TÓM TẮT 15
CHƯƠNG 1 18
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững 23
Biến đổi khí hậu 25
Quản lý tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng bền vững 27
Chương trình cải cách 30
Tài liệu tham khảo 32
CHƯƠNG 2 34
QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Tài nguyên đất đai và xu hướng biến động 35
Chính sách và thể chế 37
Chính sách đất đai 37
Thể chế 37
Các vấn đề tồn tại 39
Đổi mới để nâng cao hiệu quả 41
Tăng cường quyền sử dụng đất 41
Phát triển thị trường đất đai 42
Hiện đại hóa quản lý đất đai 43
Đổi mới để bảo đảm bền vững môi trường 50
Tăng cường quy hoạch sử dụng đất 47
Đổi mới để bảo đảm công bằng 49
Cải tiến quy trình thu hồi đất và đền bù giải phóng mặt bằng 51
Tài liệu tham khảo 52
CHƯƠNG 3 54
TÀI NGUYÊN NƯỚC
Tài nguyên nước ở Việt Nam 55
Cung cấp các dịch vụ nước 57
Sử dụng nước cho mục đích sản xuất kinh tế 57
Những vấn đề quan trọng trong quản lý tài nguyên nướ 60
Bối cảnh thể chế, pháp lý và chính sách 60
An ninh nguồn nước 61
Các dịch vụ nông nghiệp và thủy lợi bền vững 61
Cung cấp tài chính và Cơ sở vật chất 61
Ô nhiễm và Suy thoái 62
Thiên tai 63
Biến đổi khí hậu 63
Chương trình cải cách 63
Sử dụng nước hiệu quả 64
Sự bền vững môi trường 66
Sự công bằng 67
Các biện pháp hỗ trợ Chương trình cải cách 68
Tài liệu tham khảo 69
CHƯƠNG4 72
QUẢN LÝ RỪNG
Viễn cảnh thể chế 75
Viễn cảnh chính sách 75
Viễn cảnh kinh tế 75
Viễn cảnh xã hộ 78
Viễn cảnh đa dạng sinh học 80
Các vấn đề quan trọng trong ngành lâm nghiệp 82
Chương trình cải cách 83
Cải cách quản trị và thể chế 84
Cải cách tính hiệu quả 85
Cải cách về tính công bằng 88
Cải cách về tính bền vững môi trường 89
Tài liệu tham khảo 91
CHƯƠNG 5 94
TÀI NGUYÊN BIỂN
Các vấn đề chính của ngành đánh bắt hải sản 97
Dư thừa năng lực đánh bắt và thiếu hiệu quả trong khai thác tài nguyên 2 99
Đánh bắt trái phép, không báo cáo và không được quản lý (IUU)2 99
Thiếu dữ liệu và các điểm tham chiếu chính thức 99
Tính dễ bị tổn thương và sự công bằng 100
Những yếu kém trong chuỗi cung ứng 100
Con đường phía trước 99
Đánh bắt bền vững 101
Sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển 105
Tài liệu tham khảo 108
CHƯƠNG 6 110
TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN
Tổng quan về ngành 113
Hiệu quả trong tạo điều kiện tiếp cận tài nguyên 110
Cấp quyền khai thác mỏ và nhượng quyền khai thác 114
Hiệu quả quản lý ngành và sự bền vững môi trường 116
Lý thuyết so với Thực tế: Quy trình Đánh giá Tác động Môi trường và Xã hội 118
Các tác động đến môi trường tự nhiên và xã hội 119
Phát triển công bằng và Phân phối các dòng lợi ích 121
Phụ lục. Nghiên cứu tình huống cụ thể: ngành khai thác than 122
Tài liệu tham khảo 125
Phụ lục thống kê 128
Chú thích 154
168 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1802 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Phát Triển Việt Nam 2011: Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8) ước tính thiệt hại kinh tế từ các tác động sức
khỏe do điều kiện vệ sinh kém vào khoảng 262 triệu
đô-la mỗi năm. Phần lớn thiệt hại này – không phải
là toàn bộ - bắt nguồn từ các tác động do nước bị ô
nhiễm. Các tác động y tế được chia thành chi phí
chăm sóc sức khỏe, tổn thất năng suất lao động do
mắc bệnh, và chết sớm. Nghiên cứu này chỉ ra rằng,
hàng năm, điều kiện vệ sinh kém là nguyên nhân
gây ra gần 7 triệu trường hợp tiêu chảy, 2,4 triệu
trường hợp bị ghẻ, nhiễm giun sán, viêm gan A và
đau mắt hột, và 0,9 triệu trường hợp liên quan đến
suy dinh dưỡng. Các bệnh này cũng gây ra hơn
9.000 ca tử vong mỗi năm, chủ yếu là ở trẻ em. Một
tác động quan trọng thứ hai được đo lường trong
nghiên cứu này là các chi phí kinh tế do chất lượng
nước kém – yếu tố chỉ gián tiếp liên quan đến sức
khỏe con người. Nghiên cứu này ước tính, các chi phí
nói trên vào khoảng hơn 287 triệu đô-la mỗi năm,
bao gồm chi phí xử lý nước bị ô nhiễm để sử dụng
làm nước uống, các chi phí bổ sung để tìm kiếm
nguồn nước được cải thiện, và thiệt hại năng suất
trong ngành thủy sản. Tổng các chi phí bổ sung lên
đến 780 triệu đô-la theo trích dẫn của Bộ TN&MT
năm 2010..
93 Vedan Việt Nam là một doanh nghiệp sản xuất bột
ngọt. Điều tra cho thấy, tháng 9/2008, Vedan đã xả
nước thải trái phép. Theo trang web của Bộ TN&MT,
vụ kiện Vedan vẫn đang được tiếp tục.
