Van Hung Anh1, Le Ba Khanh Minh1
Nguyen Van Loi1, Ho Cong Vinh Truong1
Background: Due to an induced arterio-ureteral fistula is very common after a renal partial surgery,
traumatic, biopsy, arteriovenous malformations (AVM), arteriovenous fistulas (AVF). Endovascular
interventions include a variety of methods and embolic materials of different circuit nodes for the purpose
of completely vascular embolization causing extravasation or reduce the size of the AVM, AVF and False
aneurysms, minimizing complications and recurrence.
Patient and Method: Nineteen patients were performed the transcatheter arterial embolization (TAE) in
Hue central hospital from 10 /2013 to 12 /2018, 19 cases had persistent hematuria.
Results: All had excluded extravasation after embolization, no recurrent hematuria.
Conclusion: Applications endovascular embolization in persistent hematuria is an effective and safe
therapeutic method, it can be widely apply.
Keywords: Intravascular intervention, prolonged hematuria
1. Bệnh viện TW Huế - Ngày nhận bài (Received): 29/9/2019; Ngày phản biện (Revised): 27/01/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 20/02/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Lê Duy Cát
- Email: catduy392@gmail.com; SĐT: 0914012050
Báo cáo 9 trường hợp can thiệp nội mạch bệnh nhâ tiểu máu...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020 85
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị dị dạng động tĩnh mạch, dò thông động
tĩnh mạch, và các thương tổn mạch máu do chấn
thương bao gồm các phương pháp phẫu thuật lấy
bỏ, xạ phẫu, và gây tắc qua đường nội mạch. Mỗi
phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm
nhất định. Trước đây, điều trị các bệnh lý về mạch
máu, chủ yếu là phẫu thuật. Ngày nay đã có nhiều
thay đổi trong điều trị bảo tồn bằng đường can thiệp
nội mạch. Với sự tiến bộ không ngừng của ngành
Chẩn đoán hình ảnh, Các kỹ thuật chụp Cộng hưởng
từ, Cắt lớp vi tính đa dãy đầu dò, Siêu âm đã giúp
cho việc chẩn đoán xác định các thương tổn mạch
máu, cũng như việc đánh giá theo dõi các biến chứng
sau khi can thiệp nội mạch, khá dễ dàng. Ngoài ra
còn cho phép đánh giá chính xác các tổn thương phối
hợp. Nút mạch can thiệp ngày nay được lựa chọn như
phương pháp điều trị có nhiều ưu thế, với sự phát
triển các loại dụng cụ, các ống thông, các vật liệu nút
mạch như Coils, các hạt nhựa tổng hợp PVA, Bọt xốp
Spongel, keo sinh học n-BCA (Histoacryl)...
Năm 1972 các tác giả Margolies MN, Ring EG,
Waltman AC [3],[5] mô tả việc thực hiện thành
công điều trị nút mạch can thiệp cho bệnh nhân chấn
thương xuất huyết. Năm 1979 Brown và cộng sự
đã chọn lựa phương pháp nút mạch can thiệp nội
mạch, cho những bệnh nhân dị dạng mạch máu, dò
thông động tĩnh mạch. Một số tác giả cũng đã xác
nhận đây là phương pháp điều trị an toàn và có hiệu
quả. [1],[4],[7],[8],[10] Áp dụng nút mạch can thiệp
với những vật liệu nút mạch khác nhau, tùy theo vị
trí, số lượng động mạch nuôi, và tốc độ dòng thông
động tĩnh mạch.
Tại bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2007 đến
5/2010, đã báo cáo áp dụng điều trị thành công 15
trường hợp chấn thương, giả phình động mạch gan
thận, có thoát thuốc cản quang trên cắt lớp vi tính,
bằng phương pháp nút mạch với histoacryl.
