Kiến nghị chính sách kinh tế vĩ mô
126. Xây dựng các kịch bản, với sự tham gia của nhiều cơ quan, để ứng phó với các
cú sốc bất lợi trên thị trường thế giới. Tái khẳng định ưu tiên ổn định kinh tế vĩ
mô, tạo dựng thêm dư địa cho điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, không nới
lỏng chính sách kinh tế vĩ mô bằng mọi giá để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
* Về chính sách tiền tệ:
127. Sớm ban hành Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện, tạo điều kiện cho
người dân và doanh nghiệp tiếp cận tài chính, giảm tệ nạn tín dụng đen
128. Quan tâm đến vấn đề tài chính số (gồm cả ngân hàng số và chứng khoán số) để
có biện pháp ứng xử, quản lý phù hợp, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để quản
lý trong bối cảnh tiền ảo, tiền kỹ thuật số ngày càng thu hút sự quan tâm và tác
động khó lường
129. Tiếp tục dành ưu tiên cao nhất cho việc tái cơ cấu các NHTM và cải thiện chất
lượng nợ xấu. Rà soát hành vi cạnh tranh của các NHTM, đặc biệt là các
NHTM yếu kém nhằm tránh méo mó đối với diễn biến lãi suất.
130. Tránh yêu cầu giảm lãi suất cho vay một cách hành chính, nhằm tạo thêm sự
linh hoạt khi ứng phó với các diễn biến bất lợi trên thị trường tài chính thế giới.
131. Tiếp tục thông tin định kỳ với thị trường về công tác điều hành tỷ giá. Truyền
thông về các đánh giá, kiến nghị liên quan đến chính sách tỷ giá cần được thực
hiện rõ ràng, trung tính hơn. Tránh đề ra các mục tiêu “cứng” đối với công tác
điều hành tỷ giá.
132. Kiểm soát chặt chẽ diễn biến tín dụng vào khu vực bất động sản.
133. Điều hành linh hoạt thanh khoản của hệ thống NHTM để hỗ trợ cho hoạt động
tín dụng, phát hành TPCP, phòng ngừa và ứng phó với biến động của dòng vốn
đầu tư gián tiếp và kiều hối (nhất là quanh thời điểm FED cân nhắc điều chỉnh
lãi suất).
61 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Kinh tế vĩ mô - Quý I - Năm 2018, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5 chủ yếu bán hàng rong và bán
nước (82,6%) và làm các công việc tự do (12,1%).
42 Báo cáo “Phụ nữ, việc làm và tiền lương: Tổng quan về lao động nữ tại Việt Nam” của Mạng lưới
Hành động vì lao động di cư Việt Nam
43 Vấn đề này chủ yếu xảy ra trong các ngành, lĩnh vực cần sử dụng nhiều lao động như gia công,
lắp ráp, không yêu cầu cao về chất lượng lao động. Doanh nghiệp chỉ cần hai tuần để đào tạo là lao
động đã làm được việc. Quá trình tuyển dụng - sa thải diễn ra liên tục và nhanh chóng để doanh nghiệp
tránh các chi phí về tăng lương, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp.
44 Lê Đình Quảng (2017).
45 Bảo vệ công nhân trên 35 tuổi khỏi nguy cơ thất nghiệp.
cong-nhan-tren-35-tuoi-khoi-nguy-co-that-nghiep-20161011230418264.htm
33
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
90. Hiệu lực, hiệu quả của các chính sách về bình đẳng giới chưa cao. Cơ chế
thực thi chưa tạo khuyến khích sử dụng lao động nữ trong doanh nghiệp: Các
ưu đãi cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ (Luật Đấu thầu, Luật Hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, v.v.) còn hạn chế do vướng mắc về quy trình,
thủ tục. Một số quy định bảo đảm việc đẳng giới dưới góc độ của pháp luật
nhưng lại chưa đảm bảo bình đẳng giới thực chất trên thực tế do thiếu các điều
kiện bảo đảm như: Quy định bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi
được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức;
quy định về điều kiện để công chức được cử đi đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
Việc lồng ghép các quy định về bình đẳng giới trong các văn bản pháp luật
còn chưa được quan tâm đúng mức.
91. Các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế chưa nhấn mạnh đến khía cạnh bảo đảm
và bảo vệ quyền của phụ nữ khỏi các tác động tiêu cực từ cơ cấu lại nền kinh
tế như: (i) Vấn đề chuẩn bị về trình độ và kỹ năng nghề cho phụ nữ đáp ứng
nhu cầu chuyển dịch sang các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mới và áp dụng
công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh; (ii) Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
trong quan hệ lao động: vấn đề thất nghiệp của người lao động trên 35; công
bằng tiền lương; (iii) Cân đối giữa công việc gia đình và tham gia hoạt động
kinh tế, đào tạo của phụ nữ.
92. Đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới mới được hình thành, nên còn rất
thiếu về số lượng và hạn chế về kiến thức giới, kỹ năng lồng ghép giới. Thiếu
các chuyên gia có kiến thức, kỹ năng lồng ghép giới trong các ngành chuyên
môn.
93. Công tác nghiên cứu, đề xuất chính sách về bình đẳng giới còn chưa được
quan tâm đúng mức. Còn thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu về bình đẳng giới.
Khuyến nghị chính sách bảo đảm quyền cho phụ nữ trong quá trình cơ cấu
lại nền kinh tế
94. Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật về bình đẳng
giới. Đảm bảo đánh giá đầy đủ các nội dung về bảo đảm bình đẳng giới trong
quá trình xây dựng văn bản pháp luật.
95. Xác định bình đẳng giới là một nội dung trong cơ cấu lại nền kinh tế; quá
trình hoàn thiện chính sách về cơ cấu lại ngành, lĩnh vực cần gắn với việc bảo
đảm quyền của phụ nữ và hạn chế tác động tiêu cực từ cơ cấu lại nền kinh tế
đến việc thực hiện quyền của phụ nữ. Đảm bảo nâng cao phúc lợi và cơ hội
của phụ nữ qua 2 kênh chính: (i) Tái cơ cấu việc làm; và (ii) Nâng cấp dịch vụ
công.
96. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị- xã hội để bảo vệ
quyền của phụ nữ, bổ sung, đào tạo các cán bộ làm công tác bình đẳng giới,
đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp.
97. Tăng cường công tác phối hợp liên ngành và đẩy mạnh việc huy động nguồn
lực trong nước và quốc tế dành cho công tác bình đẳng giới
98. Hoàn thiện hệ thống dữ liệu về bình đẳng giới.
34
2. Nghị quyết 19 và các ưu tiên, vấn đề cần xử lý
Đánh giá tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết 19 trong quý I/2018
99. Trong bốn năm triển khai Nghị quyết 19, môi trường kinh doanh và năng lực
cạnh tranh của nước ta năm 2017 được các tổ chức quốc tế ghi nhận cải thiện
nhiều nhất. Ba bộ chỉ số đặt mục tiêu đều tăng điểm và tăng hạng. Cụ thể là:
năng lực cạnh tranh quốc gia tăng 5 bậc so với năm 2016 (từ vị trí 60/138 lên
vị trí 55/137 nền kinh tế); môi trường kinh doanh tăng 14 bậc, từ 82 lên
68/190 nền kinh tế; đổi mới sáng tạo cải thiện 12 bậc, đạt thứ hạng 47/127 nền
kinh tế. Đó là những thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đã đạt được cho đến
nay.
