Báo cáo loạt ca: U sợi vỏ bào buồng trứng
U sợi vỏ bào buồng trứng là một loại u hiếm
gặp và được chẩn đoán sau khi có giải phẫu
bệnh lý. Theo y văn 90% trường hợp u ở một bên
buồng trứng và thường chắc, dạng khối cầu, có
vỏ bao, màu trắng xám và có bao thanh mạc
buồng trứng bên ngoài nguyên vẹn(1). Tất cả 5
trường hợp của chúng tôi u chỉ ở một bên buồng
trứng với 60% ở bên phải và đều có dạng đặc,
màu trắng xám vỏ bao nguyên như y văn mô tả;
chỉ có một trường hợp dạng nang nhưng có một
vùng vôi hoá trên u. Kích thước u có thể thay đổi
từ vài cm đến 30cm(5). Các trường hợp trong báo
cáo của chúng tôi có kích thước u từ 5cm – 20cm.
U to nhất là u ở buồng trứng trái, nhiều thuỳ,
dạng đặc, trắng như mô mỡ có kích thước
15x20x15cm. Do u to, dạng đặc trên bệnh nhân
lớn tuổi (64tuổi) đã khiến trên lâm sàng và đại
thể rất nghi ngờ đến trường hợp ác tính dù rằng
không có ascites và các chất đánh dấu khối u
như CA 125 trong giới hạn bình thường. Có hai
trường hợp của chúng tôi được chẩn đoán trước
mổ là u xơ tử cung đa nhân, nhân xơ tử cung
dưới thanh mạc cả về lâm sàng và siêu âm. Điều
này lại càng cho thấy tính chất đặc của u và gợi
lên chú ý cho các nhà lâm sàng trong chẩn đoán
phân biệt giữa u xơ tử cung dưới thanh mạc có
cuống và u sợi vỏ bào buồng trứng. Theo nghiên
cứu của tác giả Paladini và cộng sự(2) trên 63
trường hợp u sợi / u sợi vỏ bào dựa vào chẩn
đoán mô học, 50% trường hợp có ascites, 28% có
CA 125 tăng cao > 35 U/ml. Do chúng tôi chỉ có 5
trường hợp, cơ hội ghi nhận ascites của chúng
tôi thấp nên cả 5 ca đều không thấy có ascites và
CA 125 trong giới hạn bình thường. Tác giả
Palidini nhận thấy dấu hiệu ascites và CA 125
tăng cao thường xuất hiện trong cả hai loại u sợi
và u sợi vỏ bào buồng trứng có kích thước >
9cm. Hai trường hợp u to của chúng tôi (15 –
20cm) đều không có ascites và CA 125 cũng
không tăng cao. Hình ảnh siêu âm trong nghiên
cứu của tác giả Palidini ghi nhận 73% trường
hợp là đặc, 24% đặc một hoặc nhiều thùy, có
bóng lưng trong 29% trường hợp. Trên siêu âm
màu Doppler tác giả ghi nhận 79% sang thương
có phân bố mạch máu ít hoặc trung bình (điểm
số màu 2 hoặc 3). Hình ảnh siêu âm trong các
trường hợp của chúng tôi chỉ ghi nhận phản âm
kém, phản âm không đồng nhất và không có
siêu âm Doppler màu nên chúng tôi không ghi
nhận được điểm số màu như tác giả. Như
Raquard(4) báo cáo độ chuẩn xác của siêu âm
trong chẩn đoán phân biệt nang buồng trứng
lành tính và ác tính là 91%. Vai trò của siêu âm
trong chẩn đoán u vùng chậu là 97%. Tuy nhiên
những dấu hiệu tìm thấy trên siêu âm đối với u
đặc buồng trứng không đặc hiệu và không thể
tiên đoán trước được loại mô học của u. Tác giả
Jahanguir(5) có mô tả một trường hợp bệnh nhân
50 tuổi vào viện vì u hạ vị khoảng thai 15-17
tuần và được nghi ngờ là u xơ tử cung. Siêu âm
ghi nhận có bóng lưng ở toàn bộ u. Hình ảnh
bóng lưng này theo tác giả là là do thành phần
sợi chiếm ưu thế trong u gây ra. Những vùng
thoái hoá canci trên bất kỳ u vùng chậu nào
cũng tạo ra bóng lưng.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo loạt ca: U sợi vỏ bào buồng trứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 1
BÁO CÁO LOẠT CA: U SỢI VỎ BÀO BUỒNG TRỨNG
Ngô Thị Kim Phụng*
TÓM TẮT
Mở đầu: u sợi vỏ bào buồng trứng là u thuộc nhóm u mô đệm – dây giới bào hiếm gặp.
