Báo cáo một trường hợp điều trị ngoại khoa phình động mạch chủ ngực đoạn xuống, cắm lại động mạch gian sườn bằng đường mổ ngực bụng có cắt cơ hoành
Đối với thay đoạn động mạch chủ ngực,
chúng tôi sử dụng prothèse loại Dacron
collagéné (very soft 30), loại prothèse này ở
thành prothèse được cấu tạo có chất collagène,
vì vậy khi khâu nối xong và thả clamps
(déclampages) thì máu sẽ không thoát mạch, do
vậy chúng ta không phải bơm dội bằng máu
tươi kết dính trước. Một điều lưu ý ở đây là
trong khâu nối có động tác thả clamps
(déclampages) ở thành mạch sẽ có những cục
đóng vón hoặc màng trắng kiểu thành phần
huyết thanh đóng kết thì phải lấy sạch tránh gây
thuyên tắc mạch và mỗi lần như vậy phải bơm
rửa bằng dung dịch Héparine pha loãng.(2,4). Khi
cắt prothèse ở phần đầu dưới để nối phải tính
đủ độ dài, cắt prothèse vát và phần ở phía sau
tức là mặc lưng phải dài. Vì lúc cắt xén gọn động
mạch chủ thật sự của bệnh nhân phải tôn trọng
phần động mạch chủ xung quanh động mạch
thân tạng, các mãng xơ vữa (plaque
athéromateuse) phải lấy sạch nhất là xung
quanh lỗ xuất phát của các động mạch thận, có
khi mãng nội mạc nếu đánh giá là không bám
chắc lắm thì sử dụng prolène 6.0 khâu mũi rời
vào thành động mạch chủ thật để tăng cường
đảm bảo chúng không bong sau khâu nối
prothèse vào. Chỉ để khâu nối prothèse động
mạch chủ là prolène 3.0 và có pledget đính kèm
để không xé rách mạch máu, khâu bằng 3 sợi chỉ
vì áp lực động mạch rất cao. Chú ý ở mũi chỉ
khâu cuối cùng phải bơm thật đầy dung dịch
héparine pha loãng vào lòng động mạch và thả
kẹp đúng lúc tránh thuyên tắc khí(2,4,5).
Sau mổ bệnh nhân phải để nằm ở khoa hồi
sức trung tâm trong 2 hoặc 3 ngày, phải đặt
monitoring theo dõi tình trạng tim, phải bù nước
điện giải hoặc truyền máu khi cần thiết, theo dõi
các biến chứng có thể xảy ra như chảy máu, suy
hô hấp, suy tim Tác giả Lucien.C lưu ý các
biến chứng này(1).
Khi phục hồi lại cơ hoành khâu bằng chỉ
vicryl 1.0, khâu mũi rời tận đến sát xương ức và
kết hợp lại sụn sườn số VII. Đặt dẫn lưu kín
khoang màng phổi trái và dẫn lưu sau phúc
mạc. Đóng vết mổ từng lớp(4,5).
Các tác giả JM.Cormier, J.Sautot, E.Kieffer
cũng có cùng kỹ thuật xử trí như trên và mang
lại kết quả an toàn cho bệnh nhân (2,3).
Bệnh nhân tuy đã được phẫu thuật triệt để
giải quyết thương tổn, tuy trước mắt lành bệnh
xuất viện, nhưng dự hậu không tốt vì có tiền sử
bệnh tim mạch kèm theo.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 157 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo một trường hợp điều trị ngoại khoa phình động mạch chủ ngực đoạn xuống, cắm lại động mạch gian sườn bằng đường mổ ngực bụng có cắt cơ hoành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 439
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC ĐOẠN XUỐNG, CẮM LẠI ĐỘNG MẠCH
GIAN SƯỜN BẰNG ĐƯỜNG MỔ NGỰC BỤNG CÓ CẮT CƠ HOÀNH
Nguyễn Văn Khôi*
TÓM TẮT
Trong thời gian theo học phẫu thuật mạch máu tại bệnh viện La Roseraie - Paris tác giả đã trực tiếp phụ mổ
1 trường hợp phình bóc tách động mạch chủ ngực. Bệnh nhân được mổ 2 bước. Bước 1: bắc cầu từ động mạch
dưới đòn đến động mạch đùi chung, bước 2: thay đoạn động mạch chủ ngực bằng prothese kèm theo cắm lại các
lỗ động mạch liên sườn. Sau mổ kết quả tốt.