100. Nhìn chung, năm 2017, các Bộ, ngành, địa phương đã có sự quan tâm, chú
trọng và vào cuộc nhiều hơn. Ngay những tháng đầu năm 2018, một số Bộ,
ngành (như Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Y tế, Công
Thương, VCCI, ...) và địa phương (gồm Quảng Ninh, Hà Nội, Cao Bằng,
Điện Biên,...) đã tích cực tiếp tục triển khai các nhiệm vụ được giao và đã đạt
được một số kết quả rõ ràng. Cụ thể là:
Văn phòng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị quốc
tế “Cải thiện vượt bậc môi trường kinh doanh nhằm nâng cao chất
lượng và tốc độ tăng trưởng” vào ngày 15/3/2018. Hội nghị đã đánh giá
kết quả về cải thiện môi trường kinh doanh giai đoạn 2014-2017 và
những nội dung, nhiệm vụ, giải pháp cho năm 2018 và các năm tiếp theo.
Đây cũng là diễn đàn để các Bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh
nghiệp, các đối tác phát triển trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, khó khăn,
vướng mắc, và đề xuất, kiến nghị giải pháp cải thiện hơn nữa môi trường
đầu tư kinh doanh. Tại Hội nghị, một số Bộ, ngành và địa phương cũng
thể hiện cam kết đẩy nhanh việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm
đạt được các mục tiêu Nghị quyết 19 đề ra.
Trên cơ sở đề xuất của Bộ Xây dựng, ngày 13/3/2018, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Chỉ thị về việc tăng cường thực hiện các biện pháp
nhằm rút ngắn thời gian cấp giấy phép xây dựng và các thủ tục liên quan.
Chỉ thị nêu rõ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp rút ngắn thời gian cấp
giấy phép xây dựng và các thủ tục liên quan gắn với trách nhiệm của các
Bộ: Xây dựng, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Công Thương, Công an, Quốc phòng; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các
Sở, ban, ngành liên quan.
Văn phòng Chính phủ đã đôn đốc, kiểm tra tình hình và kết quả thực hiện
Nghị quyết 19. Đặc biệt, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ đã tổ
chức kiểm tra các Bộ về hai nội dung: (i) rà soát, cắt giảm danh mục hàng
hóa kiểm tra chuyên ngành và đề xuất cách thức quản lý đối với sản
phẩm, hàng hóa chịu sự kiểm tra chuyên ngành chồng chéo giữa các Bộ;
và (ii) rà soát, đề xuất bãi bỏ, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh. Tổ công
tác quán triệt quan điểm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về
cải cách toàn diện hoạt động kiểm tra chuyên ngành, bảo đảm, cắt giảm,
35
đơn giản hóa 50% danh mục sản phẩm, hàng hóa kiểm tra chuyên ngành;
cắt giảm, đơn giản hóa 50% điều kiện đầu tư, kinh doanh.
Về phía địa phương, đã có sự vào cuộc, thực hiện Nghị quyết 19 tích cực
và chủ động hơn, nhưng sự vào cuộc không đồng đều. Một số tỉnh, thành
phố triển khai tích cực, có nhiều sáng kiến cải cách, theo đó niềm tin của
cộng đồng doanh nghiệp về chất lượng môi trường kinh doanh của địa
phương cũng tăng lên (như Quảng Ninh, Hà Nội, Đồng Tháp, v.v.).
Những sáng kiến cải cách (ví dụ như Quảng Ninh với sáng kiến đánh giá
tính sáng tạo và kết quả điều hành của các sở, ban ngành và quận, huyện
theo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp sở, ban ngành và cấp huyện; Hà Nội
nghiên cứu thực tiễn tốt của các nước OECD để tìm kiếm cách thức hiệu
quả cải thiện môi trường kinh doanh) đang dần được nhân rộng.
Một số địa phương trước đây chưa thật sự quan tâm thực hiện Nghị quyết
thì ngay từ đầu năm 2018 đã quyết liệt triển khai thực hiện như Cao Bằng,
Quảng Bình, Nam Định, v.v. Trong khi đó, một số địa phương triển khai
các giải pháp còn chậm, do vậy chất lượng môi trường kinh doanh và
năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện.
Ngày 22/3/2018, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố
xếp hạng Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2017. Kết quả cho
thấy năm 2017, điểm số PCI đạt cao nhất trong 13 năm điều tra. Đó là sự
thay đổi tích cực về chất lượng quản lý và điều hành của các địa phương.
Sự cải thiện này là rõ nét và khác biệt so với trước, và có tác động thực sự
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đáng chú ý là những tỉnh, thành phố tích cực triển khai thực hiện Nghị
quyết 19 cũng là những địa phương có cải thiện tốt về năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (điển hình là Quảng Ninh, Đồng Tháp,v.v.). Trong đó, Quảng
Ninh là một điển hình tốt với nhiều sáng kiến cải cách, gắn việc cải thiện
môi trường kinh doanh theo yêu cầu của Nghị quyết với nâng cao chất
lượng quản lý, điều hành, nhờ vậy Quảng Ninh vươn lên vị trí đứng đầu
bảng xếp hạng PCI2017.
101. Bên cạnh đó, kết quả PCI2017 cũng cho thấy những cải cách của các Bộ,
ngành cũng đã được hiện thực hoá ở cấp địa phương. Ví dụ như thời gian tiếp
cận điện năng, thời gian gián đoạn cung ứng điện giảm đáng kể; chi phí không
chính thức, nhũng nhiễu đã hạn chế nhiều, chất lượng giải quyết thủ tục hành
chính có chuyển biến tích cực.
Cải cách quy định về điều kiện kinh doanh
102. Cải cách các quy định về điều kiện kinh doanh nhằm thúc đẩy cạnh tranh,
khuyến khích phát triển doanh nghiệp là trọng tâm của Chính phủ. Ngay ngày
làm việc đầu tiên của năm Mậu Tuất, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công
điện yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương bắt tay ngay vào việc triển khai Nghị
quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 với tinh thần thúc đẩy tăng trưởng, tạo
việc làm, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, mục tiêu cắt giảm 50% điều
kiện kinh doanh, 50% danh mục hàng hoá kiểm tra chuyên ngành thuộc trách
nhiệm quản lý của các bộ, ngành.
36
103. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, ngay trong quý I/2018,
các Bộ, ngành đã triển khai rà soát, đề xuất bãi bỏ, sửa đổi các điều kiện kinh
doanh. Theo thông tin nhận được cho đến ngày 26/3/2018, hầu hết các Bộ đã
triển khai thực hiện nhiệm vụ này. Tuy vậy, mức độ khẩn trương, quyết liệt
của các Bộ, ngành chưa đồng đều và do vậy kết quả có sự khác biệt. Cụ thể là:
Bộ Công Thương là Bộ đầu tiên thực hiện rà soát và có phương án cắt
giảm điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ. Ngày
15/1/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2018/NĐ-CP sửa đổi
một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương. Theo đó, khoảng hơn 50%
điều kiện kinh doanh đã được cắt bỏ hoặc sửa đổi theo hướng minh bạch,
rõ ràng và đơn giản hơn (trong đó khoảng 22% số điều kiện kinh doanh
được bãi bỏ).
Bộ Xây dựng có nỗ lực cải cách đáng kể về môi trường kinh doanh nói
chung và điều kiện kinh doanh nói riêng. Cụ thể Bộ đã thực hiện:
- Đề xuất bãi bỏ 05 ngành, nghề không thuộc Danh mục ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện của Luật số 03/2016/QH14 sửa đổi, bổ sung
Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện của Luật Đầu tư nhưng được quy định các Nghị định do Bộ
Xây dựng chủ trì soạn thảo.
- Đề xuất bãi bỏ 04 ngành, nghề thuộc Danh mục ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện của Luật số 03/2016/QH14 không đáp ứng tiêu chí
tại Điều 7 của Luật Đầu tư.
- Đề xuất bãi bỏ 89 điều kiện (chiếm 41,3%); đơn giản hóa 94 điều kiện
(43,7%); giữ nguyên 32 điều kiện (15%) tổng số 215 điều kiện đầu tư,
kinh doanh thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng.