Loạt trường hợp: 5 trường hợp nữ đến khám vì u hạ vị, kích thước từ 5 -20cm, không ascites, CA125 bình
thường, có hình ảnh trên siêu âm là u dạng đặc với phản âm kém đồng nhất. Hai trường hợp được chẩn đoán
trước mổ là u xơ tử cung dưới thanh mạc có hoặc không có cuống. Chẩn đoán sau mổ là u buồng trứng, 60% ở
bên phải, màu trắng xám. Giải phẫu bệnh lý là u sợi vỏ bào buồng trứng.
Kết luận: U sợi vỏ bào buồng trứng rất khó phân biệt về lâm sàng với u xơ tử cung dưới thanh mạc có
cuống. Cần lưu ý đến số lượng phân bào trên vi thể.
ABSTRACT
CASE SERIES: FIBROTHECOMA OF THE OVARY
Ngo Thi Kim Phung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 62 - 65
Background: fibrothecoma of the ovary arises from the ovarian stroma, a group of the sexcord – stromal
tumors of the ovary, is rarely.
Case: Five case-series of patients admitted to the hospital because of the pelvic mass, in which the tumors
measure from 5 to 20cm in diameter. CA125 are normal; ultrsonographic findings are of solid masses,
heterogenous echo. Two cases had the preoperative diagnosis of a pedunculated uterine fibroid tumor. Post-
operative diagnoses are gray – white ovarian tumor with 60% in the right ovaries. Histopathologic spectrum is of
fibrothecoma of the ovary.
Conclusion: Fibrothecoma of the ovary is different distinguishable with the pedunculated uterine fibroid
tumor clinically. Specifically, microscopic focusing on the number of cellular mitoses
ĐẶT VẤN ĐỀ
U mô đệm – dây giới bào (sex cord – stomal
tumors) của buồng trứng hiếm gặp chiếm tỷ lệ
khoảng 5 – 8% của ung thư buồng trứng. Trong
nhóm u này có u tế bào hạt, u tế bào Sertoli, u tế
bào tiết steroids, u sợi vỏ bào và u dây giới bào
hỗn hợp. Trong đó u có nguồn gốc từ mô đệm
của buồng trứng mà thành phần là nguyên bào
sợi chiếm ưu thế (u sợi – fibroma) hoặc những
đám tròn các tế bào hình thoi có xen lẫn những
giọt mỡ dạng mưa rơi (vỏ bào – thecoma) chiếm
ưu thế. Tuy nhiên phần lớn các u chứa hỗn hợp
hai loại tế bào này nên được gọi là u sợi vỏ bào
(fibro-thecoma). U vỏ bào đơn thuần hiếm gặp
và đây là loại u chế tiết nội tiết. Nếu u có tỷ lệ
thành phần sợi nhiều hơn thì thường không chế
tiết nội tiết(1).
Với mục đích nhìn lại và rút kinh nghiệm
lâm sàng về u sợi vỏ bào, một loại u hiếm xuất
phát từ mô đệm của buồng trứng, chúng tôi báo
cáo loạt 5 trường hợp u sợi vỏ bào đến khám và
điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Dược từ tháng
04/2008 đến tháng 09/2008.
BÁO CÁO LOẠT TRƯỜNG HỢP
2/5 trường hợp (40%) đến khám vì u hạ vị to,
các trường hợp còn lại phát hiện u tình cờ qua
khám phụ khoa và đư ợc siêu âm. Tuổi trung
bình của bệnh nhân là 42, nhỏ nhất là 22 và lớn
nhất là 64. Chỉ có một trường hợp chưa lập gia
đình, ngoài ra đều đã sanh từ 1 đến 3 lần. 2
trường hợp đã mãn kinh, 3 trường hợp còn lại
* Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. HCM
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 2
tuy còn trong tuổi sanh đẻ nhưng không hề có
rối loạn về kinh nguyệt. Không ghi nhận bất
thường gì về tiền căn sản phụ khoa cũng như
bệnh lý nội ngoại khoa. Trên lâm sàng tất cả
bệnh nhân có tổng trạng tốt, không có trường
hợp nào có ascites dù cho u có kích thước to. 2
trường hợp u có kích thước to 15 – 20cm chiếm
cả vùng hạ vị, khó phân biệt ranh giới của tử
cung và buồng trứng trên khám thực thể. Các
trường hợp còn lại u có kích thước từ 5-8cm. Tuy
nhiên tất cả các trường hợp đều được ghi nhân u
có mật độ chắc, giới hạn tương đối rõ, di động
(ngoại trừ 2 trường hợp u to vì chiếm cả vùng hạ
vị), không đau. U chỉ ở một bên, 60% trường hợp
u bên phải. Siêu âm đều ghi nhận phản âm kém,
không đồng nhất trong 4 trường hợp (hình 1 và
hình 2) và chỉ có 1 trường hợp có phản âm trống
(hình 3). Tuy nhiên 2/4 trường hợp hình ảnh siêu
âm cho kết luận là u xơ tử cung đa nhân, u xơ tử
cung dưới thanh mạc. Các chất đánh dấu khối u
như CA125, alpha FP, beta-HCG đều trong giới
hạn bình thường.