Từ khóa: Phình động mạch chủ ngực đoạn xuống, cắm lại động mạch gian sườn.
SUMMARY
SURGICAL TREATMENT DESCENDING THORACIC AORTA ANEURYSM, INTERCOSTAL
ARTERIAL REVASCULARIZATION WITH THORACO-ABDOMINAL INCISION TRANSECTION OF
DIAPHRAGM: CASE REPORT
Nguyen Van Khoi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 – 2011: 439 - 443
While studied vascular surgery at the La Roseraie hospital - Paris the autor had worked as an assistant
surgeon to operate one patient who had thoracic Aortic Aneurysms. The patient had been operated by two steps.
Step one: subclaviculofemoral Bypass. Step two: repair of Thoracoabdominal Aortic Aneurysms by protheses. The
intercostal arteries remain had been attached to the prothese aorta. Result: follow -up patient after operating, we
had well results.
Key words: descending thoracic aorta aneurysm, intercostal arterial revascularization.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1951 phình động mạch chủ bụng được
Charles Dubost giải quyết bằng cắt bỏ túi phình
và ghép bằng đoạn động mạch đồng loại. Tiếp
theo đó sau nhiều năm và đến hiện nay người ta
đã theo công bố này và túi phình sau khi cắt bỏ
sẽ được thay thế bằng động mạch nhân tạo
(prothèses).
Phình động mạch chủ ngực đoạn xuống là
bệnh lý thường gặp trong bệnh lý mạch máu,
gặp ở người có tuổi, theo sau hoặc cùng lúc với
bệnh lý về tim và bệnh mạch máu nơi khác
trong cơ thể.
Trong thời gian theo học phẫu thuật tim
mạch tại Paris, tác giả có dịp phụ mổ 387 trường
hợp các loại bệnh lý mạch máu, trong đó có một
trường hợp phình động mạch chủ ngực đoạn
xuống đến tận cơ hoành kèm theo hẹp khít lỗ
xuất phát C9 và D12 của động mạch gian sườn.
Bệnh nhân đã được phẫu thuật để điều trị
bằng ghép đoạn prothèse, cắm lại lỗ động mạch
gian sườn C9 và D12 bằng đường mổ ngực bụng
qua gian sườn VII trái có cắt cơ hoành và trước
đó bắc cầu động mạch dưới đòn – động mạch
đùi chung phải để cung cấp máu nuôi trước.
TÓM LƯỢC VỀ BỆNH NHÂN VÀ CÁC
XÉT NGHIỆM
Họ và tên: G.G, sinh năm 1929
Số vào viện: 10568
Tiền sử: cao huyết áp, bệnh phổi tắc nghẽn
* Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: PGS. TS. BS. Nguyễn Văn Khôi ĐT: 0913.196.136. Email: khoinguyenvan@yahoo.co.uk
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 440
mãn tính.
Bệnh sử: cách nhập viện 01 năm, bệnh nhân
bị nuốt nghẹn, ăn uống khó khăn, sụt cân, đi
khám bệnh được bác sĩ cho làm các xét nghiệm:
Siêu âm: Siêu âm quai động mạch chủ
không phát hiện tổn thương
Chụp cắt lớp: hình ảnh phình động mạch
chủ ngực đoạn xuống đường kính 80 mm, đẩy
lệch thực quản sang phải.