Các đề xuất bãi bỏ nêu trên dự kiến đưa vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất
động sản, Luật Quy hoạch đô thị (đối với các ngành, nghề đầu tư, kinh
doanh có điều kiện đang được quy định tại Luật)46 và dự thảo Nghị định
sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng (đối với các ngành,
nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện đang được quy định tại Nghị định).
Hiện tại, Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về
điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây
dựng đã trình Chính phủ.
Theo kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong tổng
số 345 điều kiện kinh doanh thuộc 33 ngành nghề kinh doanh có điều
kiện thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ, dự kiến đề xuất bãi bỏ, sửa đổi theo
46 Bộ Xây dựng đã lập hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng,
Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị, trình Chính phủ tại Tờ trình số
64/TTr-BXD ngày 30/11/2017. Chính phủ đã thông qua chính sách tại Nghị quyết số 131/NQ-CP ngày
6/12/2017. Ngày 18/12/2017, Bộ Xây dựng có văn bản số 3045/BXD-PC gửi Bộ Tư pháp để lập đề
nghị điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018.
37
hướng rút gọn 118 điều kiện (gồm bãi bỏ 65 và sửa đổi 53 điều kiện),
chiếm 34,2%. Theo thông tin nhận được cho đến nay, những điều kiện
kinh doanh Bộ đề xuất sửa đổi chưa có phương án sửa đổi cụ thể.
Bộ Thông tin và Truyền thông báo cáo chưa có thống kê cụ thể về việc rà
soát, đề xuất cắt giảm điều kiện kinh doanh (theo công văn số 14/BTTTT-
QLDN ngày 5/1/2018).
Bộ Giao thông vận tải quản lý 28 ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều
kiện. Bộ đã rà soát và có kiến nghị cụ thể về bãi bỏ, sửa đổi các điều kiện
kinh doanh liên quan. Hiện Bộ đang phối hợp với các cơ quan, hiệp hội
(như VCCI) tổ chức lấy ý kiến doanh nghiệp về nội dung này.
Bộ Tư pháp quản lý hoạt động hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
Bộ đã rà soát và có kiến nghị cụ thể về bãi bỏ, sửa đổi các điều kiện kinh
doanh liên quan, nhưng chưa thống kê số lượng điều kiện kinh doanh bãi
bỏ, sửa đổi.
Bộ Tài chính đề xuất bãi bỏ các điều kiện kinh doanh dịch vụ đòi nợ
không cần thiết tại Nghị định số 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh đòi nợ;
bãi bỏ toàn bộ điều kiện kinh doanh tại Nghị định số 69/2016/NĐ-CP về
kinh doanh dịch vụ mua bán nợ (Nghị định do Ngân hàng Nhà nước chủ
trì soạn thảo, trong đó giao Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp kinh doanh mua bán nợ) và tiến tới đề xuất bỏ ngành
nghề này ra khỏi Danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện.
Tuy vậy, Bộ Tài chính chưa thống kê toàn diện tổng số điều kiện kinh
doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ; số điều kiện bãi bỏ; số điều kiện
sửa đổi cũng như phương án sửa đổi.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề xuất cắt bỏ 03 ngành nghề ra khỏi
Danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện; bổ sung điều kiện
kinh doanh đối với một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhưng
chưa có phương án cụ thể. Báo cáo của Bộ chưa thể hiện kết quả rà soát
tổng thể điều kiện kinh doanh theo từng ngành nghề; chưa thống kê toàn
diện tổng số điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ; số điều
kiện bãi bỏ; số điều kiện sửa đổi.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý 9 ngành, nghề đầu tư, kinh
doanh có điều kiện. Nhìn chung, Bộ chưa thực hiện rà soát chi tiết; chưa
thống kê số lượng điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ;
không đề xuất bãi bỏ điều kiện kinh doanh. Bộ đề xuất sửa đổi một số quy
định chưa phù hợp với một số luật mới, nhưng không nêu rõ quy định
cũng như phương án sửa đổi.
Ngân hàng Nhà nước đề nghị duy trì các điều kiện kinh doanh trong lĩnh
vực ngân hàng do tính chất đặc thù của các tổ chức tín dụng so với hoạt
động của các loại hình doanh nghiệp khác và do tính chất rủi ro cao của
hoạt động ngân hàng.
Bộ Công an đề nghị duy trì các điều kiện kinh doanh do phù hợp và cần
thiết cho công tác quản lý về an ninh, trật tự và phòng cháy chữa cháy.
38
Bộ Tài nguyên và Môi trường báo cáo đã thực hiện rà soát, đề xuất bãi
bỏ, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh (nhưng không gửi kèm theo nội
dung rà soát và phương án bãi bỏ, đơn giản hóa).
Bộ Khoa học và Công nghệ báo cáo chưa bám sát yêu cầu, chưa thể hiện
được rõ ràng kết quả rà soát điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý
của Bộ. Bộ đề xuất bỏ ngành nghề “sản xuất mũ bảo hiểm cho người đi
mô tô, xe máy” ra khỏi Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện.
Bộ Y tế quản lý nhiều ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Bộ chưa hoàn
thành rà soát chi tiết; chưa thống kê số lượng điều kiện kinh doanh thuộc
lĩnh vực quản lý của Bộ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã rà soát, đề xuất cắt giảm điều kiện kinh doanh,
nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của Chính phủ, còn nhiều điều kiện kinh
doanh không cần thiết, không hợp lý, không có ý nghĩa trong quản lý.
104. Nhìn chung, trong quý I/2018 các Bộ đã tích cực, khẩn trương hơn so với thời
gian trước trong thực hiện rà soát, đề xuất cắt giảm điều kiện kinh doanh. Tuy
vậy, mới chỉ có Bộ Công thương có kết quả rõ ràng với Nghị định
08/2018/NĐ-CP. Bộ Xây dựng dự kiến trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh trong
tháng 3/2018. Hai Bộ, ngành (gồm Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an) đề
nghị giữ nguyên các quy định về điều kiện kinh doanh. Các Bộ khác đang tiếp
tục rà soát, lấy ý kiến về đề xuất bãi bỏ, sửa đổi các điều kiện kinh doanh.
Tình hình và kết quả thực hiện các yêu cầu về quản lý chuyên ngành đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
105. Trong quý I/2018, cải cách quy định về quản lý chuyên ngành đối với hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã đạt được một số kết quả. Cụ thể là:
Kết quả đáng kể nhất trong cải cách quản lý chuyên ngành là việc Chính
phủ ban hành Nghị định 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 về quản lý an
toàn thực phẩm thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP (Nghị định 15). Nghị
định 15 thể hiện thay đổi căn bản trong tư duy về quản lý an toàn thực
phẩm (ATTP), phù hợp với thông lệ quốc tế, chuyển từ tiền kiểm sang
hậu kiểm. Nghị định tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao tính tuân thủ các
quy định về ATTP, song vẫn đảm bảo mục tiêu về quản lý nhà nước. Một
số điểm mới của Nghị định như: (i) cho phép doanh nghiệp tự công bố
sản phẩm; sản phẩm, nguyên liệu chỉ dùng sản xuất, gia công hàng xuất
khẩu hoặc phục vụ sản xuất nội bộ được miễn thực hiện thủ tục tự công
bố; (ii) giảm thời gian, thủ tục công bố; (iii) thay đổi căn bản trong kiểm
soát về an toàn thực phẩm đối với thực phẩm nhập khẩu (như bổ sung
thêm các trường hợp miễn kiểm tra nhà nước về ATTP; áp dụng quản lý
rủi ro trong kiểm tra nhà nước về ATTP; phân cấp cho các cơ quan quản
lý chuyên ngành cấp tỉnh); (iv) thay đổi quy định về ghi nhãn thực phẩm
theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; (v) thu gọn quản lý về quảng
cáo thực phẩm; (vi) quy định rõ hơn về phân công trách nhiệm quản lý
39
nhà nước về ATTP. Theo đó, Nghị định 15 đã khắc phục được sự chồng
chéo, nhiều tầng nấc quản lý trong thủ tục liên quan tới ATTP.