94 Các mô hình đưa ra những kết quả rất khác nhau về
dự báo tác động của biến đổi khí hậu đối với lượng
mưa và quản lý nước. Khi chạy 14 mô hình khí hậu
khác nhau, kết quả cho thấy, khả năng khí hậu ở Việt
Nam trở nên khô hanh hơn hay ẩm ướt hơn vào năm
2050 là ngang nhau (Ngân hàng Thế giới 2010a).
Chính phủ đã thông qua một kịch bản phát thải khí
nhà kính ở mức trung bình để làm cơ sở tiến hành
quy hoạch và dự báo biến đổi khí hậu. Theo kịch bản
này, tổng lượng mưa hàng năm sẽ tăng lên ở khắp
mọi nơi tại Việt Nam. Theo kịch bản phát thải cao,
lượng mưa dự kiến sẽ tăng trung bình 6,6% trong
thế kỷ này, bao gồm mức tăng 10% trong khu vực
đồng bằng sông Hồng. Nếu điều này xảy ra, nó có
thể làm tăng nguy cơ lũ lụt và sạt lở đất ở vùng núi.
Ngược lại, trong những tháng mùa khô, đặc biệt là ở
miền Nam bao gồm cả đồng bằng sông Cửu Long,
trung bình lượng mưa có thể giảm khoảng 20%, làm
tăng nguy cơ hạn hán. "Thông số quy hoạch" của
Việt Nam là mực nước biển dâng 1m vào năm 2100,
phù hợp với kịch bản phát thải cao. Nếu không có
biện pháp mạnh như gia cố đê điều, mực nước biển
dâng 1m sẽ gây ra ngập lụt lớn (UNDP 2009). Cần
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H 159
thận trọng khi áp dụng các thông số quy hoạch có
xem xét đến mực nước biển dâng cực đại. Để so
sánh, có thể lưu ý rằng, Ủy ban Liên chính phủ về
biến đổi khí hậu (2007) đã dự báo rằng, chỉ dựa trên
sự giãn nở nhiệt của nước biển thì đến năm 2010,
mực nước biển dâng trung bình trên toàn cầu đã
vào khoảng 26-59 cm.
95 Ngoài ra còn có các văn bản dưới luật về phí bảo vệ
môi trường liên quan đến nước thải (Nghị định
67/2003), cấp nước và thoát nước đô thị (Nghị định
117/2007, 88/2007 và 59/2007), quản lý lưu vực sông
(Nghị định 120/2008), và quy trình vận hành liên hồ
chứa (Nghị định 112/2008)
96 Các quyền đối với nguồn nước được quy định về
khối lượng hoặc tỷ lệ nước mà một người có thể lấy.
Các quyền này cũng có thể xác định, khi nào được
lấy nước và lấy ở mức nào. Các quyền đối với nguồn
nước bao gồm quyền ưu tiên tiếp cận nguồn nước
mà một người có quyền có được so với những người
có quyền khác. Xác định ưu tiên tiếp cận là một
phương tiện để phân phối sự thay đổi trong nguồn
cung nước từ năm này sang năm khác giữa các đối
tượng sử dụng và các mục đích sử dụng nước khác
nhau. Các quyền đối với nguồn nước có thời hạn cụ
thể theo quy định. Các quyền đối với nguồn nước
cũng có thể tạo ra quyền xây dựng các công trình
cần thiết để lấy nước, sử dụng nước, và xác lập thời
gian cung cấp nước. Tuy nhiên, ở một số khu vực,
cần có những quy trình phê duyệt riêng để thực
hiện các công trình cần thiết cho việc lấy nước, sử
dụng nước, và tận dụng khả năng dẫn nước của
lòng chảy. Cuối cùng, các quyền đối với nguồn nước
cũng áp đặt trách nhiệm pháp lý đối với người có
quyền nếu gây tổn hại cho những người có quyền
khác. Các trách nhiệm này thường được áp dùng để
bảo vệ các bên thứ ba, chẳng hạn như những người
khác có quyền đối với nguồn nước, hoặc môi
trường. Những trách nhiệm pháp lý này là một khía
cạnh quan trọng trong thực thi các quyền đối với
nguồn nước (Ủy ban Năng suất Ô-xtrây-lia 2003).
97 ADB 2010b.
98 Theo Liên minh châu Âu 2000.
99 Ngân hàng Thế giới 2006.
100ADB 2010a.
101Trang web của Bộ TN&MT báo cáo những phát hiện
của một nghiên cứu do Ủy ban Khoa học, Công
nghệ và Môi trường thuộc Quốc hội thực hiện nhằm
đánh giá hiện trạng thi hành pháp luật về môi
trường trong các khu công nghiệp, khu đô thị và
kinh tế. Phó Chủ nhiệm Ủy ban, Tiến sĩ Nghiêm Vũ
Khải, nói rằng các chính sách và văn bản pháp quy
hiện hành của nhà nước đã đặt một nền tảng cần
thiết cho việc xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường tại
các vùng đô thị và khu công nghiệp trong cả nước.
Tuy nhiên, ô nhiễm vẫn ở mức nghiêm trọng tại
nhiều nơi, gây khó khăn cho tăng trưởng kinh tế và
đe dọa sức khỏe của người dân. Đó là do sự yếu kém
trong việc thực thi pháp luật môi trường, mà trách
nhiệm thuộc về các cơ quan nhà nước và chính
quyền địa phương có liên quan.