Hình 1: Cấu trúc nhiều thùy dạng đặc
Hình 2: Cấu trúc phản âm kém, không phản âm, kém
đồng nhất
Hình 3: Nang phản âm trống, thành mỏng.
Tất cả bệnh nhân đều được cắt phần phụ có
u và thám sát các cơ quan như gan, dạ dày, mạc
nối lớn, tìm tế bào lạ trong dịch rửa ổ bụng, sinh
thiết buồng trứng còn lại. Ngoài trường hợp
nang phản âm trống trên siêu âm khi phẫu thuật
ghi nhận buồng trứng trái có một nang to
khoảng 15cm, trơn láng, nguyên vẹn, không
dính và có vùng vôi hoá # 6cm, tất cả các trường
hợp khác là một u dạng đặc, màu trắng xám đục,
nguyên vẹn, không dính (hình 4). Giải phẫu
bệnh cả 5 trường hợp đều ghi nhận tăng sản sợi
ở mô đệm buồng trứng họp thành bó hình xoáy
lốc kèm tăng sản vỏ bào; có nơi thoái hóa bọc,
hoá canxi (hình 5 và hình 6). Tất cả các trường
hợp đều được xuất viện sau mổ 5 ngày; hiện nay
đều ổn định.
Hình 5
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 3
Hình 6
BÀN LUẬN
U sợi vỏ bào buồng trứng là một loại u hiếm
gặp và được chẩn đoán sau khi có giải phẫu
bệnh lý. Theo y văn 90% trường hợp u ở một bên
buồng trứng và thường chắc, dạng khối cầu, có
vỏ bao, màu trắng xám và có bao thanh mạc
buồng trứng bên ngoài nguyên vẹn(1). Tất cả 5
trường hợp của chúng tôi u chỉ ở một bên buồng
trứng với 60% ở bên phải và đều có dạng đặc,
màu trắng xám vỏ bao nguyên như y văn mô tả;
chỉ có một trường hợp dạng nang nhưng có một
vùng vôi hoá trên u. Kích thước u có thể thay đổi
từ vài cm đến 30cm(5). Các trường hợp trong báo
cáo của chúng tôi có kích thước u từ 5cm – 20cm.
U to nhất là u ở buồng trứng trái, nhiều thuỳ,
dạng đặc, trắng như mô mỡ có kích thước
15x20x15cm. Do u to, dạng đặc trên bệnh nhân
lớn tuổi (64tuổi) đã khiến trên lâm sàng và đại
thể rất nghi ngờ đến trường hợp ác tính dù rằng
không có ascites và các chất đánh dấu khối u
như CA 125 trong giới hạn bình thường. Có hai
trường hợp của chúng tôi được chẩn đoán trước
mổ là u xơ tử cung đa nhân, nhân xơ tử cung
dưới thanh mạc cả về lâm sàng và siêu âm. Điều
này lại càng cho thấy tính chất đặc của u và gợi
lên chú ý cho các nhà lâm sàng trong chẩn đoán
phân biệt giữa u xơ tử cung dưới thanh mạc có
cuống và u sợi vỏ bào buồng trứng. Theo nghiên
cứu của tác giả Paladini và cộng sự(2) trên 63
trường hợp u sợi / u sợi vỏ bào dựa vào chẩn
đoán mô học, 50% trường hợp có ascites, 28% có
CA 125 tăng cao > 35 U/ml. Do chúng tôi chỉ có 5
trường hợp, cơ hội ghi nhận ascites của chúng
tôi thấp nên cả 5 ca đều không thấy có ascites và
CA 125 trong giới hạn bình thường. Tác giả
Palidini nhận thấy dấu hiệu ascites và CA 125
tăng cao thường xuất hiện trong cả hai loại u sợi
và u sợi vỏ bào buồng trứng có kích thước >
9cm. Hai trường hợp u to của chúng tôi (15 –
20cm) đều không có ascites và CA 125 cũng
không tăng cao. Hình ảnh siêu âm trong nghiên
cứu của tác giả Palidini ghi nhận 73% trường
hợp là đặc, 24% đặc một hoặc nhiều thùy, có
bóng lưng trong 29% trường hợp. Trên siêu âm
màu Doppler tác giả ghi nhận 79% sang thương
có phân bố mạch máu ít hoặc trung bình (điểm
số màu 2 hoặc 3). Hình ảnh siêu âm trong các