Những thay đổi của Nghị định 15 đã giúp giảm gánh nặng về thời gian và
chi phí đáng kể cho doanh nghiệp. Trước đây, doanh nghiệp phải mất
nhiều tháng để thực hiện thủ tục công bố phù hợp quy định ATTP và
hàng chục triệu đồng chi phí cho một lần công bố. Theo ước tính của Bộ
Y tế thì số sản phẩm tự công bố chiếm khoảng 90%, giúp tiết kiệm đáng
kể thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Đối với Bộ Công Thương, ngay sau khi nhận được những phản ánh về
vướng mắc của doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục Dán nhãn năng
lượng, trong tháng 1/2018, Bộ đã kịp thời đăng tải thông tin cập nhật
những điểm cải cách của Thông tư số 36/2016/TT-BCT47 và hướng dẫn
chi tiết việc đăng ký dán nhãn năng lượng. Theo đó, sau khi nộp hồ sơ
đăng ký dán nhãn năng lượng đến Bộ Công Thương (qua bưu điện hoặc
qua trang thông tin điện tử), doanh nghiệp tự thực hiện việc dán nhãn
năng lượng phù hợp với thông tin trong Giấy công bố dán nhãn năng
lượng cho sản phẩm đã đăng ký mà không cần đợi cơ quan quản lý xác
nhận đã nộp hồ sơ. Những hướng dẫn này của Bộ Công Thương đã giúp
doanh nghiệp hiểu rõ hơn quy trình và giải quyết ngay những vướng mắc
của doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục đăng ký dán nhãn năng lượng.
Về triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN, tính đến
ngày 22/02/2018, đã có 11 Bộ, ngành triển khai kết nối chính thức với Cơ
chế một cửa quốc gia. Ngoài thủ tục thông quan hàng hóa (Bộ Tài chính),
10 Bộ, ngành còn lại đã được triển khai 47 thủ tục hành chính. Từ ngày
01/01/2018, Việt Nam đã trao đổi chính thức thông tin e-C/O form D với
04 nước ASEAN (Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan) qua Cơ chế
một cửa ASEAN.
Với những vướng mắc về phí trong kiểm dịch và kiểm tra chất lượng thức
ăn chăn nuôi được phản ánh trong Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện
Nghị quyết 1948, Bộ Tài chính đã nhanh chóng có văn bản gửi Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Cụ thể đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn:
- Nghiên cứu, chỉ đạo các đơn vị thực hiện kiểm dịch và kiểm tra chất
lượng thức ăn chăn nuôi phối hợp trong việc lấy mẫu và niêm phong
mẫu. Một tàu hàng thức ăn chăn nuôi đồng nhất chỉ tiến hành 01 lần
47 Thông tư số 36/2016/TT-BCT quy định dán nhãn năng lượng cho các phương tiện, thiết bị sử dụng
năng lượng thay thế Thông tư số 07/2012/TT-BCT đã giảm thiểu các thủ tục hành chính về dán nhãn
năng lượng. Cụ thể là (i) Áp dụng hình thức doanh nghiệp tự công bố mức hiệu suất năng lượng thay
thế cho hình thức chứng nhận; (ii) Doanh nghiệp được sử dụng kết quả thử nghiệm hiệu suất năng
lượng một lần đối với mỗi model sản phẩm, áp dụng cho các tất cả các sản phẩm hàng hóa sản xuất
trong nước cũng như các lô hàng nhập khẩu có cùng model, cùng nhà sản xuất, xuất xứ, và cùng đặc
tính kỹ thuật (không giới hạn thời gian hiệu lực của phiếu thử nghiệm); (iii) Bổ sung quy định về việc
miễn trừ dán nhãn năng lượng đối với hàng hóa nhập khẩu phi thương mại, hàng hóa, phụ tùng thay thế,
dự phòng nhập khẩu đơn chiếc;
48 Tài liệu phục vụ Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương tháng 12/2017
40
lấy mẫu để phục vụ công tác kiểm dịch, kiểm tra chất lượng. Phí kiểm
dịch và chi phí kiểm tra chất lượng sẽ chia đều cho các doanh nghiệp
cùng nhập khẩu thức ăn chăn nuôi đồng nhất trên một chuyến tàu. Về
lâu dài, nghiên cứu, trình Chính phủ sửa đổi hoặc sửa đổi theo thẩm
quyền văn bản quy phạm pháp luật liên quan theo hướng: Kết hợp quy
trình kiểm dịch với kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi, giao một
cơ quan thực hiện lấy mẫu để kiểm dịch, kiểm tra chất lượng thức ăn
chăn nuôi và ra thông báo kết quả trên cùng một văn bản.49
- Chỉ đạo đơn vị chức năng liên quan xây dựng mức giá kiểm tra chất
lượng thức ăn chăn nuôi phù hợp với pháp luật giá; phù hợp với chi
phí thực tế; bảo đảm hợp lý, hợp lệ; không tạo gánh nặng cho doanh
nghiệp.50
Tuy nhiên, cho đến nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa có
giải pháp cũng như phản ứng chính sách cần thiết để giải quyết vấn đề
này cho doanh nghiệp.
Về yêu cầu rà soát, đề xuất cắt giảm 50% danh mục hàng hoá kiểm tra
chuyên ngành: Cho đến nay, mới chỉ một số Bộ rà soát và có phương án
cắt giảm danh mục. Cụ thể là:
- Bộ Xây dựng: Đã cắt giảm và đề xuất cắt giảm 39 mặt hàng/64 mặt
hàng thuộc 10 nhóm sản phẩm.
- Bộ Y tế: cắt giảm 7 loại sản phẩm/802 mặt hàng. Giảm 95% lô hàng
phải kiểm tra ATTP.
- Bộ Khoa học và Công nghệ: cắt giảm 24/26 nhóm sản phẩm, hàng
hoá. Tuy nhiên, số lượng mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành chủ
yếu thuộc 2 nhóm còn lại.
- Bộ Công an: đề xuất cắt giảm 4/35 sản phẩm, hàng hoá.
- Bộ Thông tin và Truyền thông: đề xuất cắt giảm 50/143 mặt hàng.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: đề xuất cắt giảm một số loại
hàng hóa (thuộc Danh mục vật thể kiểm dịch thực vật) và 04 nhóm
sản phẩm động vật trên cạn và 09 nhóm sản phẩm thủy sản (thuộc
Danh mục kiểm dịch động vật). Nhưng con số cắt giảm này còn rất ít
so với tổng số 7.698 dòng hàng được áp mã HS thuộc phạm vi quản lý
của Bộ.
Những Bộ quản lý chuyên ngành khác chưa có phương án cắt giảm. Bộ
Công Thương mới chỉ nêu phương án chuyển 402/702 mặt hàng từ kiểm
tra giai đoạn trước thông quan sang sau thông quan, chưa phải kết quả cắt
giảm danh mục. Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã phối hợp tốt với Bộ Y tế trong việc soạn thảo Nghị định
15/2018/NĐ-CP về quản lý ATTP. Với Nghị định 15/2018, số lô hàng
49 Công văn của Bộ Tài chính số 591/BTC-CST ngày 16/01/2018
50 Công văn của Bộ Tài chính số 1087/BTC-CST ngày 25/01/2018
41
phải kiểm tra ATTP thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương và
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng sẽ giảm đáng kể.