102Quyết định 64/2003 về xử lý các cơ sở gây ô nhiễm
và quy định điều tiết và vận hành trong toàn bộ
chính phủ là một thành tựu đáng kể. Nhưng đổi mới
là cần thiết để cải thiện hiệu quả thực hiện. Đặc biệt,
các tiêu chí để xác định một doanh nghiệp hoặc một
lĩnh vực là "chủ thể gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất"
cũng chưa rõ ràng. Xem ICEM 2007.
103Tám nhóm ngành công nghiệp và một số tiểu ngành
luôn được xếp ở hàng trên cùng của các chỉ số ô
nhiễm. Vì vậy, có thể cải tiến đáng kể chất lượng môi
trường và giảm ô nhiễm công nghiệp bằng cách tập
trung nỗ lực kiểm soát ô nhiễm vào các tiểu ngành
và nhóm ngành công nghiệp nói trên. Tám nhóm
ngành công nghiệp bao gồm ngành hóa chất,
ngành kim loại cơ bản, chế biến thực phẩm, da và
các sản phẩm da, giấy và sản phẩm gỗ, dệt may,
gốm sứ, sản phẩm và ngành công nghiệp khoáng
sản phi kim (ICEM 2007).
104Nhiều tư liệu trên trang web của Bộ TN&MT cho biết,
trong năm tháng đầu năm 2010, nước biển đã xâm
nhập sâu vào đất liền đến 50-70 km. Khoảng 40%
diện tích sản xuất lúa trong vùng đã bị ảnh hưởng
bởi nước mặn, và một phần ba dân số nông thôn
trong vùng không có đủ nước ngọt cho sinh hoạt
hàng ngày. Ở một số tỉnh, nhiều kênh rạch đã khô
cạn vì mùa khô nóng kéo dài. Mặt khác, tình trạng
thiếu nước mặn để nuôi tôm cũng xảy ra do tỉnh
quyết định đóng đường ống cung cấp nước mặn để
cứu hơn 20.000 ha lúa trong tỉnh. Rõ ràng, cố gắng
để đáp ứng nhu cầu nước ngọt của người trồng lúa
lẫn nhu cầu nước mặn của người nuôi tôm là một
việc hết sức khó khăn.
105Như trên.
106IWMI, FAO, và ADB 2009.
107ADB 2010a.
108Ngân hàng Thế giới 2006.
109Dự án Giảm nhẹ thiên tai ở Quảng Ngãi là một ví dụ.
Dự án này xây dựng và cung cấp trang thiết bị cho
Trung tâm Quản lý và Giảm nhẹ thiên tai của tỉnh,
sau đó khởi xướng và thực hiện hiệu quả cách tiếp
cận quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng
(CBDRM). Điều này chứng tỏ việc áp dụng rất thành
công các hợp phần công trình, phi công trình và hợp
phần dựa vào cộng đồng để bổ trợ lẫn nhau. Lập mô
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H160
hình lũ đã thuyết phục chính quyền về giá trị của
một cách tiếp cận tổng hợp nhằm quản lý thiên tai,
trong khi trước đây quan tâm chính của tỉnh chỉ là
hợp phần công trình của các dự án. CBDRM cũng đã
chứng tỏ giá trị của các cộng đồng khi họ được
chuẩn bị và cung cấp nguồn lực để quản lý các rủi ro
thiên tai ở địa phương thông qua một quá trình
chuẩn bị, xây dựng các hành vi an toàn, cảnh báo
đầy đủ và được trang bị các phương tiện cứu hộ,
cùng với một số biện pháp công trình có chi phí
thấp cho địa phương. Những chương trình như vậy
cũng có thể xem xét các khía cạnh cụ thể hơn, chẳng
hạn như dạy trẻ em cách sống chung với lũ, ví dụ
như ở Đồng bằng sông Cửu Long. Các chương trình
an toàn như tổ chức các lớp học bơi và cung cấp các
dụng cụ phao nổi có thể cứu sống nhiều trẻ em.
110Hỗ trợ kỹ thuật (VIE) 4689 của ADB hỗ trợ chuẩn bị
và thí điểm thực hiện hướng dẫn áp dụng các cơ chế
chia sẻ lợi ích trong các dự án thủy điện ở Việt Nam,
Báo cáo Chính thức, tháng 12/2007.
109ADB 2010b.
ADB 2010a; Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2010
bao gồm một phần trình bày chi tiết về quản trị nhà
nước.
112Chỉ số Cạnh tranh Cấp tỉnh là hệ thống xếp hạng các
tỉnh dựa theo khả năng cạnh tranh của môi trường
kinh doanh trong tỉnh.
113Hội đồng Tài nguyên nước Quốc gia do một Phó Thủ
tướng chủ trì với sự tham gia của tất cả các bộ ngành
liên quan đến nước.
