Báo cáo Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống tài chính kế toán và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí

Để khẳng định khả năng tự tài trợ của Công ty là tốt hay không ta phải đặt chỉ tiêu trong điều kiện đặc thù của Công ty là doanh nghiệp sản xuất. Đầu năm tỷ suất tự tài trợ của Công ty là 50,92% là tưong đối tốt, khả năng độc lập về mặt tài chính là tương đối cao, song cuối kỳ tỷ suất này lại ghiảm xuống còn 47,60% thấp hơn so với đầu năm 3,32% chứng tỏ khả năng tự tài trợ của Công ty giảm xuống, Công ty đang thiếu vốn để hoạt động. Qua bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn cho thấy nguồn vốn chủ sở hữu giảm xuống cả về số tương đối và số tuyệt đối. Số tuyệt đối giảm 8.951.399 VNĐ tương đương với số tương đối giảm 0,1%. Tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn từ 51% ở đầu năm đã giảm xuống 47,5% ở cuối kỳ, tức là giảm 3,5%. Điều này chứng tỏ mức độ đảm bảo về mặt tài chính và khả năng độc lập trong kinh doanh của Công ty đã bị giảm xuống, Công ty thực sự đang thiếu vốn để hoạt động. Trong nguồn vốn Chủ sở hữu thì nguồn vốn quỹ chiếm tỷ trọng chủ yếu, nguồn vốn quỹ giảm 8.951.399 VNĐ tương đương giảm 0,1% làm cho nguồn vốn chủ sở hữu cũng giảm tương ứng một lượng 8.951.399 VNĐ và 0,1%. Khi xem xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn ta thấy tỷ trọngcác khoản nợ phải trả tăng 3,5% ( từ 49% đầu năm tăng lên 52,5% cuối năm), tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn giảm từ 51% đầu năm xuống 47,5% cuối kỳ. Tỷ trọng của nợ phải trả tăng chủ yếu là do nợ ngắn hạn tăng 1.154.866.769 VNĐ tương đương 14,20%. Nợ ngắn hạn của Công ty tăng chủ yếu là do: + Vay ngắn hạn tăng lên 960.189.143 VNĐ tương đương tăng 15,7%. Chỉ tiêu này tăng cho phép đánh giá Công ty đã dùng khoản vay ngắn hạn để đầu tư trang trải cho TSLĐ và ĐTNH làm cho tỷ trọng TSLĐ trong tổng tài sản tăng lên.

doc109 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống tài chính kế toán và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.628.273 -0,032 -50.273.565 -0,54 -47.609.292 191,14 3- Nợ dài hạn đến hạn trả 4- Người mua ứng trước 36.601.374 0,47 132.616.501 1,42 96.015.127 362,33 5- Phải trả công nhân viên 1.327.373.571 16,23 561.572.334 6,02 -765.801.237 42,30 5- Phải trả nội bộ 7- Các khoản phải trả khác 446.246.300 5,45 1.170.603.173 12,54 724.356.873 262,33 8- Vay ngắn hạn 6.114.839.417 74,76 7.075.028.560 75,80 960.189.143 115,70 9- Vay dài hạn 10- Chi phí phải trả 11- Tài sản thừa chờ xử lý Tổng cộng 8.179.423.367 100 9.334.290.136 100 1.154.866.769 114,12 Để xác định và đánh giá khái quát tình hình các khoản nợ phải trả ta phải xác định hệ số nợ của Công ty: Hệ số Nợ = Nợ phải trả Tổng nguồn vốn Đầu năm = 8.179.423.367 = 0,49 hay 49% 16.666.489.144 Cuối kỳ = 9.334.290.136 = 0,524 hay 52,4% 17.813.404.514 Hệ số nợ năm 2001 của Công ty tăng 3,4% (=52,4%- 49%) so với năm 2000 và hệ số nợ năm 2001 bằng 0,524 lớ hơn 0,5 chứng tỏ tình hình công nợ của Công ty tăng. Hơn nữa, trong điều kiện tỷ trọng của nguồn vốn Chủ sở hữu giảm do đó Công ty phải đi vay mượn để trang trải cho hoạt động kinh doanh của mình với lượng hợp lý. Căn cứ vào bảng phân tích các khoản phải trả ta thấy các khoản phải trả đã tăng lên 1.154.866.769 VNĐ tương đương tăng 14,12% trong năm 2001, trong đó khoản phải trả người bán tăng 187.716.155 VNĐ tức là tăng 73,04%, khoản người mua ứng trước tăng 96.015.127 VNĐ tương đương tăng 262,33%, các khoản phải trả khác cũng tăng 724.356.873 VNĐ tương đương tăng 162,33%. Như vậy, khoản người mua ứng trước cho Công ty có tốc độ tăng lớn nhất chứng tỏ rằng uy tín của Công ty đã được nâng cao, Công ty đã tranh thủ chiếm dụng vốn một cách hợp lý từ các đối tác để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiếp theo ta cần xem xét chỉ tiêu: Tỷ trọng các khoản phải trả trên tổng TSLĐ = Tổng các khoản phải trả Tổng TSLĐ đầu năm = 8.179.423.367 = 0,677 12.086.295.479 Cuối năm = 9.334.290.136 = 0,688 13.550.772.057 Kết quả tính toán cho thấy tỷ trọng các khoản phải trả trong cả hai năm đều nhỏ hơn tổng TSLĐ, tỷ trọng này năm 2001 tăng 0,011 hay 1,1% sao với năm 2000. Tuy nhiên, mức tăng này không đáng kể so với mức tăng của tổng TSLĐ do đó khả năng thanh toán của Công ty có giảm đôi chút nhưng tại thời điểm này, Công ty vẫn đang cố gắng cải thiện việc trang trải công nợ của mình với các đơn vị khác một cách tích cực để làm cho bức tranh tài chính của Công ty tốt đẹp hơn nữa trong những năm tới. Tình hình tài chính của Công ty còn được thể hiện qua khả năng thanh toán. Nếu công ty có đủ khả năng thanh toán thì tình hình tài chính sẽ khả quan và ngược lại. Tỷ suất thanh toán hiện hành ngắn hạn = Tổng TSLĐ Nợ ngắn hạn Đầu năm = 12.086.295.479 = 1,48 8.179.423.367 Cuối năm = 13.550.772.057 = 1,45 9.334.290.136 Số liệu tính toán cho thấy tỷ suất thanh toán hiệh hành ngắn hạn của Công ty cuối năm có giảm so với đầu năm là 0,03 hay 3% nhưng trong cả hai năm tỷ suất này đều lớn hơn 1, sự giảm ở trên là không đáng kể. Do đó, có thể đánh giá tình hình tài chính của Công ty là tương đối khả quan, Công ty có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ suất thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền+ Phải thu + ĐTNH Tổng nợ ngắn hạn Đầu năm = 496.107.455+ 2.851.766.485+0 = 0,41 8.179.423.367 Cuối năm = 244.099.175+ 2.842.131.178+ 0 = 0,33 9.334.290.136 Kết quả tính toán cho thấy tỷ suất thanh toán nhanh của Công ty năm 2001 thấp hơn năm 2000 là 0,08 hay 8%. Trong cả hai năm tỷ suất này đều nhỏ hơn 1, so với mức các chủ nợ chấp nhận nhỏ nhất là 0,5 khả năng thanh toán nhanh của Công ty năm 2001 chỉ đáp ứng dược 0,33 đồng cho 1 đồng nợ ngắn hạn. Điều này xảy ra là do trên thực tế Vốn bằng tiền và các khoản phải thu của Công ty năm 2001 đều bị giảm so với năm 2000, và có thể do Công ty gặp khó khăn trong việc giải phóng TSLĐ để đảm bảo thanh toán các khoản nợ vay, và do trữ lượng hàng tồn kho cuối kỳ tăng lên. Tuy nhiên, muốn đánh giá chính xác hơn nữa khả năng thanh toán của Công ty ta cần xem xét phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán của Công ty thông qua bảng phân tích sau: Bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán . Đơn vị VNĐ Nhu cầu thanh toán Đầu năm Cuối kỳ Khả năng thanh toán Đầu năm Cuối kỳ Vay ngắn hạn 6.114.839.417 7.075.028.560 1- tiền mặt 23.224.476 46.482.413 2- Vay ngắn hạn nội bộ 2- Tiền gửi Ngân hàng 472.882.979 197.616.762 3- Phải trả cho người bán 256.990.978 444.707.133 3- Các khoản phải thu 2.851.766.485 2.842.131.178 4- Phải trả người mua 36.601.374 132.616.501 4- Hàng tồn kho 8.564.323.617 10.448.946.397 5- Phải nộp Ngân sách -2.628.273 -50.237.565 6- Phải trả công