106. Kết quả về rà soát, đề xuất cắt giảm danh mục hàng hoá kiểm tra chuyên
ngành nêu trên chủ yếu là kết quả từ cuối năm 2017, và chưa có nhiều chuyển
biến trong quý I/2018. Kết quả cũng còn thấp xa so với yêu cầu của Chính
phủ. Số hàng hóa thuộc diện kiểm tra chuyên ngành giảm chưa đáng kể so với
mục tiêu là giảm ít nhất 50% Danh mục hàng hóa (không phải là nhóm hàng
hóa) thuộc diện kiểm tra chuyên ngành. Điều đó chứng tỏ các Bộ chưa quyết
liệt triển khai nhiệm vụ này.
107. Cải cách các quy định về quản lý, kiểm tra chuyên ngành mới chỉ đạt kết quả
bước đầu ở một số Bộ, song vẫn còn quá ít so với yêu cầu và mức độ vào cuộc
của các Bộ vẫn còn khác biệt. Những vướng mắc trong quản lý, kiểm tra
chuyên ngành như danh mục mặt hàng nhiều, quản lý chồng chéo, quản lý
không theo nguyên tắc rủi ro, chi phí kiểm tra chuyên ngành lớn, v.v. vẫn gây
không ít trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhận xét chung
108. Đến nay, các Bộ, cơ quan đã quan tâm hơn tới việc thực hiện Nghị quyết 19.
Năm 2017 và đặc biệt trong quý I/2018, sự quyết tâm, quyết liệt thực hiện các
nhiệm vụ, giải pháp để đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra được thể hiện rõ ràng ở
hầu hết các Bộ, ngành và địa phương. Kết quả cho thấy niềm tin của doanh
nghiệp, của thị trường tăng lên; chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia và
địa phương cải thiện hơn; kết quả kinh doanh của doanh nghiệp tốt hơn; và do
vậy chắc chắn góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo.
109. Tuy vậy, sự quan tâm và mức độ quyết liệt chưa đồng đều giữa các Bộ, ngành
và địa phương.
Ở cấp Trung ương, mức độ cải thiện chất lượng các chỉ số môi trường
kinh doanh thể hiện mức độ vào cuộc khác nhau của các Bộ, ngành. Với
những Bộ, ngành vào cuộc mạnh mẽ thì các chỉ số liên quan tăng điểm và
tăng hạng tốt.
Về phía địa phương cũng có sự vào cuộc không đồng đều. Một số tỉnh,
thành phố triển khai tích cực, có nhiều sáng kiến cải cách, theo đó niềm
tin của cộng đồng doanh nghiệp về chất lượng môi trường kinh doanh của
địa phương cũng tăng lên. Trong khi đó, một số địa phương triển khai các
giải pháp còn chậm, do vậy chất lượng môi trường kinh doanh và năng
lực cạnh tranh chậm được cải thiện.
110. Mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng đã chỉ đạo cụ
thể, quyết liệt, nhất quán, thường xuyên và liên tục, nhưng tình trạng “trên
nóng dưới lạnh” vẫn còn phổ biến. Bởi vậy, để thực hiện hiệu quả các mục
tiêu của Nghị quyết, đem lại kết quả toàn diện và đồng bộ cần có sự vào cuộc
khẩn trương, quyết liệt và trách nhiệm của tất cả các Bộ, ngành, địa phương.
Nghị quyết 19-2018 và các ưu tiên, vấn đề cần xử lý
111. Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh nhằm tăng năng suất,
thúc đẩy trưởng và phát triển, Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết số
42
138/NQ-CP ngày 31/12/2017 (Hội nghị Chính phủ với địa phương và Phiên
họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2017) giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư
dự thảo Nghị quyết 19-2018 về tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh năm 2018 và các
năm tiếp theo. Trong quý I/2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã soạn thảo và
hoàn thiện Dự thảo Nghị quyết 19-2018 trên cơ sở các ý kiến góp ý của các
Bộ, ngành và hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng.
112. Nghị quyết 19-2018 dự kiến đặt trọng tâm vào một số nội dung sau:
Củng cố thêm kết quả đạt được, Chính phủ tiếp tục đặt mục tiêu cao, cụ
thể nhất có thể; cải cách mạnh mẽ hơn, kết quả đồng đều hơn, tác động
thực chất và toàn diện hơn.
Về chỉ số môi trường kinh doanh: Tạo áp lực và kỷ luật hành chính mạnh
mẽ hơn đối với các chỉ số mà thứ hạng và điểm số còn thấp, không cải
thiện đáng kể trong mấy năm qua, nhất là Khởi sự kinh doanh, Đăng ký
sở hữu và sử dụng tài sản, Giao dịch thương mại qua biên giới. Phối hợp
tốt hơn, hiệu quả hơn với Toà án nhân dân tối cao để có cải thiện đáng kể
chỉ số Giải quyết phá sản doanh nghiệp và Giải quyết tranh chấp hợp
đồng. Cụ thể là: Khởi sự kinh doanh tăng thêm ít nhất 40 bậc; Cải thiện
chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng thêm 10 bậc; chỉ số phá sản doanh
nghiệp thêm 10 bậc.
Hoàn thành mục tiêu bãi bỏ ít nhất 1/3-1/2 số điều kiện kinh doanh hiện
hành ở tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Kiến nghị bãi bỏ một số
ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo Danh mục ngành nghề kinh
doanh có điều kiện của Luật Đầu tư.
Đối với các Bộ đã rà soát, có quyết định bãi bỏ các điều kiện kinh doanh
cụ thể, thì hoàn thành việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung các nghị
định liên quan, trình Chính phủ ban hành trong quý II/2018. Đối với các
Bộ chưa rà soát, chưa có kết quả rà soát, thì phải hoàn thành rà soát, xây
dựng kế hoạch cắt giảm, bổ sung, sửa đổi các quy định về điều kiện đầu
tư, kinh doanh trước tháng 4/2018 và hoàn thành soạn thảo Nghị định sửa
đổi, bổ sung các Nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh, trong đó bãi
bỏ các điều kiện kinh doanh không còn cần thiết, trình Chính phủ trong
quý II/2018.
Về kiểm tra chuyên ngành: (i) Hoàn thành về cơ bản mục tiêu giảm số
hàng hóa xuất nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành trước thông quan
xuống còn tối đa 10%; (ii) Hoàn thành cơ bản mục tiêu giảm ít nhất ½
danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc diện kiểm tra chuyên ngành;
(iii) Áp dụng phổ biến cách thức quản lý nhà nước từ chủ yếu tiền kiểm
sang chủ yếu hậu kiểm gắn liền áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, đánh
giá mức độ tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân; xoá bỏ căn bản tình
trạng một mặt hàng chịu quản lý, kiểm tra chuyên ngành của nhiều hơn
một cơ quan.
43
Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành du lịch để du lịch từng bước trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn; năng lực cạnh tranh ngành du lịch tăng
khoảng 10 bậc (hiện ở thứ 67).
Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dịch vụ logistics để tạo thuận lợi và
giảm chi phí kinh doanh, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế: Giảm
chi phí logistics xuống mức bằng khoảng 18% GDP (hiện hơn 20%
GDP); cải thiện Chỉ số Hiệu quả logistics thêm khoảng 10 bậc (hiện xếp
thứ 64).
113. Để thực hiện hiệu quả các Nghị quyết 19 của Chính phủ về các giải pháp cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, kiến
nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
Yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương chỉ đạo sát sao việc thực hiện các Nghị quyết 19,
coi đây là một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong nhiệm kỳ này.
Chỉ đạo, bắt buộc các Bộ, ngành, địa phương phải áp dụng công nghệ
thông tin, thực hiện cung ứng tất cả các dịch vụ hành chính công ở cấp độ
3 và 4.
Chỉ đạo, bắt buộc tất cả các Bộ, ngành phải kết nối tất cả các thủ tục hành
chính qua Cổng thông tin một cửa quốc gia.