114Các chủ thể khai thác kinh doanh dịch vụ nước cần
linh hoạt hơn nữa khi kinh doanh trong một khuôn
khổ điều tiết quản lý hướng tới bảo vệ cộng đồng,
khách hàng, và môi trường. Đánh giá Ngành nước lưu
ý rằng, thông qua Nghị định 117/2007 về sản xuất,
cung cấp và tiêu dùng nước sạch, và Nghị định
88/2007 về thoát nước đô thị và khu công nghiệp,
chính phủ đã tạo ra khung pháp lý để thực hiện một
quy trình cải cách quan trọng đối với các nhà cung
cấp dịch vụ nước đô thị. Những cải cách này (theo
Ngân hàng Thế giới 2006) nhằm mục đích bảo đảm
rằng, nhà cung cấp dịch vụ được chính phủ trao
quyền tự chủ lớn hơn trong quản lý và vận hành hàng
ngày, dần dần thương mại hóa, thực hiện trách nhiệm
giải trình và chịu sự kiểm soát điều tiết thích hợp, có
yêu cầu pháp lý để giám sát hiệu quả hoạt động so
với các chỉ tiêu hiệu quả mà chính phủ đặt ra từ đầu,
thực hiện cải cách biểu phí dịch vụ để cải thiện khả
năng thu hồi vốn và bền vững tài chính, và định
hướng theo nhu cầu của khách hàng. ADB cũng
khuyến cáo một chương trình để tăng cường các
thông lệ kinh doanh và cơ sở tài chính của các công
ty cấp nước (bao gồm việc giới thiệu hệ thống các chỉ
số hiệu quả hoạt động, chuẩn so sánh, kiểm kê tài sản,
hệ thống quản lý, và sử dụng năng lượng hiệu quả).
Mục tiêu tổng thể là giúp các công ty cấp nước trở
nên hiệu quả hơn và bền vững hơn về năng lực tài
chính (ADB 2010a). Đánh giá Ngành nước cũng
khuyến cáo chính phủ xem xét thành lập một cơ quan
duy nhất chịu trách nhiệm quản lý các dịch vụ nước
và vệ sinh và tích hợp các chức năng dịch vụ nước đô
thị nhằm tận dụng lợi thế từ sự đồng bộ trong hoạt
động và quản lý hành chính để giảm chi phí.
116ADB 2009.
117Quyết định của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT số 2140/QĐ-
BNN-KL ngày 9/8/2010, trích yếu Số liệu chính thức
về đất rừng năm 2009.
118Bộ NN&PTNT 2009b.
179Quyết định của Bộ NN&PTNT số 2140/QĐ-BNN-KL.
120Lưu ý rằng chương này chủ yếu là sử dụng dữ liệu
gần đây nhất về độ che phủ rừng (Quyết định số
2140), nhưng các dữ liệu gần đây nhất về cấu trúc
lâm phần lại lấy từ Điều tra Rừng Toàn quốc năm
2005, do đó có sự thiếu nhất quán ở một vài số liệu
(ví dụ như, diện tích rừng trồng ) do thời điểm khác
nhau của các bộ số liệu.
121Nguồn số liệu: Bộ NN và PTNT, Quyết định số
2140/QĐ-BNN-KL. Tóm tắt các nhóm rừng chức
năng: Rừng đặc dụng có mục đích bảo tồn thiên
nhiên, bảo vệ các hệ sinh thái và nguồn gien động
thực vật, cũng như các địa điểm di tích lịch sử, môi
trường, và văn hóa. Rừng phòng hộ nhằm mục đích
bảo vệ rừng đầu nguồn, đất và môi trường. Rừng sản
xuất là nguồn cung cấp các sản phẩm gỗ và phi gỗ,
nhưng cũng có mục đích góp phần bảo vệ môi sinh.
122Phan Nguyên Hồng, Hoàng Thị San năm 1993; Bộ
NN & PTNT, Quyết định số 1267/QĐ-BNN-KL ngày
4/5/2009 Công bố hiện trạng quản lý tài nguyên
rừng quốc gia (đối với diện tích rừng ngập mặn
trong năm 2008).
123Các thuật ngữ “đất trống” hoặc “đồi trọc” được sử
dụng rộng rãi nhưng thực ra, đây là một trường hợp
dùng sai từ vì hầu hết những nơi này vẫn có lớp phủ
thực bì rậm và dày, bao gồm cả các thực vật thân gỗ
lẫn các loại cỏ (McElwee 2009).
124Các Chương trình trồng rừng gồm có: Chương trình
327 năm 1992, Chương trình 556 năm 1996, và
Chương trình 661 năm 1998.
125Bộ NN&PTNT, Quyết định số 2140/QĐ-BNN-KL.
126Bộ TN&MT 2009.
127Chính phủ Việt Nam 2001.
128Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 18/2007/QD-
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H 161
TTg ngày 5/2/2007, về Phê duyệt Chiến lược phát
triển lâm nghiệp Việt Nam 2006-2020. Các chương
trình "phát triển" trong Chiến lược gồm có: I. Chương
trình Quản lý và Phát triển Rừng bền vững; II.
Chương trình Bảo vệ Rừng, Bảo tồn Đa dạng Sinh
học và Phát triển các Dịch vụ Môi trường; III. Chương
trình Chế biến và Thương mại lâm sản. Các chương
trình "hỗ trợ" trong Chiến lược gồm có: IV. Chương
trình Nghiên cứu, Giáo dục, Đào tạo, và Khuyến lâm;
V. Chương trình Đổi mới Thể chế, Chính sách, Quy
hoạch và Giám sát ngành Lâm nghiệp
129Ngân hàng Thế giới 2009.
130Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 661 / QĐ-TTg
ngày 29/7/1998, về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách
và tổ chức thực hiện chương trình trồng mới 5 triệu
ha rừng
131Các chỉ tiêu chính gồm có: trồng 5 triệu ha rừng (3
triệu ha rừng phòng hộ và 2 triệu ha rừng sản xuất)
thông qua một loạt các cơ chế khuyến khích bằng
tiền mặt (với rừng phòng hộ) và cho vay ưu đãi (với
rừng sản xuất).
132Van der Poel 2007.
133Ngân hàng Thế giới 2010b.
134Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 100/QD-TTg
ngày 06/7/2007, về sửa đổi và bổ sung một số điều
của Quyết định 661/QĐ-TTg (chương trình 5 triệu ha
rừng); những sửa đổi chính bao gồm: sửa đổi các chỉ
tiêu, phân loại lại rừng để giảm diện tích rừng phòng
hộ, tăng diện tích rừng sản xuất, và hoàn thiện các
quy định giao đất giao rừng và cho thuê rừng.
135Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 147/2007/QD-
TTg ngày 2007/10/09, về Chính sách phát triển rừng
sản xuất giai đoạn 2007-2015.
136Ví dụ như, các chính sách lâm nghiệp hiện nay vẫn còn
khá tập trung, và các quy định thường quá phức tạp và
quá chi tiết đến mức gây trở ngại cho việc áp dụng ở
địa phương (Wode và Bảo Huy 2009); các cấp dưới vẫn
phải giải trình lên trên, gây cản trở cho sự đổi mới và
hiệu quả - những lợi ích mà quá trình phân cấp đem lại,
năng lực quản lý hành chính và cung cấp dịch vụ cho
ngành lâm nghiệp ở cấp huyện và cấp xã còn hạn chế;
nhà nước vẫn giữ quyền kiểm soát trực tiếp hầu hết
diện tích rừng, tiếp tục quản lý hầu hết các khu rừng
đặc dụng (85%) và rừng phòng hộ (70%) (Nguyễn Bá
Ngãi, 2007); và nhiều khía cạnh kiểm soát tập trung vẫn
tiếp tục tồn tại, ví dụ như trong các hình thức hạn ngạch
khai thác và lựa chọn sử dụng đất – các quyết định về
sử dụng đất của hộ sản xuất hầu hết được dẫn dắt bởi
các biện pháp ra lệnh và kiểm soát, thay vì biện pháp
khuyến khích kinh tế (Wunder và cộng sự, 2005).
137Theo Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự (2009), giữa các bộ
ngành chưa có sự phối hợp đầy đủ để thiết lập một
hệ thống thu thập dữ liệu tích hợp, chưa thu thập
dữ liệu chuỗi thời gian một cách nhất quán, và một
số trường hợp hoàn toàn không có dữ liệu. Ngoài ra,
theo Muller và cộng sự (2006), mức độ chính xác của
các số liệu rừng thay đổi từ 65-95%, tuỳ thuộc vào
các yếu tố như phương pháp thu thập tổng hợp dữ
liệu, tính phức tạp của địa hình, và tính đồng nhất
của rừng.
138Ngân hàng Thế giới 2009.
139Ngoại suy dựa trên giá trị gỗ và các dịch vụ môi
trường rừng, tính trên mỗi ha cho các loại rừng khác
nhau, lấy từ báo cáo của ADB (2009), đồng thời dựa
trên diện tích rừng theo FIPI năm 2005
( Giá
trị của các dịch vụ môi trường là 29.731 triệu USD,
gồm có bảo vệ đất 1.822 triệu USD, điều tiết nước
3.545 triệu USD, hấp thu các-bon 24.364 triệu USD;
và giá trị gỗ là 10.757 triệu USD.
140Ngân hàng Phát triển Châu Á 2009.
141Ngân hàng Thế giới 2009.
142Tại Việt Nam, mức tăng trưởng bình quân hàng năm
của các loài sinh trưởng nhanh trong các điều kiện
phù hợp có thể vào khoảng 26 m3/ha (Ngân hàng
Phát triển Châu Á 2001; Fraser 2003; Katila 2007).
143Người dân địa phương thiếu vốn, thiếu kinh
nghiệm sản xuất, thiếu kỹ thuật và thông tin về thị
trường, do đó khó có thể sản xuất hiệu quả trên đất
được giao (Đại học Lâm nghiệp Việt Nam 2005);
Swan 2010.
144Ví dụ: Tái trồng rừng đa dạng sinh học của CO2OL
( .de/CO2OL-Biodivers ity.
195.0.html?&L=1).
145GoV 2010a.
146Trong năm 2007 Việt Nam đứng thứ 10 trong danh
sách các nước xuất khẩu sản phẩm gỗ chế biến thứ
cấp, tính theo giá trị (ITTO 2009); năm 2010 Việt Nam
có thể vượt lên vị trí thứ 6.
147Vietnam News 2009.
148Điều này thống nhất với kết quả tìm hiểu của Bộ
NN&PTNT (2009c) từ một số doanh nghiệp có hiệu
quả tài chính thấp.
149Ogle và Donnelly 2004.
150Karsentry 2006.
151Ngân hàng Thế giới 2009.
152Bộ NN&PTNT 2009c. Trong những năm gần đây, Ma-
lai-xia là nước cung cấp lớn nhất các sản phẩm gỗ,
tiếp theo là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H162
và Thái Lan.
153Theo Nguyễn Bá Ngãi (2007), các khu vực thích hợp
cho trồng rừng – gần các thị trường tiêu thụ - là
những địa điểm đã được giao đất hoặc chưa được
giao đất nhưng bao gồm các khoảnh đất nghèo
nằm rải rác ở nhiều nơi. Những khu vực lớn và tập
trung thường nằm ở vùng sâu vùng xa và vùng núi,
nơi điều kiện giao thông khó khăn và xa thị trường
tiêu thụ.
154FAO 2009.
155Vietnam News 2009.
156FSC 2010.
157Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm của FSC xác
nhận rằng, các sản phẩm từ các rừng được chứng
nhận là đáp ứng tiêu chuẩn quản lý rừng có trách
nhiệm của FSC không bị trộn lẫn với các sản phẩm
từ các rừng không có chứng nhận vào bất kỳ thời
điểm nào trong chuỗi cung ứng.
158EIA và Telapak 2008; Các xu hướng rừng 2009; Ngân
hàng Thế giới 2010.