Chụp động mạch
Phân tích thấy: quai động mạch chủ và động
mạch chủ ngực đoạn xuống thì dãn, có các bờ
động mạch song song rõ ràng. Túi phình bắt
đầu từ đốt sống D5 – D6, dưới dạng dãn rộng
không đều của động mạch chủ ngực, động mạch
chủ ngực ở thấp thì túi phình phát triển ra mặt
sau phải đầy huyết khối. Động mạch chủ dãn
đến gần và cách đọan với động mạch thân tạng,
ngược lại động mạch mạc treo tràng trên sinh ra
bên dưới túi phình, động mạch thận trái bắt cản
quang phù hợp, động mạch thận phải hẹp ở lỗ
xuất phát rất khít. Phía dưới túi phình động
mạch chủ nuôi dưỡng kém, xuất hiện nhiều
mãng trắng ở bờ bên phải của động mạch chủ,
động mạch ở nơi này có đường kính 25mm. Hai
động mạch chậu gốc bị viêm lan tỏa, các bờ
động mạch còn song song. Các động mạch tiếp
theo thì tương xứng. Bên phải: lòng của động
mạch chày trước không vững. Bên trái động
mạch chày trước và động mạch mác bền vững.
Chụp động mạch nuôi tủy
Động mạch liên sườn C9, C11 trái, C8 phải
thuốc ngấm rất rõ, các động mạch gian sườn ở
tầng ngực thì tắt, được kiểm tra bằng bơm
thuốc cản quang. Động mạch gian sườn của C9
trái hẹp khít ở lỗ xuất phát. L1 trái, vòng nối
với D12 hẹp ở lỗ xuất phát. Những vòng nối
này hiện qua cản quang động mạch rể tủy sau
phải sinh ra từ D12 phải.
Chẩn đoán
Phình động mạch chủ ngực đoạn xuống đến
tận cơ hoành, khẹp khít lỗ xuất phát C9 và D12
của động mạch gian sườn.
Phẫu thuật
Bước 1: Bắc cầu động mạch dưới đòn – đùi
chung phải
- Bóc tách ở vùng tam giác đùi phải: tìm
động mạch đùi chung, động mạch đập tốt,
thành mềm mại.
- Bóc tách ở phía dưới xương đòn phải, tìm
chổ kết hợp động mạch nách – động mạch dưới
đòn, cắt một ít cơ ngực lớn, thành động mạch
tương đối.
- Chuẩn bị đường hầm từ dưới đòn, hông
sườn và đến tam giác đùi phải.
- Dưới kiểm soát của héparine: tiến hành nối
ở trên cao trước tức là nối goretex 8 vào động
mạch dưới đòn, khâu bằng prolène 6.0.
Đi theo đường hầm, prothèse goretex 8
xuống tận tam giác đùi phải. Mở động mạch đùi
chung phải, sau khi tính đủ độ dài của prothèse,
tiến hành nối goretex 8 vào nơi mở của động
mạch đùi chung và khâu bằng prolène 6.0.
Sau bắt cầu prothèse đập tốt.
Đóng vết mổ và đặt dẫn lưu.
Bước 2: phẫu thuật thay động mạch chủ ngực
bằng prothèse – cắm lại các lỗ đựng động
mạch liên sườn vào prothèse
Bệnh nhân nằm nghiêng phải 70 - 900.
Rạch da qua khe liên sườn 7 trái xuống
bụng và vượt qua rốn, ở phía trên lên cao và ra
sau. Dùng Finochetto banh rộng khe xương
sườn, bóc tách sau phúc mạc và quanh thận.
Phía trước cắt cơ hoành, nhưng phải cắt chừa
chân cơ hoành nơi bám vào thành ngực và
bụng khoảng từ 3-5 cm để dễ phục hồi sau
này, cắt và bóc tách cơ hoành ra tận phía sau
cột sống, cắt lướt bớt một ít cơ thắt lưng chậu
bên trái nơi che động mạch chủ, nhưng phải
chú ý vì dễ vỡ lách. Đầu trên cắt lướt bóc tách
phần màng phổi dính vào động mạch chủ để
có vị trí đặt kẹp (clamp) sau này.
Dùng kẹp động mạch chủ loại lớn, kẹp đầu
dưới trước, kẹp đầu trên sau, kẹp thật nhẹ
nhàng và vừa phải, thậm chí ở hai ngành của
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 441
kẹp động mạch chủ có luồn ống nhựa
polyéthylène để tránh làm tổn thương thành
động mạch chủ ngực đoạn xuống.