Chỉ đạo triển khai thực hiện nhất quán, đầy đủ cải cách thể hiện trong các
Nghị định, Thông tư đã ban hành; đánh giá đầy đủ tác động thực tế của
chúng.
Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia kết hợp với các hiệp hội doanh nghiệp thực hiện đánh giá,
khảo sát thực tế; cung cấp bằng chứng và tham mưu cho Thủ tướng Chính
phủ chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đầy đủ mục tiêu của Nghị quyết.
44
IV. KIẾN NGHỊ
114. Bối cảnh quốc tế chứa đựng nhiều chuyển biến nhanh đi kèm với bất định
không nhỏ, có ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của Việt Nam trong trung
và dài hạn. Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế ít có chuyển biến thực chất. Một
loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới chưa có tiến triển trong
quá trình phê chuẩn. Thứ hai, khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và
thế giới nói chung vẫn phải đối mặt với không ít vấn đề, rủi ro an ninh truyền
thống và phi truyền thống. Thứ ba, các chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực vẫn
được định hình rõ nét hơn. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung, và
ASEAN-Đông Á nói riêng vẫn sẽ là địa điểm quan trọng chiến lược của không
ít chuỗi giá trị. Thứ tư, xử lý tác động lan truyền/tương tác giữa các nền kinh tế
trở nên phức tạp hơn. Sự bất ổn và rủi ro suy giảm tăng trưởng ở các bạn hàng
lớn của Việt Nam như EU, Nhật Bản và Trung Quốc, v.v. có thể kéo theo một
loạt các hệ lụy, chẳng hạn như biến động dòng vốn đầu tư nước ngoài, cạnh
tranh quá mức về tỷ giá, v.v. Bản thân xu hướng bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc gia
tăng ở không ít nền kinh tế. Thứ năm, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
đạt được đột phá công nghệ trong nhiều lĩnh vực then chốt như ICT, năng
lượng, vận tải có khả năng ảnh hưởng lớn phương thức sản xuất kinh doanh.
115. Việt Nam cũng có không ít thuận lợi từ các yếu tố nội tại, như môi trường kinh
tế vĩ mô ổn định hơn, niềm tin vào cải cách môi trường kinh doanh ít nhiều
được củng cố, vị thế của một nước thu nhập trung bình và ưu tiên thực hiện
hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách công nghiệp quốc gia - mới được
ban hành – là một bước đi mới nhằm định hình các ngành kinh tế quan trọng
của đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam đối mặt với các thách thức không nhỏ, như
việc chuyển nhanh qua thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, dư địa để điều hành
chính sách kinh tế vĩ mô đã hạn hẹp hơn, nguồn lực cho phát triển dần cạn kiệt
trong khi hiệu quả sử dụng chưa tăng đáng kể, v.v.
116. Báo cáo này nhấn mạnh lại thông điệp về việc ưu tiên chính sách cần tiếp tục
tập trung vào cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh
tế cho một nền kinh tế thị trường hiện đại. Theo đó, Báo cáo đưa ra một số kiến
nghị về cải cách nền tảng kinh tế vi mô, song song với các biện pháp kinh tế vĩ
mô và một số biện pháp khác.
1. Kiến nghị về đổi mới, cải cách nền tảng kinh tế vi mô
117. Tiếp tục cụ thể hóa, triển khai các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương
về đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế và phát triển kinh tế tư nhân.
118. Đẩy nhanh việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại nền kinh tế
giai đoạn 2016-2020, thông qua bộ máy chỉ đạo và điều phối gắn với tăng
cường nhận thức của các Bộ, ngành, địa phương.
119. Tiếp tục hướng dẫn, tổ chức triển khai hiệu quả các luật căn bản của thể chế
kinh tế thị trường như Bộ luật Dân sự; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật (sửa đổi); Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi), v.v.
45
120. Khẩn trương hoàn thiện, ban hành các đạo luật mới liên quan đến thị trường và
các ngành, bao gồm Luật Cạnh tranh (sửa đổi), Luật Chăn nuôi, Luật Trồng
trọt, Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, v.v.
121. Tiếp tục ưu tiên cải cách môi trường kinh doanh theo hướng tạo thuận lợi cho
hoạt động sản xuất – kinh doanh phù hợp với các Nghị quyết 19.
Tiếp tục nghiên cứu, trao đổi, xác định các giải pháp cụ thể nhằm củng cố
và cải thiện thứ hạng của các chỉ số đã cải thiện tăng bậc; chấm dứt tụt hạng
và nhanh chóng cải thiện thứ bậc xếp hạng của các chỉ số còn lại. Đồng
thời, nghiên cứu, tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm từ các thông lệ quốc tế
tốt về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tiếp tục cải cách toàn diện các quy định về điều kiện kinh doanh nhằm tạo
thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp
với thông lệ quốc tế và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
122. Chủ động trao đổi, hợp tác với các đối tác nhằm tiếp tục ủng hộ và vực dậy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy nhanh vận động các đối tác công nhận quy
chế kinh tế thị trường đầy đủ cho Việt Nam.
123. Tiếp tục rà soát nội dung cam kết trong các FTA và điều ước quốc tế mà Việt
Nam đang đàm phán, đã hoàn tất đàm phán và đã ký kết để có những điều
chỉnh về quy định pháp luật phù hợp.
Tiếp tục rà soát và xây dựng lộ trình giảm dần các đối xử mang tính phân
biệt, khác biệt (chẳng hạn như tiếp cận đất đai, tín dụng, mua sắm Chính
phủ, v.v.) có thể ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa
doanh nghiệp tư nhân và DNNN.
Nâng cao năng lực thể chế và kỹ thuật của Cục Phòng vệ thương mại. Củng
cố quan hệ đối tác của Cục Phòng vệ thương mại với cộng đồng doanh
nghiệp.
Cân nhắc các yêu cầu về hài hòa và hợp tác pháp lý để nâng cao năng lực
và có những điều chỉnh phù hợp, không trái với cam kết.
Thường xuyên tham vấn cộng đồng doanh nghiệp, người lao động và các
nhóm xã hội khác nhằm có các biện pháp chuẩn bị phù hợp cho việc thực
hiện các FTA và điều ước quốc tế khác.
124. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục cung cấp thông tin cho doanh
nghiệp về các FTA mà Việt Nam đã đàm phán và ký kết; hỗ trợ và hướng dẫn
doanh nghiệp tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để thực hiện hài
hòa các hiệp định FTA, đặc biệt là ứng phó với các hàng rào kỹ thuật ở các đối
tác.
125. Tạo dựng vị thế, khích lệ các doanh nghiệp trong nước nhằm phát huy tâm thế
chủ động, luôn sáng tạo và đổi mới, ví dụ như: tìm hiểu về cơ hội từ các FTA;
khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ và tham gia chuỗi giá trị; khả năng tìm hiểu
và hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài, v.v.
46
2. Kiến nghị chính sách kinh tế vĩ mô
126. Xây dựng các kịch bản, với sự tham gia của nhiều cơ quan, để ứng phó với các
cú sốc bất lợi trên thị trường thế giới. Tái khẳng định ưu tiên ổn định kinh tế vĩ
mô, tạo dựng thêm dư địa cho điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, không nới
lỏng chính sách kinh tế vĩ mô bằng mọi giá để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
* Về chính sách tiền tệ:
127. Sớm ban hành Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện, tạo điều kiện cho
người dân và doanh nghiệp tiếp cận tài chính, giảm tệ nạn tín dụng đen
128. Quan tâm đến vấn đề tài chính số (gồm cả ngân hàng số và chứng khoán số) để
có biện pháp ứng xử, quản lý phù hợp, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để quản
lý trong bối cảnh tiền ảo, tiền kỹ thuật số ngày càng thu hút sự quan tâm và tác
động khó lường
129. Tiếp tục dành ưu tiên cao nhất cho việc tái cơ cấu các NHTM và cải thiện chất
lượng nợ xấu. Rà soát hành vi cạnh tranh của các NHTM, đặc biệt là các
NHTM yếu kém nhằm tránh méo mó đối với diễn biến lãi suất.