Tại bệnh viện trung ương Huế, bước đầu chúng
tôi đã phối hợp với các khoa lâm sàng, áp dụng
phương pháp nút mạch can thiệp bằng keo sinh học
histoacryl, thực hiện 19 trường hợp, gồm 4 trường
hợp dị dạng động tĩnh mạch thận; 5 trường hợp sau
chấn thương thận; 5 trường hợp biến chứng chảy
máu sau mổ lấy sỏi thận ở tuyến trước chuyển về; 5
trường hợp dò thông động tĩnh mạch thận kèm giả
phình mạch. Mục tiêu đề tài nhằm đánh giá tính khả
thi, hiệu quả và độ an toàn của kỹ thuật.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ 10 /2013 đến 12/2018, có 19 bệnh nhân được
chẩn đoán thoát mạch, AVM, AVF, giả phình mạch,
thoát mạch trên cắt lớp vi tính, siêu âm. Có chỉ định
nút mạch can thiệp.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp mô tả cắt ngang, nghiên cứu đặc
điểm hình ảnh trước nút mạch, chỉ định chụp mạch
và kết quả nút mạch.
2.3. Phương tiện nghiên cứu
Máy chụp mạch DSA (số hóa xóa nền ) PHILIPS.
Các loại ống thông (catheter) các cỡ 5F, 6F. Ống
thông nhỏ (microcatheter) 2,7F. Vật liệu nút mạch
keo sinh học histoacryl.
2.4. Kỹ thuật
Bằng phương pháp chụp mạch Seldinger, việc
thực hiện chụp mạch chẩn đoán và nút mạch can
thiệp được thực hiện theo từng bước, gây tê tại chỗ,
đặt máng trượt (introducer) vào động mạch đùi,
thường đặt bên phải.
Chụp chọn lọc xác định động mạch nuôi tổn
thương bằng ống thông 5F (Cobra) để đánh giá hình
thái tổn thương của các nhánh xuất phát .
Sử dụng ống thông nhỏ đồng trục (coaxial) 2,7 F
chọn lọc các nhánh thương tổn, tiến hành nút mạch
bằng histoacryl.
Đánh giá cuống nuôi được nút, phải thỏa mãn 2
điều kiện sau: một là không thấy nhánh mạch lành
từ cuống nuôi (nhất là nhánh mạch đó cấp máu cho
vùng có chức năng); hai là đầu vi ống thông còn di
động (có thể bị tỳ vào thành mạch hoặc lỗ của nhánh
Bệnh viện Trung ương Huế
86 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020
bên nhỏ, làm tăng nguy cơ dính đầu vi ống thông).
Tiếp đó, đánh giá lưu lượng thông động- tĩnh mạch
để điều chỉnh mức độ pha loãng của chất keo acrylic
(Histoacryl 0,5ml; B Braun, Aesculap, Tuttlingen,
Đức) với dầu ethiodod (Lipiodol 10ml; Guerbet,
Aulnay-sous-Bois, Pháp), nếu thông trực tiếp giữa
động tĩnh mạch lưu lượng cao thì tỷ lệ Histoacryl
cao hơn, cao nhất là tỷ lệ 1/2 (Histoacryl / Lipiodol:
0,5/1); ngược lại nếu qua trung gian mạch di dạng
giãn trong ổ dị dạng thì tỷ lệ thấp hơn, thấp nhất là
1/5 (Histoacryl/Lipiodol: 0,5/2,5).
Trước khi bơm keo hỗn hợp này, bơm rửa vi ống
thông bằng dung dịch nước đường Dextrose 5%.
Cuối cùng, tiến hành bơm hỗn dịch keo dưới màn
chiếu, dừng bơm khi thấy có nguy cơ hoặc hiện tượng
trào ngược. Để tránh dính đầu vi ống thông, thời gian
bơm không nên quá dài (dưới 2 phút) và trước rút cần
phải hút kéo nhẹ bơm tiêm để dễ dàng tách chất keo
dính giữa lòng mạch và đầu vi ống thông.
Chụp kiểm tra động mạch nuôi sau nút mạch.
Dùng thuốc giảm đau, kháng sinh sau can thiệp.
Bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ trong 24 giờ,
mạch, huyết áp, chỗ chọc dò động mạch đùi, tại
khoa lâm sàng.
III KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
được cấp máu bởi các nhánh động mạch hạ phân
thùy xuất phát từ động mạch thùy dưới thận trái. Dựa
vào kích thước và tốc độ dòng chảy của búi dị dạng
mạch máu, chúng tôi quyết định nút mạch can thiệp
bằng vật liệu nút mạch, keo sinh học histoacryl. Đầu
catheter được đưa vào chỗ phân chia các động mạch
gian thùy, từ động mạch hạ phân thùy của thùy dưới
thận trái. Đầu catheter vẫn còn di động trong lòng
mạch. Tiến hành các bước chuẩn bị để thực hiện nút
mạch bằng hỗn hợp dịch keo sinh học histoacryl và
Lipiodol, với tỷ lệ 1/2 (Histoacryl / Lipiodol: 0,5/1)
[6],[9],[10]. Bơm trực tiếp dung dịch vào ổ dị dạng
mạch máu và kéo đầu catheter lui khỏi vị trí nút
Hình 1. Trước nút mạch Chụp kiểm tra sau nút mạch
Bệnh nhân nam Dương Văn H..., 28 tuổi (hình 1),
số vào viện 1633441, nhập viện vào khoa Nội Thận
ngày 10/4/2016 với lý do đái máu toàn bãi, được
chuyền máu và điều trị nội khoa tích cực, nhưng vẫn
không cải thiện. Chụp cắt lớp vi tính 64 dãy và siêu
âm xác định ổ dị dạng mạch máu AVM thận ở cực
dưới thận trái. Bệnh nhân được thực hiện can thiệp
mạch máu dưới máy chụp máy số hóa xóa nền DSA.
Chụp toàn bộ động mạch chủ từ trên chỗ chia động
mạch thận, xác định búi mạch bất thường ở thận trái
và tĩnh mạch dẫn lưu khá lớn. Thận phải, các mạch
máu trong giới hạn bình thường. Đưa catheter cobra
5F vào động mạch thận trái, chụp xác định búi mạch
Báo cáo 9 trường hợp can thiệp nội mạch bệnh nhâ tiểu máu...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020 87
mạch, thời gian dưới 3 giây. Chụp kiểm tra sau khi
nút mạch, tắc mạch đúng vị trí hạ phân thùy dưới
thận trái. Hổn hợp dịch keo Histoacryl và Lipiodol đã
vào đến các nhân (nidus) của búi dị dạng. Không còn
xuất hiện tĩnh mạch dẫn lưu. Chủ mô thận trái còn lại
được tưới máu nhiều hơn. Bệnh nhân được chuyển về
lại khoa lâm sàng theo dõi, không còn đái máu, huyết
động ổn định.
Hình 2. Trước nút mạch Chụp kiểm tra sau nút mạch
Bệnh nhân nam Lê Ngọc N 27 tuổi (hình 2), số
vào viện 180027497, nhập viện vào khoa Ngoại Tiết
Niệu ngày 3/5/2018 với lý do đái máu kéo dài. Chụp
cắt lớp vi tính và siêu âm xác định búi dị dạng thoát
mạch ở cực dưới thận trái. Bệnh nhân được thực hiện
can thiệp mạch máu dưới máy chụp máy số hóa xóa
nền DSA. Chụp toàn bộ động mạch chủ từ trên chỗ
chia động mạch thận, xác định búi mạch bất thường
ở thận trái và tĩnh mạch dẫn lưu cực dưới. Tiến hành
các bước chuẩn bị để thực hiện nút mạch bằng hỗn
hợp dịch keo sinh học histoacryl và Lipiodol, với tỷ
lệ 1/3 (Histoacryl / Lipiodol: 0,5/1,5) [6],[9],[10].
Bơm trực tiếp dung dịch vào ổ dị dạng mạch máu và
kéo đầu catheter lui khỏi vị trí nút mạch. Chụp kiểm
tra sau khi nút mạch, tắc mạch đúng vị trí hạ phân
thùy dưới thận trái. Không còn xuất hiện tĩnh mạch
dẫn lưu. Việc sử dụng microcatheter 2.7F đã tiếp cận
mạch máu thương tổn, tránh tối đa các nhánh mạch
máu bình thường và bảo tồn tối đa nhu mô thận lành
so với các phương pháp phẫu thuật cắt thận. Bệnh
nhân được chuyển về lại khoa lâm sàng theo dõi,
không còn đái máu, huyết động ổn định. Kiểm tra
chụp CLVT sau 2 tháng can thiệp, không còn mạch
máu bất thường, không còn tiểu máu kéo dài.
Mười chín bệnh nhân được nút mạch can thiệp
bằng keo sinh học histoacryl đều đạt kết quả tốt, các
dấu hiệu lâm sàng, cận lâm sàng cải thiện rõ, không
có bệnh nhân phải can thiệp lần hai, không có các
biến chứng sau can thiệp. Các bệnh nhân được xuất
viện từ 6 đến 10 ngày sau điều trị nút mạch can thiệp.