nhân viên 1.327.373.571 561.572.334 7- Phải trả phải nộp khác 446.246.300 1.170.603.173 Tổng cộng 8.179.423.367 9.334.290.136 11.912.197.557 13.535.176.750 Qua bảng phân tích cho thấy cả đầu năm và cuối kỳ Công ty đều có khả năng thanh toán các khoản nợ. Đầu năm khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán chênh lệch nhau là 3.732.774.19 VNĐ (=11.912.197.557- 8.179.423.367), cuối kỳ chênh lệch nhau là 4.200.886.614 VNĐ (=13.535.176.750- 9.334.290.136). Ngoài ra ta còn tính chỉ tiêu sau Hệ số khả năng thanh toán = Khả năng thanh toán Nhu cầu thanh toán Đầu năm = 11.912.197.557 = 1,46 8.179.423.367 Cuối năm = 13.535.176.750 = 1,45 9.334.290.136 Như vậy, cả cuối kỳ lẫn đầu năm hệ số khả năng thanh toán của Công ty đều lớn hơn 1 chứng tỏ tình hình tài chính của Công ty tương đối tốt, Công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ. Do đó, có thể khẳng định rằng Công ty đang trên đà phát triển với một khả năng về tài chính tương đối khả quan. 2.4- Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty: Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu phản ánh chất lượng của hoạt động tài chính của Công ty. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn sẽ cho ta biết trình độ quản lý và sử dụng vốn của Công ty. Để đánh giá hiệu quả sử dụng các loại vốn của Công ty ta xác định các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Hiệu quả sử dụng vốn SXKD = Doanh thu thuần VSX bình qquân Tỷ suất lợi nhuận Vốn sản xuất (hoặc mức doanh lợi theo vốn) = Lợi nhuân trước thuế VSX bình quân Trong đó: Vốn sản xuất bình quân = VSX đầu năm + VSX cuối năm 2 Căn cứ vào BCĐKT năm 2000 và năm 2001 của Công ty ta lập bảng tính VSX bình quân, VLĐ bình quân và VCĐ bình quân: Bảng phân tích VSX bình quân, VLĐ bình quân và VCĐ bình quân: Đơn vị VNĐ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Đầu năm Cuối kỳ Đầu năm Cuối kỳ 1- VLĐ 11.945.530.271 12.086.295.479 12.086295.479 13.550.772.057 2- VCĐ 4.904.245.671 4.580.139.665 580.139.665 4.262.632.457 3- VLĐ bình quân 12.015.912.875 12.818.533.768 4- VCĐ bình quân 4.742.191.668 4.421.386.071 5- VSX bình quân 16.758.104.543 17.239.919.839 Từ bảng vừa lập trên cùng với BCKQKD ta lập bảng phân tích hiệu quả sử dụng VSXKD của Công ty: Bảng phân tích hiệu quả VSXKD. Đơn vị VNĐ Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch cuối kỳ và đầu năm Mức chênh lệch Tỷ lệ 1- Doanh thu thuần 11.685.393.643 13.384.860.437 1.699.466.794 14,55 2- VSX bình quân 16.758.104.543 17.239.919.839 481.815.296 2,88 3- Lợi nhuận trước thuế -117.587.364 68.728.424 186.345.788 -158,50 4- Hiệu suất sử dụng VSXKD 0,697 0,776 0,079 11,34 Tỷ suất lợi nhuận trên VSXKD -0,007 0,004 0,011 Qua bảng phân tích trên cho thấy Công ty đã sử dụng tiết kiệm VSX và đã nâng cao được tỷ suất sinh lợi của VSX. Sở dĩ có được kết quả trên là do: Thị phần đã được mở rộng, thể hiện ở doanh thu thuần đã tăng lên được 1.699.466.794 VNĐ tương đương tăng lên 14,55%. Vốn sản xuất bình quân cũng tăng lên 2,88%. Chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế đã tăng lên một cách rõ rệt, từ chỗ bị lỗ 117.587.364 VNĐ năm 2000 đã có lãi 68.728.424 VNĐ năm 2001 . Tình hình này cho thấy khả năng kinh doanh đã phát triển tương đối mạnh và thể hiện sự cố gắng vượt bậc của Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên 11,34% và tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh cũng tăng lên 1,4%. 2.4.1- Phân tích hiệu quả sử dụng VCĐ: Việc sử dụng VCĐ sao cho có hiệu quả là vấn đề quan trọng của Công ty. Để phân tích hiệu quả sử dụng VCĐ chúng ta dùng các chỉ tiêu sau: Sức sản xuất của TSCĐ = Doanh thu thuần Nguyên giá bình quân TSCĐ Sức sinh lợi của TSCĐ = Lợi nhuận trước thuế Nguyên giá bình quân TSCĐ Suất hao phí của TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần hoặc Lợi nhuận trước thuế Hiệu suất sử dụng VCĐ = Doanh thu thuần VCĐ bình quân Tỷ suất sinh lợi của VCĐ = Lợi nhuận trước thuế VCĐ bình quân Bảng phân tích hiệu quả sử dụng VCĐ. Đơn vị VNĐ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Mức chênh lệch Tỷ lệ 1- Doanh thu thuần 11.685.393 13.384.860.437 1.699.466.794 14,55 2- Lợi nhuận trước thuế -117.587.364 68.728.424 186.315.788 -158,50 3- VCĐ bình quân 4.742.191.668 4.421.386.071 -320.805.597 11,14 4- Nguyên giá TSCĐ bình quân 14.336.906.873 14.382.663.762 45.756.889 0,32 5- Sức sản xuất của TSCĐ(1/4) 0,815 0,930 0,115 14,11 6- Sức sinh lợi của TSCĐ(2/4) -0,0082 0,0048 0,013 7- Suất hao phí TSCĐ(4/1) hoặc (4/2) 1,230 1,074 -0,156 8- Hiệu suất sử dụng VCĐ(1/3) 2,46 3,03 0,57 9- Tỷ suất lợi nhuận trên VCĐ(2/3) -0,025 0,016 0,041 Dựa vào bảng phân tích trên ta có thể nhận xét như sau: Nhìn vào chỉ tiêu (5) trong bảng ta thấy sức sản xuất của TSCĐ tăng lên từ 0,815 đến 0,930, có nghĩa là cứ 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ sử dụng trong kỳ đem lại 0,93 đồng doanh thu thuần. Như vậy 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ năm 2001 tạo ra nhiều hơn 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ năm 2000 là 0,115 đồng doanh thu thuần chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ của Công ty là tương đối tốt. Chỉ tiêu (6) trong bảng phân tích cho thấy sức sinh lợi của TSCĐ năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 0,013. Năm 2000, cứ 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ tạo ra 0,0082 đồng lợi nhuận trước thuế nhưng năm 2000 lợi nhuận trước thuế âm cho nên chỉ tiêu này không được đánh giá. Sang năm 2001 cứ 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đã tạo ra 0,0048 đồng lợi nhuận trước thuế. Điều này cho thấy sức sinh lợi của TSCĐ là có chiều hướng tốt. Chỉ tiêu suất hao phí TSCĐ là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu sức sản xuất của TSCĐ. Chỉ tiêu này giảm chứng tỏ việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả hơn, vì năm 2000 để tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần phải cần đến 1,23 đồng hao phí TSCĐ thì sang năm 2001chỉ cần đến 1,074 đồng, giảm so với năm 2000 được 0,156 đồng. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ năm 2001tăng lên rõ rệt và cao hơn năm 2000 là 0,57 đồng. Chỉ tiêu này tăng được đánh giá là tốt vì Công ty đã tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng lợi nhuận dẫn đến hiệu suất sử dụng TSCĐ được nâng cao. Như vậy, Công ty đã không những tiết kiệm được VCĐ mà còn nâng cao được hiệu quả sử dụng VCĐ. Tổng hợp các chỉ tiêu trên có thể khẳng định hiệu quả sử dụng TSCĐ của Công ty là rất tốt và được thể hiện ở chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên VCĐ đã tăng lên vào cuối kỳ. 2.4.2- Phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ: Nguồn VLĐ của Công ty được dùng để đảm bảo cho TSLĐ, là yếu tố quyết định đến việc thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Công ty. Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ ta cần xem xét các chỉ tiêu sau: Sức sản xuất của VLĐ = Doanh thu thuần VLĐ bình quân Sức sinh lợi của VLĐ = Lợi nhuận trước thuế VLĐ bình quân Số vòng quay của VLĐ = Doanh thu thuần VLĐ bình quân Thời gian của 1 vòng quay của VLĐ = Thời gian kỳ phân tích (360 ngày) Số vòng quay của VLĐ Hệ số đảm nhiệm VLĐ = VLĐ bình quân Tổng doanh thu thuần Dựa vào BCĐKT và BCKQKD năm 2000 và năm 2001của Công ty ta lập bảng phân tích sau: Bảng phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ: Đơn vị VNĐ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Mức chênh lệch Tỷ lệ 1- Doanh thu thuần 11.685.393 13.384.860.437 1.699.466.794 14,55 2- Lợi nhuận trước thuế -117.587.364 68.728.424 186.315.788 -158,50 3- VLĐ bình quân 12.015.912.875 12.818.533.768 802.620.893 6,68 4- Sức sản xuất của TSLĐ (1/3) 0,973 1,044 0,071 7,29 5- Sức sinh lợi của TSLĐ (2/3) -0,0098 0,0054 0,0152 -155,10 6- Số vòng quay VLĐ 0,973 1,044 0,071 7,29 7- Thời gian của 1 vòng luân chuyển 369,98 344,82 -25,16 -6,8 8- Hệ số đảm nhiệm VLĐ 1,03 0,96 -0,07 -6,79 Từ bảng phân tích trên cho thấy: Sức sản xuất của VLĐ năm 2001 tăng 0,071 so với năm 2000, điều đó cho thấy 1 đồng VLĐ năm 2001đem lại 1,044 đồng doanh thu thuần tăng 0,071 đồng so với năm 2000 đem lại 0,973 đồng doanh thu thuần. Sức sinh lợi của VLĐ năm 2001 cũng tăng lên 0,0054 so với năm 2000 tương đương tăng 1,52%. Chỉ tiêu số vòng quay của VLĐ (hệ số luân chuyển của VLĐ) đã tăng lên 0,071 vòng (= 1,044- 0,973). Nguyên nhân tăng lên là do năm 2001 Công ty đã có những biện pháp tích cực trong việc thu hồi các khoản nợ do đó giảm được thời gian của một vòng thu hồi nợ từ 370 ngày xuống còn 344 ngày, giảm được 25 ngày/ 1 vòng luân chuyển. Nghịch đảo của chỉ tiêu vòng quay VLĐ là hệ số đảm nhiệm VLĐ. Hệ số này càng giảm thì càng tốt cho Công ty. Thực tế năm 2001 để có 1 đồng doanh thu thuần chỉ cần 0,96 đồmg VLĐ nhưng năm 2000 để có 1 đồng doanh thu thuần Công ty phải bỏ ra 1,03 đồng VLĐ. Như vậy năm 2001 chỉ tiêu này đã giảm 0,07 so với năm 2000. Qua việc phân tích tình hình sử dụng VLĐ trên ta có thể kết luận rằng tình hình sử dụng VLĐ của Công ty là tương đối tốt, Công ty một mặt sử dụng có hiệu quả nguồn VLĐ, mặt khác hiệu quả kinh doanh vẫn cao thể hiện tình hình tài chính của Công ty tương đối tốt và sáng sủa, hầu hết các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đều tăng lên. Để sự đánh giá trên chính xác hơn ta cần đi sâu vào phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng như tình hình mua hàng hoá, dự trữ và tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Việc tăng tốc độ luân chuyển VLĐ sẽ làm giảm nhu cầu về vốn, cụ thể là với một tốc độ vốn không tăng nếu Công ty tăng tốc độ luân chuyển có thể làm tăng doanh số hoạt động dẫn đến lợi nhuận tăng. Thật vậy, từ công thức hệ số luân chuyển của VLĐ ta suy ra: Tổng doanh thu thuần = VLĐ bình quân * Số vòng quay của VLĐ Khi tốc độ luân chuyển không đổi: Số doanh thu thuần VLĐ Số vòng quay Số vòng quay mất khi tốc độ = bình * VLĐ kỳ - VLĐ kỳ luân chuyển tăng quân phân tích gốc = 12.015.912.875 * (1,044- 0,973) = 853.129.814 VNĐ Như vậy , tốc độ luân chuyển của VLĐ năm 2001 tăng là do doanh thu thuần tăng 853.129.814 VNĐ. Đây là sự cố gắng của Công ty trong việc giảm tối thiểu chi phí và do mở rộng quy mô sản xuất nhằm mục đích tăng lợi nhuận. Việc giảm xuống của 1 vòng quay của VLĐ hay việc tăng tốc độ luân chuyển của VLĐ năm 2001 đã làm tiết kiệm một số VLĐ là: N = DTT * (To –T1) T Trong đó: N: là số VLĐ tiết kiệm do tăng tốc độ luân chuyển. DTT: là Tổng doanh thu thuần kỳ phân tích T: là thời gian kỳ phân tích To: là thời gian một vòng luân chuyển kỳ gốc T1: là thời gian luân chuyển kỳ phân tích N = 13.384.860.437 * (344,82 – 369,98) = -9.354.431.244 VNĐ 360 Do đó, so với năm 2000, số VLĐ đã tiết kiệm được 9.354.431.244 VNĐ. Như vậy, xét về hiệu quă sử dụng vốn trên phương diện sinh lợi của vốn thì tăng rất lớn so với năm 2000 chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của Công ty là tương đối tốt, do đó mức tăng của VLĐ bình quân là hợp lý. Mặc dù doanh thu thuần tăng nhưng vẫn tiết kiệm được VLĐ chứng tỏ tình hình kinh doanh của Công ty là khá tốt. 2.5- Phân tích khả năng sinh lợi của vốn: Phân tích khả năng sinh lợi của vốn thực chất là xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ sinh lời của vốn được đánh giá qua các chỉ tiêu sau: Tỷ suất lơi nhuận theo vốn kinh doanh = Tổng lợi nhuận trước thuế VKD bình quân Năm 2000 = -117.587.364 = - 0,007 16.758.104.543 Năm 2001 = 68.728.424 = 0,004 17.239.919.839 Tỷ suất này đã được phân tích ở phần đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Nếu VKD bình quân trong công thức trên được thay bằngVốn chủ sở hữu, ta có: Tỷ suất lợi nhuận theo vốn Chủ sở hữu = Tổng lợi nhuận trước thuế Vốn chủ sở hữu Năm 2000 = -117.587.364 = - 0,014 8.478.065.777 Năm 2001 = 68.728.424 = 0,008 8.479.114.378 Từ kết quả tính toán trên cho thấy khả năng sinh lợi của vốn Chủ sở hữu năm 2001 tăng lên so với năm 2000. Nếu như 1 đồng vốn Chủ sở hữu của Công ty năm 2000 không đem lại lãi mà lỗ 0,014 đồng thì sang năm 2001 đã tạo ra được 0,008 đồng tương dương tăng 0,022 đồng. Sự tăng lên về giá trị của chỉ tiêu này tuy còn nhỏ nhưng đã chứng tỏ sự nỗ lực cố gắng rất lớn của Công ty trong quá trình kinh doanh., làm tăng khả năng sinh lời của vốn Chủ sở hữu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Từ công thức tính mức doanh lợi theo vốn Chủ sở hữu và mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng, ta có: Tỷ suất lợi nhuận theo vốn Chủ sở hữu = Doanh thu thuần * Lợi nhuận trước thuế Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần = Hệ số quay của vốn Chủ sở hữu * Hệ số doanh lợi doanh thu thuần Năm 2000 = 11.685.393.643 * -117.587.364 8.487.065.777 11.685.393.643 = 1,377 * (-0,01) = - 0,014 Năm 2001 = 13.384.860.437 * 68.728.424 8.479.114.378 13.384.860.437 = 1,578 * 0,051 = 0,008 Như vậy, hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu trong kỳ kinh doanh quay được 1,578 vòng tăng so với năm 2000 là 0,201 vòng (= 1,578 – 1,377) chứng tỏ Công ty sử dụng vốn có hiệu quả. Còn hệ số doanh lợi của doanh thu thuần năm 2001 cho biết với 1 đồng doanh thu thuần đem lại 0,008 đồng lợi nhuận trước thuế. So với năm 2000, chỉ tiêu này tăng 0,018 chứng tỏ khả năng sinh lợi của vốn trong quá trình kinh doanh tăng lên. Điều này do ảnh hưởng của hai nhân tố: Do hệ số quay vồng của vốn Chủ sở hữu thay đổi: ( 1,578 –1,377) * 0,01 = 0,00201 Do hệ số doanh lợi doanh thu thuần thay đổi: (0,008 – (- 0,01)) * 1,578 = 0,0284 Tình hình trên cho thấy do hệ số vòng quay của vốn chủ sở hữu tăng lên làm tăng khả năng sinh lợi là 0,00201 đồng và lợi nhuận tính trên 1 đồng doanh thu thuần tăng làm tăng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu là 0,0284 đồng. Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố có thể kết luận rằng khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu ngày càng tăng , tuy nhiên chưa phải là cao. Qua việc phân tích một loạt các chỉ tiêu trên có thể nói rằng mặc dù trước nhiều khó khăn về vốn, các khó khăn chung của ngành cơ khí, Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí đã vượt qua được các khó khăn đó để thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Đây là bước tiến lớn thể hiện sự cố gắng của Công ty trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh . Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí. Đánh giá chung về tình hình tài chính của Công ty: Hơn 30 năm kể từ khi thành lập, Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí đã trải qua không ít những khó khăn thử thách to lớn trong quá trình tồn tại và phát triển. Trước những khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm và đặc biệt là những khó khăn khách quan của ngành Cơ khí nói chung nhưng nhờ những chính sách đổi mới của Ban lãnh đạo Công ty, nhờ quyết tâm đưa Công ty phát triển cao hơn nữa bằng nhiều khả năng và biện pháp, Công ty vẫn đứng vững và phát triển ổn định cùng với các Công ty cơ khí khác trên cả nước sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được ngày càng cao nhu cầu của thị trường, đồng thời góp phần giải quyết công ăn việc làm tạo ra thu nhập cho người lao động. Phân tích tình hình tài chính của Công ty là yêu cầu mang tính thường xuyên và là mối quan tâm cuả nhiều nhóm người khác nhau như Ban lãnh đạo Công ty, các tổ chức tín dụng, các khách hàng, nhà cung cấp và các đối tượng khác. Thông qua việc tiếp cận với tình hình tài chính của Công ty trên cơ sở hệ thống báo cáo tài chính kế toán năm 2000 và năm 2001 với tư cách là một sinh viên chuyên ngành Kế toán, cá nhân em có một số đánh giá về tình hình tài chính của Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí như sau: Nhìn chung, trong những năm gần đây, Công ty làm ăn có lãi. Năm 2000, do áp dụng luật thuế GTGT với mức thuế suất 10% Công ty đã bị lỗ 117.587.364 VNĐ, nhờ những nỗ lực cố gắng của Công ty và nhờ chính sách ưu đãi giảm mức thuế suất thuế GTGT xuống còn 5%, năm 2001 Công ty dần hồi phục và ổn định trở lại nâng mức lợi nhuận trước thuế lên 68.728.424 VNĐ. Công ty luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao mức thu nhập cho người lao động và tìm mọi biện pháp khắc phục khó khăn đưa tình hình tài chính của Công ty ổn định và khả quan hơn. Thực tế cho thấy tình hình tài chính của Công ty tương đối lành mạnh và có nhiều triển vọng khả quan trong tương lai. Xu hướng tích cực này càng góp phần làm cho Công ty có trể đứng vững trong cạnh tranh và khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Những tồn tại về mặt tài chính của Công ty ngày càng được giảm xuống để thích nghi với tình hình mới, làm tăng hiệu quả kinh doanh đưa mức tổng lợi nhuận ngày càng tăng lên. Quy mô tài sản và nguồn vốn của Công ty nói chung năm 2001 tăng lên 10,68% so với năm trước. Tuy nhiên, cơ cấu tài sản và nguồn vốn chưa thật hợp lý và phù hợp với đặc điểm ngành nghề kinh doanh của Công ty. Nhìn vào bức tranh tài chính của Công ty ta thấy các khoản mục tài sản và nguồn vốn vẫn chưa có sự phân bố hợp lý: Về phần tài sản của Công ty chỉ có TSCĐ hữu hình mà không có các tài sản khác, các khoản ĐTDH và các khoản chi phí XDCB không có. Giá trị TSCĐ năm 2001 giảm so với năm 2000 do mức khấu hao khá lớn, phần lớn các tài sản là máy móc thiết bị sản xuất nhờ bảo dưỡng tốt nên hoạt động bình thường nhưng còn một số loại đã quá cũ kỹ, lạc hậu hoạt động không có hiệu quả cho nên tỷ lệ sản phẩm hỏng từ sản xuất tăng lên. Công ty bị thiếu vốn để đầu tư trang bị cho TSCĐ, trong khi quy mô tài sản nói chung tăng 10,68% nhưng chủ yếu là do TSLĐ và ĐTNH tăng, còn nguyên giá TSCĐ do mua sắm cũng tăng nhưng rất ít. Năm 2001 nhu cầu vật liệu tăng 12,11% do đó làm tăng nhu cầu vay VLĐ dẫn đến chi phí cho lãi vay tăng. Bản thân TSLĐ của Công ty cũng có những điểm đáng chú ý sau: + Vốn bằng tiền năm 2001 giảm so với năm 2000 được đánh giá là chưa tốt vì nó chưa đáp ứng được khả năng thanh toán, đặc biệt là khả năng thanh toán nhanh của Công ty. Trong vốn bằng tiền thì tiền gửi Ngân hàng chiếm chủ yếu do việc thanh toán trong hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu được thực hiện thông qua chuyển khoản, séc.... Khoản tiền gửi Ngân hàng trong mục vốn bằng tiền cũng giảm so với năm trước. + Hàng tồn kho tăng đáp ứng được nhu cầu tăng vốn cho khâu dự trữ và khâu sản xuất của Công ty. Tuy nhiên, sang năm tới Công ty có thể giảm vốn dự trữ cho các loại nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá tồn kho theo định mức dự trữ đã được nghiên cứu phù hợp với năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty. Việc tăng nhu cầu vốn cho dự trữ sản xuất luôn đẩy Công ty đến tình trạng vay nợ, chiếm dụng vốn lớn làm cho chi phí lãi vay tăng, hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm (kết quả hoạt động tài chính thường âm do lãi vay Ngân hàng quá lớn). Trong hàng tồn kho, giá trị thành phẩm và hàng tồn kho tăng lên cho thấy nhu cầu tiêu thụ của khách hàng chưa cao dẫn đến giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty. + Các khoản phải thu của Công ty năm 2001 giảm đi, trong đó chủ yếu là giảm khoản phải thu khác và trả trước cho người bán, chứng tỏ uy tín của Công ty một phần nào đã được nâng cao, riêng khoản phải thu của khách hàng tăng lên nhưng tăng không đáng kể, như vậy chứng tỏ Công ty ít bị chiếm dụng vốn từ phía khách hàng do đó cũng tránh được tình trạng ứ đọng vốn trong khâu lưu thông. + Các khoản Nợ phải trả của Công ty năm 2001 tăng lên so với năm trước với tổng số nợ phải trả là 9.334.290.136 VNĐ, trong đó chủ yếu là do tăng các khoản vay ngắn hạn (960.189.143 VNĐ) và các khoản phải trả nhà cung cấp (187.716.155 VNĐ), các khoản nợ các đối tượng khác như người mua cũng tăng nhưng chậm hơn. Nguyên nhân chính làm cho các khoản nợ vay tăng lên là do Công ty tăng mức dự trữ hàng tồn kho, đồng thời Công ty bán chịu cho khách hàng tăng. Để đảm bảo thanh toán cho nhà cung cấp đúng hạn và đảm bảo chữ tín đối với họ cho nên Công ty phải vay tạm thời để thực hiện mục tiêu này. Nếu so sánh với các khoản phải thu thì Công ty đi chiếm dụng nhiều hơn là bị chiếm dụng, đồng thời nếu so với vốn chủ sở hữu thì các khoản phải