130. Tránh yêu cầu giảm lãi suất cho vay một cách hành chính, nhằm tạo thêm sự
linh hoạt khi ứng phó với các diễn biến bất lợi trên thị trường tài chính thế giới.
131. Tiếp tục thông tin định kỳ với thị trường về công tác điều hành tỷ giá. Truyền
thông về các đánh giá, kiến nghị liên quan đến chính sách tỷ giá cần được thực
hiện rõ ràng, trung tính hơn. Tránh đề ra các mục tiêu “cứng” đối với công tác
điều hành tỷ giá.
132. Kiểm soát chặt chẽ diễn biến tín dụng vào khu vực bất động sản.
133. Điều hành linh hoạt thanh khoản của hệ thống NHTM để hỗ trợ cho hoạt động
tín dụng, phát hành TPCP, phòng ngừa và ứng phó với biến động của dòng vốn
đầu tư gián tiếp và kiều hối (nhất là quanh thời điểm FED cân nhắc điều chỉnh
lãi suất).
* Về chính sách tài khóa:
134. Thực hiện nghiêm kỷ luật chi NSNN nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu thâm
hụt NSNN đề ra cho năm 2018. Linh hoạt trong phát hành TPCP, không cố
gắng thực hiện kế hoạch phát hành TPCP năm 2018 bằng mọi giá.
135. Nghiêm túc cân nhắc không bổ sung hoặc tăng các loại thuế và phí đối với
xăng dầu để tạo thêm lợi ích và hỗ trợ cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của
khu vực tư nhân. Đánh giá bài bản tác động của việc sửa đổi các Luật thuế,
kèm với giải trình về định hướng tái cơ cấu chi NSNN.
136. Đẩy nhanh giảm chi thường xuyên gắn với tinh giản đáng kể đội ngũ công
chức, viên chức. Tiếp tục thử nghiệm, phổ biến mô hình thuê ngoài các dịch vụ
mà Nhà nước không cần biên chế để trực tiếp làm.
137. Đảm bảo thực thi nghiêm kỷ luật tài khóa và quản lý đầu tư công. Nâng cao
hiệu quả thẩm định và điều phối dự án đầu tư công- cả về khía cạnh kinh tế,
môi trường và xã hội - là một yêu cầu cần thiết đến năm 2020. Tăng cường sự
tham gia của các nhóm xã hội trong giám sát và quản lý dự án đầu tư công.
47
138. Xây dựng và ban hành sớm các tiêu chí khả thi, chi tiết và dễ đo lường nhằm
đánh giá hiệu quả dự án đầu tư công, nhất là các dự án sử dụng vốn TPCP.
139. Tiếp tục giảm cơ cấu phát hành TPCP ở một số kỳ hạn tương đối ngắn (đặc biệt
là kỳ hạn dưới 5 năm).
* Về chính sách thương mại
140. Nâng cao năng lực quản lý cạnh tranh, chống trợ cấp, chống bán phá giá, giải
quyết tranh chấp thương mại và quản lý thị trường, đồng thời có hỗ trợ về pháp
luật liên quan cho doanh nghiệp.
141. Bảo đảm hài hòa hòa các cam kết và yêu cầu kỹ thuật liên quan (nhất là về quy
định xuất xứ, các quy định liên quan đến nông sản). Hoàn thiện thể chế liên
quan đến các vấn đề như sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, vệ sinh an toàn
thực phẩm, v.v., tạo thuận lợi cho đàm phán và thực thi các hiệp định thương
mại và đầu tư.
142. Tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu (đặc biệt các thị trường tiềm năng
như Nga, Trung Đông, Trung Quốc, v.v.). Tạo thuận lợi thực chất hơn cho hoạt
động thương mại qua biên giới, cải thiện hạ tầng cho dịch vụ logistics, v.v.
Tăng cường kết nối thêm các thủ tục chuyên ngành vào Cơ chế một cửa quốc
gia.
143. Chủ động hơn trong quan hệ với các đối tác (đặc biệt là Mỹ). Yêu cầu các bộ
phận ngoại giao, thương vụ chủ động, tự quyết định nhanh hơn các vấn đề
trong quan hệ thương mại với các đối tác, nhằm kịp thời thông tin và ứng phó
với các biện pháp bảo hộ của đối tác. Đẩy nhanh báo cáo đề xuất Quốc hội phê
chuẩn, chuẩn bị cho CPTPP và EVFTA.
* Về chính sách giá cả, tiền lương
144. Xem xét, điều chỉnh lộ trình tăng giá các mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước quản
lý giá để bảo đảm tốt hơn yêu cầu tăng năng suất, chất lượng của các mặt hàng,
dịch vụ này. Tránh tư duy dồn việc điều chỉnh giá vào cuối năm.
145. Nghiên cứu, lên kế hoạch, truyền thông về việc xem xét không tăng lương tối
thiểu vùng năm 2019.
* Về chính sách đầu tư
146. Khắc phục các rào cản để đẩy nhanh bố trí và giải ngân vốn đầu tư công ngay
từ đầu năm, tránh dồn giải ngân vào cuối năm có thể dẫn tới tình trạng bị động
trong thực hiện các mục tiêu phát triển và ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư.
147. Tăng cường theo dõi, đánh giá dòng vốn đầu tư (nhất là đầu tư gián tiếp qua thị
trường chứng khoán) để kiểm soát rủi ro “vốn nóng”, kinh doanh đòn bẩy cao
và rủi ro lan truyền.
148. Khuyến khích, động viên các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt
Nam.
3. Một số kiến nghị khác có liên quan
149. Tiếp tục củng cố công tác phối hợp kinh tế vĩ mô, đặc biệt theo hướng xây
dựng các kịch bản ứng phó với sự đảo chiều của dòng vốn, suy giảm tăng
48
trưởng kinh tế ở các đối tác và khả năng gia tăng trả đũa thương mại trên bình
diện thế giới.
150. Tiếp tục tăng cường chất lượng và tính giải trình của số liệu là rất cần thiết, đặc
biệt là tính thống nhất giữa số liệu tăng trưởng, sản xuất, đầu tư và xuất nhập
khẩu. Cần thể chế hóa việc xây dựng các chỉ số về chu kỳ kinh tế, chất lượng
tăng trưởng, kỳ vọng lạm phát, niềm tin kinh doanh, niềm tin của người tiêu
dùng, và bộ chỉ số riêng, chi tiết hơn về phát triển giới./.
49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo số 380/BC-CP ngày 8 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ về thực hiện
mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
2. Báo cáo số 454/BC-CP ngày 17 tháng 10 năm 2017 của Chính phủ về việc thực
hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
3. Bảo vệ công nhân trên 35 tuổi khỏi nguy cơ thất nghiệp.
lam/bao-ve-cong-nhan-tren-35-tuoi-khoi-nguy-co-that-nghiep-
20161011230418264.htm
4. Bộ Công thương, Bản tin thị trường Nông, Lâm, Thủy sản, Truy cập tại:
[Truy cập ngày
25 tháng 3 năm 2018]
5. Bộ Lao động, thương binh và xã hội, Bản tin Thị trường lao động Quý 4 năm
2017, Truy cập tại:
6. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020.
7. Chính phủ (2017a), Báo cáo số 380/BC-CP ngày 8 tháng 9 năm 2017 của Chính
phủ về thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
8. Chính phủ (2017b), Báo cáo số 454/BC-CP ngày 17 tháng 10 năm 2017 của
Chính phủ về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
9. Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) (2018), Báo cáo thị trường dầu mỏ [Oil
market report]. 15/3/2018. Tiếng Anh.