Sau khi kẹp và thấy an toàn, dùng dao nhọn
xẻ dọc túi phình, hút sạch máu, lấy hết tổ chức
hóa trong lòng túi phình, hút sạch và rất nhẹ
nhàng lấp các mãng xơ vữa, lưu ý nơi có những
lỗ của các động mạch nuôi tủy sống. Các lỗ nhỏ
dùng prolène 4.0 khâu kỹ càng lại.
Điều đáng lưu ý là ở ngực tuyệt đối không
được khâu kín các lỗ của động mạch gian sườn
ở động mạch chủ sát cột sống. Vì vậy phải cắt
gọn phần vỏ túi phình có lỗ của các động mạch
này để cắm lại vào prothèse động mạch chủ về
sau. Do vậy phẫu thuật viên: chấp nhận chảy
máu, có thể dùng gạc to chèn tạm để đó.
Phẫu thuật viên lấy kéo bén và cắt gọn động
mạch chủ ngực tới sát phần động mạch không bị
phình, phải đủ để nối với prothèse. Riêng
prothèse thì cắt chéo, prolène 3.0 có miếng ép
(pledget) khâu vắt liên tục xong, ta khâu tăng
cường thêm mủi rời.
Sau khi nối xong đầu trên, phẫu thuật viên
bóc vỏ nội mạc thật nhẹ nhàng ở lỗ động mạch
gian sườn, lúc này ta đã thả thử kẹp ở động
mạch chủ, kiểm tra không còn chảy máu, lại tiếp
tục kẹp lại và mở ở thành sau prothèse tương
ứng với lỗ các động mạch gian sườn, bằng cách
khâu vỏ thành túi phình của động mạch chủ
ngực đã chuẩn bị sẵn vào thành prothèse mặt
sau bên. Một đặc điểm ở đây là động mạch chủ
ngực không căng nên dễ dàng khâu.
Sau khi khâu cắm lại các lỗ động mạch gian
sườn xong, phẫu thuật viên thả kẹp và kẹp lại
prothèse dưới chổ lỗ động mạch gian sườn,
chuẩn bị nối đầu dưới. Kỹ thuật khâu nối đầu
dưới cũng như vậy, nhưng khi thả kẹp thì thả
đầu dưới trước. Theo dõi kỹ huyết áp, thả kẹp
khi nào máu đầy trong lòng prothèse, nhưng
thường không đầy được vì bên trong prothèse
có khí, do vậy trước khi khâu mũi chỉ khâu cuối
cùng phẫu thuật viên phải làm đầy dung dịch
huyết thanh có pha héparine vào lòng prothèse
(dung dịch huyết thanh có héparine =500ml
NaCl 9% + 1ml héparine), nhưng đôi khi vẫn
còn khí vì vậy ta dùng kim tiêm chích vào thành
prothèse để khí vọt ra và lúc đó phẫu thuật viên
thả kẹp đầu trên ra thật chậm, phải theo sát
huyết áp.
Kiểm tra cầm máu kỹ, phải chú ý mặt trong
bao của túi phình vì bỏ sót các lỗ động mạch do
các mãng xơ vữa che lấp.
Tiếp theo cắt xén gọn vỏ bao túi phình và
khâu che lại prothèse.
Khâu phục hồi lại cơ hoành bằng Vicryl 1.0
Đặt dẫn lưu màng phổi trái.
Đặt dẫn lưu ngoài phúc mạc.
Đóng vết mổ từng lớp.
Điều trị sau mổ
Sử dụng kháng sinh liều cao, kết hợp hai loại
kháng sinh.
Sử dụng kháng đông đường tiêm trong 3-5
ngày, theo dõi bằng TCK.
Phối hợp điều trị các bệnh về tim và cao
huyết áp.
Nâng tổng trạng.
Tập vật lý trị liệu.
Kiểm tra hồng cầu, hématocrite, tiểu cầu để
truyền bồi hoàn khi cần thiết.