159Xem báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2010) để biết
chi tiết về những hành vi sai trái khiến cho việc buôn
lậu gỗ tiếp tục phát triển mạnh.
160Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự 2009.
161Sunderlin và cộng sự (2008) cho thấy hơn 70% các
huyện có độ che phủ rừng cao cũng là các huyện có
tỷ lệ nghèo cao.
162Trần Kim Long 2008; Sunderlin và Huỳnh Thu Ba
2005; Nguyễn Quang Tân và cộng sự 2008.
163Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam 2005; Swinkels
và Turk 2006.
164Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991 quy định sự
tham gia của các chủ thể khác nhau trong công tác
quản lý rừng, Luật Đất đai năm 1993 công nhận các
quyền cho thuê, trao đổi, thừa kế, thế chấp, và
chuyển giao các quyền sử dụng đất; Luật Đất đai sửa
đổi năm 2003 công nhận vị thế pháp lý trong quyền
sử dụng đất của các cộng đồng; và Luật Bảo vệ Phát
triển Rừng sửa đổi năm 2004 công nhận vị thế pháp
lý trong quyền sử dụng rừng của các cộng đồng.
165Nguyễn Quang Tân và cộng sự 2008.
166Katila 2008.
167Những thiếu sót này đã được ghi nhận rõ ràng trong
các tư liệu: quy hoạch sử dụng đất rừng chậm chạp
và kém chất lượng (Bộ NN&PTNT 2009b); thiếu công
bằng trong giao đất giao rừng – dân nhập cư người
Kinh và các nhóm dân tộc thiểu số khá giả hơn sống
ở các huyện lỵ và trung tâm xã có điều kiện thuận
lợi hơn để hưởng lợi từ các chương trình giao đất
giao rừng, trái với các cộng đồng dân tộc thiểu số
nghèo sinh sống ở các vùng sâu vùng xa
(Humphreys và Vũ Thị Hiền năm 2008); nhóm có
quyền lực nắm giữ nguồn lực trong tay – chẳng hạn
như tình trạng giao quá nhiều đất cho các tổ chức
đoàn thể, nhân viên các lâm trường quốc doanh và
những cá thể khá giả (Sunderlin và Huỳnh Thu Ba
năm 2005; Nguyễn Quang Tân và cộng sự năm 2008;
Ngân hàng Thế giới 2009); các quyết định giao đất
giao rừng thiếu tính dân chủ và minh bạch (Bộ
NN&PTNT 2009a); thiếu sự hợp tác giữa cơ quan
quản lý lâm nghiệp và cơ quan quản lý địa chính (Bộ
NN&PTNT 2009b); những khiếm khuyết trong các
thỏa thuận chia sẻ lợi ích, hỗ trợ đầu tư và hỗ trợ kỹ
thuật (Bộ NN&PTNT 2009b); các quyền không rõ
ràng và nhận thức mơ hồ của người nhận về các cơ
hội (Đại học Lâm nghiệp Việt Nam năm 2005;
Nguyễn Quang Tân và cộng sự năm 2008; Bộ
NN&PTNT 2009b).
168Swinkels và Turk 2006.
169Humphreys và Vũ Thị Hiền (2008) đề cập đến các
dân tộc thiểu số ở vùng trung du Bắc Bộ thiếu "vốn
chính trị" – nghĩa là khả năng sử dụng hiệu quả
"tiếng nói" của mình để gây ảnh hưởng đến các
quyết định trong lĩnh vực chính trị và xã hội và, liên
quan đến điều này là tình trạng thiếu các thể chế địa
phương mà thông qua đó, tiếng nói của các nhóm
dân tộc thiểu số có thể được lắng nghe và họ có thể
được chia sẻ thông tin.
170Vũ Thị Hiền, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển
Vùng cao (thông tin riêng, tháng 8/2010): Trong một
hội thảo tham vấn gần đây về REDD+, các đại diện
của chính quyền và người dân địa phương từ 10 tỉnh
miền bắc đều cho rằng người dân địa phương ít có
điều kiện tiếp cận với các chính sách, và việc phổ
biến chính sách về rừng và đất rừng cho dân địa
phương còn nhiều hạn chế (luật và chính sách chỉ
được phổ biến đến cấp xã, và chỉ rất ít thông tin đến
được các hộ gia đình, thậm chí một số cán bộ xã
không biết hết về các chính sách và quy định của
pháp luật).
171Dữ liệu năm 2009 cho thấy, trong tổng số 13 triệu
ha rừng, khoảng một phần ba đang được sử dụng
và quản lý bởi các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh (kinh tế hộ gia đình chiếm khoảng 3 triệu ha,
các cộng đồng địa phương 0,2 triệu ha; các lực lượng
vũ trang 0,2 triệu ha; và các công ty liên doanh và
các chủ thể khác 0,8 triệu ha), và hai phần ba đang
được sử dụng bởi các chủ thể nhà nước (doanh
nghiệp nhà nước 2 triệu ha; các ban quản lý rừng
phòng hộ 2,3 triệu ha; các ban quản lý rừng đặc
dụng - gần 2 triệu ha; và ủy ban nhân dân các cấp
2,4 triệu ha). Nguồn: thông báo của Bộ NN&PTNT về
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H 163
hiện trạng rừng trong năm 2009, tính đến ngày
31/12/2009, theo Tiến sĩ Ngãi, thư trao đổi riêng,
ngày 6/9/2010.
172Theo số liệu của Bộ NN&PTNT (2009c), diện tích rừng
đã giao cho cộng đồng đến cuối năm 2007 là
181.226 ha, phần lớn là rừng nghèo và rừng non.