10. Cơ quan thống kê châu Âu (
releases)
11. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) (https://www.federalreserve.gov ).
12. Cục phân tích kinh tế, Bộ Thương mại Mỹ
(https://www.bea.gov/newsreleases/national/gdp/gdpnewsrelease.htm )
13. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) (2016), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu
2016-2017 [Global Competitiveness Report 2016-2017]. Geneva. Tiếng Anh.
14. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) (2017), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu
2017-2018 [Global Competitiveness Report 2017-2018]. Geneva. Tiếng Anh.
15. Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) (2018), Cải
cách thuế tại Mỹ: Hàm ý đối với đầu tư quốc tế [Tax reforms in the United
States: Implications for International Investment]. UNCTAD Investment Trend
Monitor, Special Edition. 05/2/2018. Tiếng Anh
16. Khi phụ nữ là chủ doanh nghiệp. https://www.neu.edu.vn/vi/ly-do-chon-neu/khi-
phu-nu-la-chu-doanh-nghiep
17. Lê Đình Quảng (2017). Phát biểu tại hội nghị thông tin định kỳ về bảo hiểm xã
hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) ngày 26/7/2017 của Bảo hiểm xã hội Việt
Nam.
ganh-nang-cho-nganh-bhxh-20170726171711618.htm
50
18. Mạng lưới Hành động vì lao động di cư Việt Nam. Báo cáo “Phụ nữ, việc làm và
tiền lương: Tổng quan về lao động nữ tại Việt Nam”
19. Ngân hàng thế giới (WB), Cơ sở dữ liệu Giá hàng hóa hàng tháng [Monthly
Commodity Prices]. Tháng 3/2018.
20. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản
(https://www.boj.or.jp/en/announcements/release_2018/k180309a.pdf ;
(https://www.boj.or.jp/en/mopo/mpmsche_minu/opinion_2018/opi180309.pdf ).
21. Quốc hội (2006), Luật Bình đẳng giới của Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 10 số
73/2006/HQ11 ngày 29 tháng 11 năm 2006.
22. Thái Thị Hải Yến (2017), Những khoảng trống trong chính sách pháp luật về
phụ nữ - đề xuất giải pháp, Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2018:
23. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), World Employment Social Outlook: Trend for
Women 2018, International Labour Office, Geneva 2018. Tiếng Anh
24. Tổng cục Hải quan. Trực tuyến. Truy cập tại: www.customs.gov.vn
25. Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2016, Nhà
xuất bản Thống kê.
26. Tổng cục Thống kê. Trực tuyến. Truy cập tại (www.gso.gov.vn)
27. Trần Thị Minh Thi (2017), Bình đẳng giới trong chính trị từ chiều cạnh thể chế,
văn hóa và hội nhập quốc tế. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
28. Trần Thị Xuyến (2017), Nữ doanh nhân đồng hành cùng phát triển đất nước.
https://dangkykinhdoanh.gov.vn/NewsandUpdates/tabid/91/ArticleID/2923/-
N%E1%BB%AE-DOANH-NH%C3%82N-%C4%90%E1%BB%92NG-
H%C3%80NH-C%C3%99NG-PH%C3%81T-TRI%E1%BB%82N-
%C4%90%E1%BA%A4T-N%C6%AF%E1%BB%9AC.aspx
29. Trung tâm WTO, CPTPP cơ hội và thách thức, Truy cập tại:
[Truy cập ngày 30
tháng 3 năm 2018]
30. Trần Tuấn Anh (2018), Hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam: Những điểm
nổi bật trong năm 2017 và định hướng cho năm 2018, Tạp chí tài chính, Truy
cập tại:
xuat-nhap-khau-cua-Viet-Nam-Nhung-diem-noi-bat.aspx [Truy cập ngày 10
tháng 3 năm 2018]
31. UNDP, Human Development Report, 2011-2015.
32. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2015), Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý
I-2015. Hà Nội: Nhà xuất bản Tài chính.
33. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2016), Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý
I-2016. Hà Nội: Nhà xuất bản Tài chính.
34. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2017), Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý
I-2017. Hà Nội: Nhà xuất bản Tài chính.
35. World Economic Forum, The Global Gender Gap Report 2017.
51
PHỤ LỤC: SỐ LIỆU KINH TẾ VĨ MÔ
Đơn vị 2014 2015 2016 2017 2018
I II III IV I II III IV I II III IV I II III IV I
Tốc độ tăng GDP
Toàn nền kinh tế % 5,0 5,4 6,4 6,8 6,0 6,5 6,8 7,0 5,5 5,6 6,6 6,8 5,2 6,3 7,5 7,7 7,4
Thương mại
Tốc độ tăng xuất khẩu % 12,2 15,7 13,6 11,6 8,8 10,6 9,2 4,4 6,6 4,9 8,4 13,0 14,9 22,3 22,5 24,3 24,8
-Khu vực FDI % 18,2 16,1 37,5 28,3 18,7 21,5 22,0 9,6 10,8 7,4 15,4 25,6 14,6 25,0 23,7 26,8 27,1
Tốc độ tăng nhập khẩu % 10,4 10,5 14,0 13,7 20,1 14,2 11,6 3,7 -4,0 2,2 4,9 15,5 25,2 24,2 20,5 15,9 13,3
- Khu vực FDI % 14,6 7,3 8,2 24,3 27,1 20,3 18,4 1,7 -4,5 0,0 6,7 18,9 24,0 32,2 30,2 8,8 13,6
Xuất khẩu /GDP % 92,8 86,6 82,5 67,7 96,3 92,8 87,0 69,7 99,8 92,4 87,8 73,1 106,2 105,4 100,0 79,9 121,3
Tiền tệ
Tăng trưởng M2 (so với
kỳ trước)
% 2,8 4,1 2,9 6,9 2,4 3,6 3,7 5,7 3,1 4,8 3,6 5,7 3,5 3,3 3,4 4,9 3,2
Tăng trưởng tín dụng
(so với kỳ trước)
% 0,5 3,2 3,5 6,3 2,7 5,1 4,0 4,6 3,0 5,0 3,2 5,9 4,4 4,5 2,9 5,3 3,5
Tỷ giá VNĐ/USD liên
NH/trung tâm (trung bình)
Đồng 21036 21063 21246 21246 21446 21593 21773 21890 21890 21876 21891 22074 22219 22371 22442 22451 22434
Đầu tư
Đầu tư/GDP % 28,4 31,5 33,0 30,6 30,4 31,7 33,2 33,6 32,2 33,2 33,5 33,2 32,2 33,2 35,5 32,2 32,2
Vốn FDI thực hiện Tỷ USD 2,9 2,9 3,2 3,5 3,1 3,3 3,4 4,8 3,5 3,8 3,7 4,8 3,5 3,8 5,2 5,0 5,8
Chỉ số khác
Lạm phát (so với cùng
kỳ năm trước)
% 4,4 5,0 3,6 1,8 0,9 1,0 0,0 0,6 1,7 2,4 3,3 4,7 4,7 2,5 3,4 2,6 2,7
Thâm hụt NSNN/GDP % 4,9 4,6 5,3 7,3 4,6 6,4 3,9 8,6 5,5 3,7 5,7 6,9 0,4 1,4 3,3 6,7 -1,8
Cán cân vãng lai Tỷ USD 2,7 2,7 2,8 0,8 -1,3 0,7 0,5 1,1 2,6 2,2 3,5 0,2 -1,1 0,3 4,3 3,0 -
Cán cân thanh toán Tỷ USD 7,9 2,2 0,9 -2,6 2,7 0,6 -6,6 -2,7 3,5 3,2 3,0 -1,2 1,4 1,0 2,3 7,7 -
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_kinh_te_vi_mo_quy_i_nam_2018.pdf