BÀN LUẬN
Trong các bệnh nhân phình động mạch chủ
ngực thường gặp ở người có tuổi, có bệnh lý tim
mạch và cao huyết áp kèm theo. Mỗi bệnh nhân
túi phình có hình dạng khác nhau và mở túi
phình ra trong lòng có nhiều huyết khối củ lẫn
mới và đôi khi phát hiện tổn thương hoặc nứt
lớp nội mạch bị xơ vữa(2,4,5).
Bệnh nhân đã được kiểm tra bằng các xét
nghiệm.
Siêu âm doppler: quai động mạch chủ không
ghi nhận thương tổn.
Chụp cắt lớp: động mạch chủ ngực đoạn
xuống cho thấy động mạch dãn to 80mm và đẩy
lệch thực quản sang phải.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 442
Chụp động mạch: quai động mạch chủ và
động mạch chủ ngực đoạn xuống dãn, bờ động
mạch rõ ràng, trong lòng động mạch đầy huyết
khối, động mạch chủ có nơi nuôi dưỡng kém,
phát hiện lỗ xuất phát của động mạch thận bị
hẹp, động mạch chậu gốc có hiện tượng viêm
lớp nội mạc và các động mạch tầng dưới còn
nuôi dưỡng tốt.
Chụp mạch máu nuôi tủy: cho thấy hẹp lỗ
xuất phát C9 và D12 của động mạch gian sườn.
Để chẩn đoán các phình động mạch chủ ngực
và giúp đánh giá – tiên lượng cho cuộc mổ thì bao
giờ cũng phải chụp mạch máu nhất là động mạch
nuôi tủy (động mạch AdamKiewicz)(4,5).
Gây mê trong lúc mổ là gây mê toàn thể,
lưu ý bệnh nhân cao huyết áp và bệnh lý tim
mạch kèm theo vì sẽ ảnh hưởng cuộc mổ và
hậu phẫu(4,5).
Đường mổ được áp dụng là rạch da qua khe
gian sườn 7 bên trái xuống chéo hướng góc
xương mu trái vượt rốn, ở phía trên lên cao và ra
sau lưng trái, dùng Finochetto banh rộng khe
gian sườn, bóc tách phía sau phúc mạc và quanh
thận(2). Phía trước cắt cơ hoành theo chu vi và ra
phía sau cho đến trụ trái cơ hoành, khi cắt cơ
hoành phải cách xa nơi chân cơ hoành bám vào
thành ngực từ 3-5 cm để sau này dễ khâu phục
hồi lại. Đây là đường mổ đi sau ngoài phúc mạc
và có tác giả JM.Cormier, J.Sautot(2) ưa chuộng
đường mổ này.
Trong phẫu thuật các túi phình ở ngực cũng
như ở bụng. Su khi mở túi phình ra, hút sạch
máu loãng và lấy sạch máu cục gửi làm giải
phẫu bệnh lý, cấy vi trùng và làm kháng sinh
đồ. Chú ý lấy sạch các mãng xơ vữa (plaque
athéromateuse), chúng ta tìm xem các mạch
máu nuôi tủy nhất là trong phình động mạch
chủ ngực và chú ý phải cắt hình ovale rộng xung
quanh động mạch chủ ngực thật của bệnh nhân
và cắm lại vào prothèse để cung cấp máu nuôi
nhất là các nhánh nuôi tủy(4,5,3).
Đối với bắc cầu động mạch dưới đòn – động
mạch đùi chung phải, chúng tôi sử dụng
prothèse Goretex 8 để bắc cầu và chỉ prolène 6.0
để khâu(4,5).