thanh toán cũng chiếm tỷ trọng lớn do đó khả năng thanh toán nợ của Công ty chưa thật cao. Điều này có ảnh hưởng đến tâm lý của các chủ Ngân hàng, các nhà cho vay tín dụng cũng như những người có quan hệ thanh toán với công ty. Nếu khả năng thanh toán hiện hành ngắn hạn của Công ty rất tốt nhưng khả năng thanh toán nhanh của Công ty lại giảm do vốn bằng tiền và các khoản có thể chuyển hoá nhanh thành tiền của Công ty giảm do đó khả năng đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh có chu kỳ kinh doanh ngắn của Công ty bị hạn chế. Nguồn vốn chủ sở hữu giảm so với kỳ trước (8.951.399 VNĐ tương đương giảm 0,1%) chủ yếu là do nguồn vốn quỹ giảm hay nguồn vốn kinh doanh giảm. Với nguồn vốn tự có của mình Công ty chỉ đảm bảo tài trợ cho TSCĐ và một phần cho TSLĐ, phần còn lại buộc Công ty phải huy động bên ngoài để bù đắp. Như vậy, tỷ lệ vốn vay và vốn đi chiếm dụng cao hơn so với tiêu chuẩn của ngành sản xuất công nghiệp (mức đảm bảo vốn phải đạt trên 50% thì mới an toàn và chủ động) cho thấy Công ty chưa chủ động về vốn. Nhưng đây là tình hình chung của các doanh nghiệp Nhà nước vì nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty chủ yếu là do Ngân sách Nhà nước cấp dưới hình thức TSCĐ ( Nhà cửa, vật kiến trúc,máy móc thiết bị...) nguồn vốn lưu động rất ít, vốn tự bổ sung không nhiều. Chính vì vậy, Công ty đang thiếu vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và để chủ động trong kinh doanh, Công ty đã phải huy động vốn vay vừa bảo đảm vốn cho sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo đem lại lợi nhuận. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là doanh thu thuần trong hoạt động kinh doanh của Công ty năm 2001 tăng nhanh nên đã làm cho các giá trị của hiệu quả sử dụng và hiệu quả sinh lợi của vốn sản xuất, vốn chủ sở hữu và VCĐ đều tăng lên cao. Đây cũng là điều kiện để gây lòng tin từ phía người cho vay. Công ty cũng đã sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả VCĐ, VLĐ và vốn sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao chỉ tiêu lợi nhuận. Trên đây là những nhận xét đánh giá, chung nhất về tình hình tài chính của Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí. Qua các đánh giá trên cho thấy tình hình tài chính của Công ty trong năm 2001 tương đối ổn định, lành mạnh và khả quan hơn so với năm 2000. Tuy nhiên, để khắc phục được những bất cập còn tồn tại trong bức tranh tài chính của Công ty, cần thiết phải đề ra một số phương hướng, giải pháp mang tính đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty trong những năm tiếp theo. Các kiến nghị và phương hướng nhằm cải thiện tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí trong những năm tới: Những phân tích, đánh giá trên đây mới chỉ dừng lại ở những đấnh giá chung nhất và những nét cơ bản nhất về tình hình tài chính của Công ty. Do vậy, những kiến nghị mang tính đề xuất dưới chỉ có ý nghĩa trong một giới hạn nhất định nào đó nên cần phải đặt trong mối quan hệ với tình hình thực tế luôn phát sinh và biến động tại Công ty thì mới thực sự có giá trị. Các kiến nghị đối với Công ty: Kiến nghị về công tác quản lý: Nhìn chung, bộ máy quản lý của Công ty đã đáp ứng được yêu cầu tinh giảm gọn nhẹ của Nhà nước đảm bảo sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Ban lãnh đạo Công ty tạo ra được hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, bộ máy quản lý của Công ty vẫn còn trì trệ, yếu kém về hiệu quả. Cán bộ quản lý ở các mặt hoạt động, các lĩnh vực của Công ty ngoài lực lượng lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm trong thời buổi nền kinh tế thị trường vẫn còn một số chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó, để có thể phát triển nhanh hơn nữa, Công ty cần phải tăng cường khả năng tổ chức lãnh đạo và quản lý hơn nữa bằng việc chú trọng đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý năng động hơn, linh hoạt hơn và có trình độ cao hơn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày nay. Muốn thực hiện được điều đó, Công ty nên áp dụng các giải pháp sau: Thứ nhất, Công ty phải chấn chỉnh và sắp xếp lại bộ máy gián tiếp, phục vụ trong Công ty theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ hơn nữa, giải quyết chế độ cho số cán bộ, nhân viên có điều kiện và thâm niên công tác nhưng không đáp ứng được yêu cầu về sức khoẻ và trình độ năng lực. Ban lãnh đạo Công ty cần kiên quyết sàng lọc những người không đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đồng thời phải có chế độ thưởng phạt phân minh nhằm khuyến khích động viên kịp thời những người đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thứ hai, Công ty nên bổ sung một lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, nhân viên trẻ và có những chính sách để thu hút họ. Ngoài ra, Công ty cũng nên tổ chức các lớp học ngắn hạn về pháp luật và những cải cách đổi mới của Nhà nước, đặc biệt là những chính sách về tiền lương, tiền thưởng để thực hiện quy chế dân chủ trong quản lý. Kiến nghị về công tác kế toán: Kết quả cuối cùng của công tác kế toán là đưa ra được những báo cáo tài chính phản ánh đúng tình hình, thực trạng tài chính của Công ty. Hiện nay, công tác kế toán rất phù hợp với đặc điểm và quy mô kinh doanh của Công ty. Sự phân công trách nhiệm đối với từng người trong phòng tài vụ là tương đối hợp lý, hạch toán kế toán theo đúng chuẩn mực pháp lý phù hợp với chế độ kế toán hiện hành. Để giảm bớt công sức và thời gian cho nhân viên kế toán và để đáp ứng với nền công nghiệp hiện đại ngày nay, Công ty nên tiếp cận và áp dụng kế toán máy vào công việc thu nhận và xử lý thông tin kế toán cho quản lý một cách kịp thời, chính xác. Có như vậy mới có thể giảm bớt được việc tích trữ một lượng lớn tài liệu, sổ sách kế toán và công sức của nhân viên kế toán. Nhưng, để có những báo cáo tài chính kế toán cuối kỳ trung thực thì đòi hỏi các kế toán viên phụ trách từng phần hành kế toán trong Công ty phải phản ánh chính xác các nghiệp vụ phát sinh. Do công tác hạch toán kế toán hàng ngày tại phòng tài vụ nhiều phức tạp nên yêu cầu đặt ra là Công ty cần phải có một đội ngũ nhân viên kế toán có chuyên môn và nghiệp vụ đồng đều. Từ nhiều năm trở lại đây, Công ty đã chú trọng công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, trang bị thêm các phương tiện hỗ trợ cho các cán bộ, nhân viên phòng tài vụ và các nhân viên hạch toán ban đầu tại các phân xưởng. Tuy nhiên, trước những biến động và sự hoà nhập của nền kinh tế trong nước với khu vực và thế giới, Công ty vẫn cần phải trang bị thêm những kiến thức về hệ thống kế toán quốc tế cũng như các chuẩn mực kiểm toán trong nước và quốc tế cho đội ngũ nhân viên kế toán. Theo hệ thống kế toán doanh nghiệp do Bộ tài chính hiện hành quy định: Hệ thống báo cáo tài chính kế toán bao gồm có bốn báo cáo, trong đó Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo mang tính hướng dẫn mà không có tính bắt buộc. Vì vậy, kế toán tổng hợp Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí chỉ lập 3 báo cáo tài chính là BCĐKT, BCKQKD và Thuyết minh báo cáo tài chính. Theo cá nhân em, Công ty nên lập thêm báo cáo Lưu chuyển tiền tệ vì đây là báo cáo không thể thiếu đối với các doanh nghiệp trong những nước có nền kinh tế thị trường. Việc phân tích báo cáo Lưu chuyển tiền tệ có nội dung tương tự như phân tích các báo cáo tài chinhs khác. Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ có vai trò quan trọng trong việc cung cấp những số liệu liên quan đến sự vận động của vốn bằng tiền và tình hình sử dụng vốn bằng tiền trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Thực chất báo cáo Lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo cung cấp thông tin về những sự kiện và nghiệp vụ có ảnh hưởng đến tình hình tiền tệ của một doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin có thể đánh giá khả năng tạo ra tiền, sự biến động tài sản của doanh nghiệp và dự đoán được các luồng tiền của kỳ tiếp theo. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, Công ty nên chăng lập báo cáo Lưu chuyển tiền tệ để từ đó giúp Công ty đánh giá chính xác hơn về tình hình tài chính của mình cũng như về hiệu quả sử dụng vốn và giúp cho Công ty có thể xây dựng tốt kế hoạch phát triển kinh doanh. Công ty nên áp dụng phương pháp gián tiếp để lập báo cáo Lưu chuyển tiền tệ, thông qua báo cáo lập theo cách này có thể thấy được vốn bằng tiền của Công ty tại thời điểm cuôí kỳ so với đầu kỳ tăng hay giảm bao nhiêu và so sánh được lượng tiền vào với lượng tiền ra trong hoạt động kinh doanh và trong hoạt động đầu tư. Kỳ lập Báo cáo tài chính: Để nắm bắt được tình hình tài chính của Công ty kịp thời thông qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty thì Công ty phải tiến hành lập Báo cáo tài chính đúng kỳ kế toán. Để thực hiện được điều này, Công ty cần có biện pháp đốc thúc các đơn vị lập báo cáo đúng kỳ, đồng thời có biện pháp xử phạt cụ thể đối với các đối tượng nộp sai kỳ hạn gây cản trở cho công tác phân tích tài chính của Công ty và định hướng cho sự phát triển trong năm tới. Kiến nghị về công tác phân tích tài chính: 1.3.1- Một số kiến nghị về hệ thống các chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính: Khi phân tích tình hình đầu tư, việc sử dụng chỉ tiêu tỷ suất đầu tư bằng cách lấy Giá trị TSCĐ đã và đang đầu tư (mục B.I.III.TS) chia cho tổng tài sản chưa nói lên được hiệu quả đầu tư của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài tỷ suất trên nên chăng phân tích thêm một số chỉ tiêu khác như sau: Từ Tỷ suất đầu tư chung = TSCĐ và ĐTDH (mục B.TS) * 100% Tổng tài sản Ta tính thêm tỷ suất sau đây: Tỷ suất đầu tư tài chính dài hạn = Giá trị các khoản đầu tư tài chính dài hạn * 100% Tổng tài sản Chỉ tiêu này phản ánh tính hợp lý của việc sử dụng vốn vào việc đầu tư dài hạn trong từng thời kỳ. Ngoài ra, có thể phân tích chỉ tiêu hiệu quả của công tác đầu tư XDCB thông qua chỉ tiêu sau đây: Mức độ hoàn thành công tác XDCB = Giá trị XDCB, mua sắm TSCĐ cuối kỳ * 100% Giá trị XDCB, mua sắm TSCĐ đầu kỳ Với tình hình cụ thể của Công ty thì những chỉ tiêu phân tích tình hình đầu tư mới đưa ra hoàn toàn không thay đổi do tổng tài sản của Công ty chỉ có TSCĐ hữu hình và Công ty không có các khoản đầu tư tài chính dài hạn. 1.3.2- Một số kiến nghị về thực hiện phân tích tình hình tài chính: Việc thực hiện phân tích tài chính trong nội bộ mỗi doanh nghiệp là rất cần thiết, đặc biệt là một doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn như Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí. Việc phân tích này sẽ giúp cho Công ty sẽ nắm chắc được thực trạng kinh doanh, biết được hiệu quả sử dụng vốn của mình và nhờ đó các nhà quản lý sẽ đề ra các biện pháp hữu hiệu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nhằm phát huy những thế mạnh hiện có, đồng thời khắc phục kịp thời những tồn tại, khó khăn trong hoạt động tài chính. Tuy nhiên, Việc phân tích tình hình tài chính của Công ty đòi hỏi phải mất nhiều thời gian, công sức và đòi hỏi người phân tích phải có trình độ chuyên môn cao. Để thực hiện được các yêu cầu đặt ra, Công ty có thể chỉ cần tiến hành phân tích báo cáo tài chính vào quý 2 và cuối năm thay cho việc phân tích báo cáo tài chính của cả 4 quý. Đồng thời, Công ty cần tạo điều kiện để người thực hiện phân tích tình hình tài chính có cơ hội học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn. Phương hướng nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty: Qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí, em xin trình bày ý kiến cá nhân về một số biện pháp nhằm có thể cải thiện tình hình tài chính cuả Công ty: Một là, vốn bằng tiền của Công ty rất quan trọng, nó đóng vai trò như một phương tiện chuyên chở các yếu tố đầu vào tham gia quá trình lưu thông, tiêu thụ, đến lượt mình nó lại là kết quả của chu kỳ kinh doanh này và chuẩn bị cho một chu kỳ kinh doanh mới. Vốn bằng tiền là một phương tiện thanh toán có tốc độ chu chuyển nhanh. Tuy nhiên, nếu dự trữ vốn bằng tiền quá ít sẽ làm giảm khả năng thanh toán, đặc biệt là khả năng thanh toán nhanh của Công ty, do đó sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn không cao. Công ty cần tăng mức dự trữ vốn bằng tiền với mức hợp lý nhất để đáp ứng tình hình thanh toán và không gây ứ đọng vốn. Biện pháp hữu hiệu nhất là Công ty phải tăng cường thu hồi các khoản nợ phải thu, đặc biệt là đối với khách mua hàng hay là giảm bớt mức dự trữ hàng tồn kho. Hai là, Công ty cần tích cực hơn trong công tác thu hồi nợ, mặc dù khách hàng chiếm dụng của Công ty không nhiều nhưng nếu không thu hồi được sẽ gây ảnh hươngr đến tình hình kế hoạch tài chính của Công ty. Muốn vậy, Công ty phải có các chính sách tín dụng thương mại thích hợp trong đó đề ra những chính sách khuyến khích, thưởng phạt trong việc thanh toán các khoản tín dụng hàng ngày. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là không thể thiếu, nó có thể làm cho Công ty đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng có thể đem đến cho Công ty những rủi ro kinh doanh. Vì thế để phát huy mặt tích cực của công việc này, Công ty cần phải nắm bắt được năng lực trả nợ của bạn hàng, tinh thần trách nhiệm trả nợ của bạn hàng, các tài sản riêng có thể dùng để đảm bảo cho các khoản nợ, khả năng phát triển và xu thế phát triển của ngành nghề kinh doanh của bạn hàng. Làm tốt công tác này sẽ giúp cho Công ty thu hồi được vốn và nâng cao được hiệu quả sử dụng VLĐ. Ba là, hiện nay Công ty chưa lập các khoản dự phòng, đặc biệt là các khoản dự phòng phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Vì thế trong thực tế mặc dù Công ty thực hiện giám sát nợ của khách hàng rất chặt chẽ nhưng còn các khoản phải thu khác thì Công ty không thể giám sát được. Còn đối với hàng tồn kho dùng để bán có thể bị giảm giá do biến động của thị trường, vì thế Công ty nên lập các khoản dự phòng này. Thực tế, dự phòng này chỉ làm tăng tính thận trọng trong sản xuất kinh doanh giúp Công ty tránh được rủi ro đáng tiếc. Về phương diện kinh tế, nhờ các khoản dự phòng giảm giá sẽ làm cho BCĐKT của Công ty phản ánh chính xác hơn giá trị thực tế của tài sản. Về phương diện tài chính của Công ty, các khoản dự phòng là nguồn tài chính của Công ty tạm thời nằm trong các TSLĐ khác trước khi sử dụng thật sự. Bốn là, thực hiện thanh toán bớt các khoản phải trả khác như BHXH, BHYT, KPCĐ… Tính đến cuối năm 2001, các khoản này tăng lên đến 724.356.873 VNĐ chiếm 4,06% trong tổng nguồn vốn. Mặt khác các khoản nợ nhà cung cấp cũng phải chú ý thanh toán đúng hạn để giữ vững uy tín với bạn hàng, tạo điều kiện làm ăn lâu dài. Năm là, nâng cao hơn nữa một số chỉ tiêu: + Tỷ suất tự tài trợ của Công ty còn thấp gây khó khăn nhiều cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước nên xem xét cấp thêm VLĐ cho Công ty. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần phải tăng cường thêm các nguồn vốn bổ sung, nâng cao lợi nhuận để có điều kiện tăng thêm vốn hoạt động và tìm đối tác liên doanh , liên kết góp vốn. Thực hiện được điều này sẽ làm tăng khả năng độc lập về mặt tài chính của Công ty. + Hệ số thanh toán nhanh của Công ty quá thấp chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán nhanh các khoản vay nợ ngắn hạn. Để giải quyết vấn đề này như phân tích ở trên, Công ty nên tăng thêm vốn bằng tiền. Phương hướng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của Công ty: Như chúng ta biết, muốn sản xuất kinh doanh phải có vốn. Trong thực tiễn quản lý tài chính, hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề phức tạp có quan hệ với các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh như TSLĐ, TSCĐ, Vốn chủ sở hữu. Công ty chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố đầu vào này trong mối quan hệ với các yếu tố đầu ra như lợi nhuận thuần, lợi nhuận gộp một cách có hiệu quả. Thực trạng về vốn của Công ty cho thấy Công ty đang gặp khó khăn về vốn, với nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp không đủ để hoạt động mà phải dựa vào nguồn vốn vay và vốn đi chiếm dụng. Do cơ cấu vốn chưa hợp lý nên không cho phép Công ty chủ động trong sản xuất kinh doanh nhất là trong đầu tư dài hạn. Để giải quyết khó khăn về vốn, Công ty phải cải thiện nguồn vốn vay. Muốn đảm bảo nguồn vốn đủ cho sản xuất kinh doanh vừa có chi phí về vốn thấp nhất, Công ty phải áp dụng một số biện pháp sau: 1.5.1- Tăng cường huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh : Tăng cường vay vốn Ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Khi đi vay, Công ty phải trả chi phí cho lãi vay do đó phải tính toán, lập các phương án kinh doanh cụ thể sao cho có thể đảm bảo được các chi phí kinh doanh cộng thêm lãi suất Ngân hàng mà vẫn có lãi. Thực hiện Cổ phần hoá doanh nghiệp: Để đảm bảo nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng mà vẫn đạt được cơ cấu vốn tối ưu, Công ty có thể sử dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành Cổ phiếu. Hiện nay, Nhà nước đã cho phép các DNNN được quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành Cổ phiếu và bỏ mức khống chế vốn huy động tai điều 11 của Nghị định 59/CP. Đây là một bước tiến không chỉ trong việc giải quyết nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn nâng cao công tác quản lý và sử dụng vốn tại các DNNN. Đối với Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí, việc Cổ phần hoá sẽ khắc phục được tình trạng cơ cấu vốn bất hợp lý hiện nay. Thêm vào đó, khi chuyển từ DNNN sang hình thức Công ty Cổ phần, người lao động khi có cổ phần trở thành người chủ đích thực, có quyền hạn trách nhiệm, lợi ích cụ thể từ đó họ gắn bó với Công ty hơn. Điều này tạo điều kiện cho Công ty giải quyết khó khăn về vốn, về cải tiến kỹ thuật, việc làm, năng suất chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Có nhiều hình thức Cổ phần hoá doanh nghiệp, nhưng với đặc điểm kinh doanh và tình hình tài chính như hiện nay, Công ty Dụng cụ cắt vá Đo lường cơ khí có thể lựa chọn hình thức cổ phần hoá mà trong đó Nhà nước giữ lai một tỷ lệ % cổ phần nhất định, còn lại đại bộ phận Cổ phần sẽ bán cho cán bộ công nhân viên trong Công ty bằng một phần nguồn quỹ phúc lợi được chia theo thời gian đóng góp của từng người cùng với số tiền đóng góp thêm của họ. Số còn lại sẽ bán cho các đối tượng bên ngoài. Tuy nhiên, để tiến hành cổ phần hoá được thuận lợi, Công ty cần phải nghiên cứu các quy định cụ thể có liên quan đến cổ phần hoá như: mức khống chế mua cổ phần đối với lãnh đạo Công ty, chế độ ưu đãi đối với người lao động, chế độ xử lý các khoản nợ kéo dài hiện vẫn còn cản trở đối với quá trình chuyển đổi sở hữu Công ty. 1.5.2- Nâng cao lợi nhuận: Để nâng cao lợi nhuận, Công ty cần có những biện pháp sau: Tích cực tìm kiếm khách hàng và thị trường mới để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu bán hàng. Thực hiện chiến lược quảng cáo trên kênh truyền hình và các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá hình ảnh sản phẩm của Công ty. Nâng cao chất lượng sản phẩm, duy trì và cải thiện nâng cao chất lượng mẫu mã quy cách sản phẩm. Phấn đấu giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm, sử dụng và quản lý tốt chi phí, khuyến khích tăng năng suất lao động. Mở rộng liên doanh, liên kết, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và nâng cao tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm của Công ty ra nước ngoài. 