173Sau đây là giải thích đầy đủ về REDD+: Giảm phát
thải từ mất rừng và suy thoái rừng ở các nước đang
phát triển; và vai trò của bảo tồn, quản lý rừng bền
vững và tăng dự trữ các-bon rừng ở các nước đang
phát triển” (REDD+).
174Cụ thể là chương trình UN-REDD, dựa trên kinh
nghiệm tích lũy từ các dự án do GTZ tài trợ ở các tỉnh
Đắc Lắc, Đắc Nông và Sơn La.
175Ngân hàng Thế giới 2010.
176Lấy hình thức doanh nghiệp hoặc công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên (trong đó nhà nước
là thành viên/chủ sở hữu duy nhất) hoặc công ty cổ
phần trong đó người lao động và những người khác
(và cả nhà nước) có thể nắm giữ cổ phần.
177Ngân hàng Thế giới 2009.
178WCMC 1992. Việt Nam có toàn bộ hoặc vài vùng
trong số 5 vùng chim đặc hữu theo xác định của tổ
chức BirdLife quốc tế, ngoài ra toàn bộ lãnh thổ Việt
Nam là một phần của Điểm nóng Đa dạng sinh học
Ấn – Miến, mà mức độ phong phú và đa dạng sinh
học đã được mô tả đầy đủ trong CEPF (2007). Đây là
hai chỉ số quan trọng và có tính biểu thị mức độ
phong phú đa dạng sinh học.
179Các khám phá khoa học mới gồm có 222 loài thực
vật được phát hiện trong thời kỳ từ năm 1992 đến
2002, và bốn loài động vật có vú lớn được phát hiện
từ năm 1992 đến 2005 (Ngân hàng Thế giới 2005).
180Nguyễn Hoàng Nghĩa 2004.
181Xem chi tiết ở báo cáo của Ngân hàng Thế giới
2010a.
182Đặng Huy Huỳnh 2005.
183Trong các phân nhóm Nguy cấp, Sắp nguy cấp, Quý
hiếm, và Bị đe dọa, theo Sách đỏ Việt Nam (Bộ
KHCN&MT 1996; Bộ TN&MT 2007).
184Trong các phân nhóm Cực kỳ nguy cấp, Nguy cấp,
và Sắp nguy cấp, theo danh sách các loài bị đe dọa
của IUCN (www.redlist.org).
185Bộ TN&MT 2009.
186Bao gồm 30 vườn quốc gia, 48 khu bảo tồn thiên
nhiên, 12 khu vực và sinh cảnh loài được bảo vệ, và
38 khu vực cảnh quan được bảo vệ, với tổng diện
tích 2,06 triệu ha, chiếm 6,25% diện tích đất tự nhiên
của toàn quốc.
187Jonathan Eames, tổ chức BirdLife Quốc tế, thông tin
riêng, tháng 7/2010.
188ICEM 2003a.
189Một đánh giá về kinh nghiệm quốc gia với các khu
bảo tồn và sự phát triển ở Việt Nam (ICEM 2003b)
cho thấy, dù đã đạt nhiều thành tựu nhưng hầu hết
các khu bảo tồn vẫn chỉ là “trên giấy”, và rất ít nỗ lực
quản lý bảo tồn được thực hiện trên thực tế. Xem
thêm Polet và cộng sự (2006) viết về cải cách các khu
bảo tồn.
190Emerton và cộng sự (2006) đề cập đến những vấn
đề như chậm trễ kéo dài và thường xuyên điều chỉnh
các thủ tục dự toán ngân sách trong khu vực công,
ngân sách chi thường xuyên hầu như không có
thêm khoản mục nào khác ngoài lương, và chi cơ
bản chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng lớn, với rất
ít vốn cấp cho các hoạt động bảo tồn.
191Ví dụ như các trạm kiểm lâm do tỉnh chứ không phải
Rừng đặc dụng quản lý.
192Giữa các Rừng đặc dụng, Chi cục Kiểm lâm, công an,
cảnh sát môi trường, quân đội biên phòng, hải quan,
và các tổ chức liên quan khác.
193Wunder và cộng sự (2005) cho rằng các khoản chi
trả trong hợp đồng giao khoán bảo vệ rừng của nhà
nước với các hộ gia đình thông thường chiếm 1-2%
tổng thu nhập hộ gia đình (tất nhiên có một vài
ngoại lệ). Thông thường, kể cả khi người sở hữu đất
có các quyền đối với tài sản và có nhiều khả năng
lựa chọn mục đích sử dụng đất, thì khoản tiền được
trả cũng không đủ để “bồi thường” đầy đủ các chi
phí cơ hội cho các mục đích sử dụng thay thế khác
đã bị bỏ qua.
194Bộ TN&MT 2009; McNally 2010.
195FoE 2001.