Đối với thay đoạn động mạch chủ ngực,
chúng tôi sử dụng prothèse loại Dacron
collagéné (very soft 30), loại prothèse này ở
thành prothèse được cấu tạo có chất collagène,
vì vậy khi khâu nối xong và thả clamps
(déclampages) thì máu sẽ không thoát mạch, do
vậy chúng ta không phải bơm dội bằng máu
tươi kết dính trước. Một điều lưu ý ở đây là
trong khâu nối có động tác thả clamps
(déclampages) ở thành mạch sẽ có những cục
đóng vón hoặc màng trắng kiểu thành phần
huyết thanh đóng kết thì phải lấy sạch tránh gây
thuyên tắc mạch và mỗi lần như vậy phải bơm
rửa bằng dung dịch Héparine pha loãng.(2,4). Khi
cắt prothèse ở phần đầu dưới để nối phải tính
đủ độ dài, cắt prothèse vát và phần ở phía sau
tức là mặc lưng phải dài. Vì lúc cắt xén gọn động
mạch chủ thật sự của bệnh nhân phải tôn trọng
phần động mạch chủ xung quanh động mạch
thân tạng, các mãng xơ vữa (plaque
athéromateuse) phải lấy sạch nhất là xung
quanh lỗ xuất phát của các động mạch thận, có
khi mãng nội mạc nếu đánh giá là không bám
chắc lắm thì sử dụng prolène 6.0 khâu mũi rời
vào thành động mạch chủ thật để tăng cường
đảm bảo chúng không bong sau khâu nối
prothèse vào. Chỉ để khâu nối prothèse động
mạch chủ là prolène 3.0 và có pledget đính kèm
để không xé rách mạch máu, khâu bằng 3 sợi chỉ
vì áp lực động mạch rất cao. Chú ý ở mũi chỉ
khâu cuối cùng phải bơm thật đầy dung dịch
héparine pha loãng vào lòng động mạch và thả
kẹp đúng lúc tránh thuyên tắc khí(2,4,5).
Sau mổ bệnh nhân phải để nằm ở khoa hồi
sức trung tâm trong 2 hoặc 3 ngày, phải đặt
monitoring theo dõi tình trạng tim, phải bù nước
điện giải hoặc truyền máu khi cần thiết, theo dõi
các biến chứng có thể xảy ra như chảy máu, suy
hô hấp, suy tim Tác giả Lucien.C lưu ý các
biến chứng này(1).
Khi phục hồi lại cơ hoành khâu bằng chỉ
vicryl 1.0, khâu mũi rời tận đến sát xương ức và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 443
kết hợp lại sụn sườn số VII. Đặt dẫn lưu kín
khoang màng phổi trái và dẫn lưu sau phúc
mạc. Đóng vết mổ từng lớp(4,5).
Các tác giả JM.Cormier, J.Sautot, E.Kieffer
cũng có cùng kỹ thuật xử trí như trên và mang
lại kết quả an toàn cho bệnh nhân (2,3).
Bệnh nhân tuy đã được phẫu thuật triệt để
giải quyết thương tổn, tuy trước mắt lành bệnh
xuất viện, nhưng dự hậu không tốt vì có tiền sử
bệnh tim mạch kèm theo.
KẾT LUẬN
Sau 2 tuần phẫu thuật, bệnh nhân được
chăm sóc, lành bệnh đã xuất viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Castellani L (1995): Le Risque Cardiaque de la chirurgie des
anévrysmes de
l’aorte abdominale, 1995, p 163-173
2. Cormier J.M, J.Sautot (1977): Déobstruction artérielle ou
thrombo-endartéréctomie. Nouveau traité de technique
chirurgicale, Masson, p.104.
3. Kieffer E (1997): Chirurgie des troncs supra aortique.
Encyclopédie médicochirurgicale, 1997, p1-43120.
4. Nguyễn Văn Khôi (1995): Méthode de traitement chirurgical
de l’anévrisme aortique abdominale sous rénal –A propos de
49 cas. Mémoire de stage de chirurgie vasculaire en France,
Paris 11/1995.
5. Nguyễn Văn Khôi (2007): Một số bệnh lý màng ngoài tim –
tim – mạch máu và lồng ngực. Nhà xuất bản y học TP.Hồ Chí
Minh 2007, trang 19-21, 23-27, 60-61.
6. Robicsek F: Aneurysms of the thoracic Aorta. Vascular
surgery, p637.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_mot_truong_hop_dieu_tri_ngoai_khoa_phinh_dong_mach_c.pdf