1.5.3- Nâng cao các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn: Nâng cao hiệu quả và sức sinh lợi của VLĐ bằng cách tăng cường quản lý chặt chẽ nhu cầu VLĐ trong sản xuất. Công ty nên thực hiện các biện pháp giảm VLĐ cho phù hợp với năng lực sản xuất kinh doanh và tình hình thực tế của thị trường thông qua việc xác định nhu cầu VLĐ cần thiết hợp lý cho từng loại tài sản trong khâu mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ cũng như thanh toán. + Trong khâu mua sắm dự trữ tồn kho: Công ty phấn đấu giảm định mức tồn kho bằng cách quay nhanh vòng quay kho. + Trong khâu sản xuất: Công ty phấn đấu tăng năng suất lao động, hợp lý hoá quy trình công nghệ sản xuất, thực hiện chính sách đòn bẩy cho công nhân viên qua chế độ tiền lương, thưởng. +Trong khâu tiêu thụ: mở rộng hơn nữa kênh tiêu thụ sản phẩm ỏ phía Nam, mở các hội nghị khách hàng. + Trong khâu thanh toán: xác định phương thức thanh toán hợp lý, dùng các biện pháp chiết khấu để thu hồi VLĐ nhanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ và TSCĐ bằng cách tăng cường công tác quản lý TSCĐ, nâng cao hơn nữa sức sản xuất của TSCĐ và sức sinh lợi của TSCĐ. Công ty nên huy động tối đa năng lực sản xuất của máy móc thiết bị hiện có vào sản xuất, đầu tư đổi mới TSCĐ, công nghệ sản xuất tiên tiến hiện đại để tăng năng lực sản xuất. Thực hành chế độ khấu hao hợp lý, xử lý dứt điểm những TSCĐ đã cũ không sử dụng được nhằm thu hồi lại vốn để dùng vào luân chuyển bổ sung cho vốn kinh doanh. Nâng cao hệ số doanh lợi doanh thu bằng cách tăng lợi nhuận, giảm chi phí nghiệp vụ kinh doanh cần thiết. 1.5.4- Bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh: Công ty phải bảo toàn và phát triển cả VLĐ và VCĐ: Để bảo toàn VCĐ, Công ty nên mua bảo hiểm cho các TSCĐ để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại về vốn. Các khoản chi cho Bảo hiểm có thể hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lưu thông của Công ty. Đây là phương thức rất an toàn và hiệu quả trong việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đối với nguồn VLĐ, Công ty cần quan tâm đến việc thu hồi, quản lý tiền mặt, khả năng thu hồi tiền mặt. Công ty nên thực hiện giảm tốc độ chi tiêu bằng cách trì hoãn việc thanh toán trong một thời gian cho phép để dùng tiền tạm thời nhàn rỗi đó để sinh lời. Công ty cần xác định một cách chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt cho thu mua nguyên vật liệu nhằm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất thường xuyên liên tục. Từ đó có biện pháp tổ chức huy động nhằm cung cấp kịp thời, đầy đủ tránh tình trạng thừa vốn gây lãng phí hoặc thiếu vốn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với Nhà nước: Để tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh, Nhà nước và Tổng Công ty máy và Thiết bị công nghiệp cần phải có một số chính sách như sau: Khuyến khích tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh bằng nguồn vốn vay ưu đãi và tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho Công ty. Ưu tiên về vốn, cấp bổ sung vốn cho Công ty, ưu tiên về thuế đặc biệt là trong tình hình Công ty đang tổ chức cải tạo năng lực sản xuất của mình. Nhà nước tạo điều kiện cho Công ty tiến hành Cổ phần hoá doanh nghiệp. Để thực hiện được yêu cầu tạo điều kiện cho các DNNN nói chungvà Công ty nói riêng tiến hành cổ phần hoá được thuận lợi, Nhà nước nên sửa đổi và hoàn thiện cơ chế chính sách phục vụ cho hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp, nâng cao năng lực pháp lý của hệ thống chính sách có liên quan đến hoạt động chuyển đổi sở hữu DNNN, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động này thông qua việc xây dựng và trình Quốc hội cho phép ban hành luật chuyển đổi sở hữu DNNN. Bên cạnh đó, Nhà nước nên xây dựng đề án và tổ chức thí điểm Công ty quản lý tài sản và mua bán nợ để hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý các vấn đề tồn đọng về tài chính khi thực hiện các đề án chuyển đổi sở hữu, Công ty đầu tư tài chính để từng bước tách rời quyền sở hữu với quyền quản lý tài sản thông qua việc chuyển phương thức quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp hành chính sang phương thức đầu tư. Tăng cường chỉ đạo hoạt động, chú trọng công tác tổ chức chăm lo đến đời sống cho các cán bộ công nhân viên trong Công ty về vật chất cũng như về tinh thần. Trên đây là những kiến nghị và các giải pháp mang tính đề xuất, hy vọng những đề xuất này có thể phần nào giúp cho Công ty cải thiện được tình hình tài chính của mình trong thời gian tới, để từ đó có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn trong quá trình phát triển của Công ty Kết luận Qua hai phần lý luận và thực tiễn cho thấy phân tích tình hình tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt quá trình thu thập tài liệu, chứng từ ban đầu đến lập báo cáo kế toán tài chính sát đúng với thực tế. Nhưng để đạt được hiệu quả cao trên cơ sở vật chất kỹ thuật, tiền vốn và lao động sẵn có, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích báo cáo tài chính kế toán để có thể đưa ra quyết định lưạ chọn phương án kinh doanh tối ưu. Trong thời gian thực tập tại Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí đi sâu vào phân tích tình hình tài chính của Công ty, em thấy rằng hoạt động tài chính có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, Tài chính doanh nghiệp là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, nó còn là công cụ để có phương hướng chỉ đạo hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Mặc dù phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách song Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí đã bằng mọi cách để vượt qua khó khăn và thu được kết quả tốt. Vì hạn chế về thời gian nghiên cứu và trình độ cho nên chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ góp ý của các cô chú cán bộ công nhân viên và các thầy cô giáo để cho đề tài được hoàn thiện hơn nữa. Qua đây, một lần nữa em xin cám ơn các thầy cô giáo trong khoa kế toán, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của TS- Nguyễn Minh Phương và phòng Tài vụ của ông ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí đã tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Danh mục tài liệu tham khảo. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh. Chủ biên PGS-TS Phạm Thị Gái. Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. NXB Giáo Dục/ 2000. 2- Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh Chủ biên TS Nguyễn Năng Phúc. Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. NXB Thống kê/ 2000 3- Giáo trình Kế toán Quản trị Chủ biên TS- Nguyễn Minh Phương Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội 4- Lý thuyết thực hành Kế toán tài chính VAT Chủ biên TS Nguyễn Văn Công Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. NXB Thống kê/ 2000 5- Lập, đọc, kiểm tra và phân tích Báo cáo tài chính VAT Chủ biên TS Nguyễn Văn Công Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. NXB Thống kê/ 2000 6- Chế độ Báo cáo tài chính trong doanh nghiệp (Quyết định 167/2001- QĐ-BTC ngày 25/10/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính). NXB Tài chính/2001 7- Các chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS) do Liên Đoàn Kế toán Quốc tế công bố và các dự thảo chuẩn mực Kế toán Việt Nam. 8- Các tạp chí Kế toán, Tài chính.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0290.doc
Tài liệu liên quan