Tỷ lệ thành công là 100%. Tỷ lệ này cũng phù hợp
với nghiên cứu Jean-Claude Veille 97,6 -100%. [2]
Mặc dù bước đầu với 19 bệnh nhân, số lượng ít,
nhưng vẫn xem là phương pháp điều trị có hiệu quả
với chất liệu nút mạch keo sinh học histoacryl và
cần được áp dụng rộng rãi trên lâm sàng.
Cùng với sự phát triển các dụng cụ can thiệp
mạch như ống thông nhỏ microcatheter, vật liệu nút
mạch keo sinh học histoacryl là một trong những
lựa chọn giúp cho các nhà điện quang can thiệp
tiến hành nút mạch hiệu quả hơn, nhất là trong
các trường hợp di dạng mạch máu, dò thông tĩnh
mạch. [1],[2],[6],[8]. Do đặc tính dạng dung dịch
có thời gian trùng ngưng nhanh khi tiếp xúc với các
thành phần của máu, Histoacryl có thể di chuyển
nhanh và lấp đầy gây tắc các động mạch nuôi và
các nhân (nidus) của búi dị dạng mạch máu. Theo
nghiên cứu của Davol, histoacryl và hạt PVA đều có
Bệnh viện Trung ương Huế
88 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 59/2020
giá trị tắc mạch tương đương, nhưng histoacryl có
nhiều lợi điểm hơn về sự tái thông mạch ít hơn và
giá thành rẻ hơn nhiều. Một số nghiên cứu khác cho
thấy tỷ lệ thành công khá cao nút mạch can thiệp dị
dạng động mạch não, tắc mạch trước mổ các u tăng
sinh mạch, tắc tĩnh mạch cửa làm phì đại gan còn
lại[1],[3],[5],[10].
Một số triệu chứng xảy ra sau can thiệp, như đau
bụng, sốt nhẹ, buồn nôn, nôn thường gặp sau nút
mạch can thiệp như ở các tạng. Các triệu chứng này
điều trị bằng các loại thuốc giảm đau, kháng sinh..
sẽ đỡ dần sau một đến ba ngày.
IV. KẾT LUẬN
Bước đầu áp dụng thuyên tắc mạch cho 19 bệnh
nhân có thương tổn mạch thận, tiểu máu kéo dài đạt
kết quả tốt. Chúng tôi nhận thấy đây là phương pháp
điều trị ít xâm nhập, an toàn, giá rẻ và mang lại hiệu
quả cao, có thể thay thế các phương pháp phẫu thuật
trước đây. Với sự phát triển cải thiện các dụng cụ
ống thông, vật liệu nút mạch, kỹ thuật, thì phương
pháp này không khó để chỉ định rộng rãi và mang
lại kết quả tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Elizabeth A. Ignacio and Kiang Hiong Tay,
Image-Guided Interventions, Second Edition,
2013, Chương 60, Tr. 547-552.
2. Ardeshir R. Rastinehad, Interventional Urology,
2016, Tr. 287-292
3. John A. Kaufman, Vascular And Interventional
Radiology:the Requisites, 2014, Chương10, Tr.
199 - 202
4. Khashayar Farsad and John A. Kaufman, Abrams’
Angiography Interventional Radiology Third
Edition 2013, Chương 27, Tr. 291-296.
5. Michael J. Lee Anthony F. Watkinson,
Transcatheter Embolization And Therapy, 2016,
Chương 38, Tr. 377 – 383.
6. R. Ribes, Learning Vascular And Interventional
Radiology, 2010, Tr. 15 – 20.
7. Pascal Chabrot • Louis Boyer, Embolization,
2014, Tr. 234-237.
8. Thomas J. Vogl, Diagnostic and Interventional
Radiology, 2016, Tr. 876.
9. W. Scott Mcdougal, Campbell-Walsh Urology
Eleventh Edition Review, 2016, Tr 426.
10. Todd E. Rasmussen, Rich’s Vascular Trauma,
2016, Tr. 316.
Báo cáo 9 trường hợp can thiệp nội mạch bệnh nhâ tiểu máu...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bao_cao_9_truong_hop_can_thiep_noi_mach_benh_nhan_tieu_mau_t.pdf