trường hợp của chúng tôi chỉ ghi nhận phản âm
kém, phản âm không đồng nhất và không có
siêu âm Doppler màu nên chúng tôi không ghi
nhận được điểm số màu như tác giả. Như
Raquard(4) báo cáo độ chuẩn xác của siêu âm
trong chẩn đoán phân biệt nang buồng trứng
lành tính và ác tính là 91%. Vai trò của siêu âm
trong chẩn đoán u vùng chậu là 97%. Tuy nhiên
những dấu hiệu tìm thấy trên siêu âm đối với u
đặc buồng trứng không đặc hiệu và không thể
tiên đoán trước được loại mô học của u. Tác giả
Jahanguir(5) có mô tả một trường hợp bệnh nhân
50 tuổi vào viện vì u hạ vị khoảng thai 15-17
tuần và được nghi ngờ là u xơ tử cung. Siêu âm
ghi nhận có bóng lưng ở toàn bộ u. Hình ảnh
bóng lưng này theo tác giả là là do thành phần
sợi chiếm ưu thế trong u gây ra. Những vùng
thoái hoá canci trên bất kỳ u vùng chậu nào
cũng tạo ra bóng lưng. Tuy nhiên nếu không có
canci hoá ở vùng chậu trên phim X quang phối
hợp với siêu âm ghi nhận u buồng trứng có
bóng lưng trên 90% bề mặt u thì có thể nghĩ
nhiều đến u vỏ bào. Nếu như nguồn gốc của u
vùng chậu đó không phải là buồng trứng thì có
thể là nhân xơ tử cung dưới thanh mạc có cuống.
Một trường hợp của chúng tôi cũng đã chẩn
đoán lầm trước mổ trên siêu âm là nhân xơ tử
cung dưới thanh mạc có cuống, tuy nhiên không
thấy ghi nhận hình ảnh bóng lưng như
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 4
Jahanguir đã ghi nhận.
Riêng các nhà giải phẫu bệnh lưu ý rất
nhiều đến số lượng phân bào: từ 1 đến 3 hình
ảnh phân bào trên quang trường 10 được phân
thành u sợi lành tính và trên số lượng phân
bào đã nêu là ác tính(3).
KẾT LUẬN
Đây là một loạt 5 trường hợp u sợi vỏ bào
buồng trứng được khám và điều trị tại Bệnh
viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Do tính chất đặc của u nên rất khó phân biệt với
nhân xơ tử cung dưới thanh mạc có cuống cả
trên lâm sàng và hình ảnh siêu âm. Tuy hiếm
gặp và là u được ghi nhận là lành tính nhưng
vẫn có thể chẩn đoán nhầm là ác tính. Chẩn
đoán mô học giúp ích rất nhiều trong chẩn đoán
và tiên lượng cho bệnh nhân u buồng trứng nói
chung và u sợi vỏ bào nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kumar: Robbins and Cotran, (2005), “Ovarian tumors” in
Pathologic Basis of disease, Saunders, 7 th edition
2. Paladini D, Testa A, Valentin L, Van Holsbeke, Timmerman D.,
(2006), Fibroma and fibrothecoma of the ovary – clinical and
ultrasound findings in a multicenter series of 63 cases,
Ultrasound in Obstetrics and Gynecology 28: 412-511.
3. Prat J, Scully RE., (1981), Cellular fibromas and fibrosarcomas
of the ovary: A comparative Clinicopathologic analysis of
seventeen cases, Cancer 47: 2663, 429 – 432.
4. Raquard CK, Mettler FA, Wicks JD, (1981), Preoperative
sonography of malignant ovarian neoplasms, AJR 137: 79.
5. Yaghoobian J, Pinck RL., (1983), Ultrasound findings in
Thecoma of the ovary, J Clin Ultrasound 11: 91 -93.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 5
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 6
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_loat_ca_u_soi_vo_bao_buong_trung.pdf