196Các ví dụ được đưa ra bởi McNally (2010) gồm có:
Phát triển thủy điện: ADB (2009) đã thực hiện một
Đánh giá Môi trường Chiến lược cho Quy hoạch
tổng thể thuỷ điện trong bối cảnh của Quy hoạch
Phát triển ngành Điện VI (Tổng sơ đồ phát triển điện
VI). Đánh giá này xem xét các tác động có thể xảy ra
từ 21 đập lớn (với công suất trên 4.610 MW) đang
được lập kế hoạch xây dựng. Theo ước tính, diện tích
mất đất sẽ vào khoảng 21.133 ha (gồm 4.227 ha
rừng tự nhiên và 1.367 ha rừng trồng). Tổng giá trị tài
nguyên của diện tích rừng bị mất (bao gồm cả các
chức năng dịch vụ môi trường) ước tính khoảng 72,4
triệu USD. Nông nghiệp theo hình thức quảng canh:
các chính sách và kế hoạch phát triển nông nghiệp
theo hình thức quảng canh (cụ thể là trồng cao su)
trong hiện tại và tương lai đều hướng tới việc trồng
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H164
cao su theo hình thức quảng canh ở quy mô lớn và
giảm diện tích trồng điều, như đã nhấn mạnh trong
bản dự thảo đầu tiên của Kế hoạch 5 năm 2011 -
2015 của Bộ NN&PTNT, và theo Quyết định số
750/2009/QĐ-TTg ngày 03/6/2009 của Thủ tướng
Chính phủ (về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển
cây cao su đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020),
trong đó xác định phát triển 100.000 ha rừng trồng
cao su mới tại các vùng đất bỏ hoang và rừng tự
nhiên nghèo ở Tây Nguyên.
197Ví dụ, kiểm soát để hạn chế nhập khẩu gỗ lậu tại Hoa
Kỳ (Đạo luật Lacey) và Liên minh châu Âu (Kế hoạch
hành động FLEGT và Quy định Soát xét toàn diện
nguồn gốc gỗ).
198Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mức khuyến khích
cần thiết để người nông dân bảo vệ và phát triển
rừng có thể khác nhau, tùy thuộc vào các phương
án lựa chọn, hoàn cảnh, và tính chất của cơ chế
khuyến khích. Một nghiên cứu của Bùi Dũng Thể và
Hồng Bích Ngọc (2006) đã phát hiện thấy, ở những
nơi thiếu việc làm và và nơi có nhiều việc làm theo
thời vụ, những nông dân nghèo và ít có khả năng
lựa chọn các phương án kiếm tiền từ mảnh đất của
họ sẽ sẵn sàng tham gia hệ thống thí điểm chi trả
cho các dịch vụ môi trường (PES). Trong đó, trung
bình các hộ gia đình nhận được khoảng 230.000
đồng (15 USD)/1,5 ha/năm. Thí điểm PFES gần đây
cũng có những kết quả tương tự, trong đó khoản chi
trả 270.000 đồng (15 USD)/ha/năm, so với 100.000
đồng (5 USD) trong chương trình 661, đã giúp tăng
cường hoạt động tuần tra rừng và giảm một nửa số
vụ vi phạm được báo cáo (chương trình REDD của
LHQ năm 2010; Peters và cộng sự 2009.). Tuy nhiên,
Tô Xuân Phúc thuộc tổ chức Forest Trends cho rằng,
một người nông dân có thể kiếm được 400 USD/ha
trồng ngô mỗi năm; trong khi đó, khoản tiền nhận
được từ PES chỉ khoảng 20 USD, và do đó không đủ
để ngăn chặn nạn phá rừng (Tô Xuân Phúc, Forest
Trends, 2010:
com/pages/dynamic/article.page.php?page_id=76
05§ion=news_articles&eod=1). Trái lại, Wunder
và cộng sự (2005) thấy rằng, mức chi trả cao hơn cho
hoạt động tái trồng rừng và chăm sóc rừng mới
trồng (lên đến 2,5 triệu đồng/ha, tương đương 160
USD) dường như đem lại hiệu quả cao hơn, vì tạo ra
sự khác biệt thực sự trong sinh kế của hộ gia đình và
được kết hợp với hỗ trợ kỹ thuật.
199Tim Boyle, UNDP, thông tin riêng, tháng 8/2010.
200VINAFOR cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho
các hộ gia đình, đồng thời hướng dẫn kỹ thuật trồng
rừng; hợp đồng xác định giá (phù hợp với giá thị
trường tại thời điểm bán) và khối lượng sẽ bán cho
VINAFOR, số còn thừa nông dân có thể tự do sử
dụng hoặc đem bán.
201Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn có cơ cấu đồng
sở hữu gồm chính phủ Việt Nam (37,5%), nhân viên
công ty (32,4%), và các hộ dân cung ứng nguyên liệu
(22,5%), phần còn lại không rõ.
202Phân tích của Katila (2007) về các kịch bản cung -
cầu cho ngành lâm nghiệp Việt Nam đã bác bỏ kịch
bản "tự cung tự cấp" vì kịch bản này không khả thi
theo quan điểm đầu tư (vì sẽ không có đủ vốn để
mở rộng trồng rừng và toàn ngành); vì sẽ không có
đủ đất tốt để mở rộng trồng rừng; và bởi vì kịch bản
đó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế quốc dân và
sẽ không phải là một lựa chọn bền vững có tính kinh
tế trong dài hạn, vì như vậy Việt Nam sẽ sản xuất
nhiều sản phẩm trên quy mô lớn mà không được
hưởng lợi thế so sánh.
203Việc tách chức năng của khu vực công khỏi khu vực
tư nhân và chuyển đổi các lâm trường quốc doanh
còn lại trở thành các doanh nghiệp tự chủ, có thể
tồn tại trên phương diện thương mại dựa trên quản
lý rừng bền vững.
204Bộ NN&PTNT 2009c.
205Chương này chủ yếu tập trung vào tài nguyên biển,
do ngành đánh bắt đóng vai trò là động lực lớn nhất
để tạo ra sự thay đổi trong các hệ sinh thái biển và
các nền kinh tế dựa vào biển. Nuôi trồng thủy sản
được đề cập nhiều hơn trong chương tài nguyên
nước, vì đó cũng là một vấn đề chung trong quản lý
vùng ven biển.
206Danh mục này gồm có các rạn san hô, các lớp cỏ
biển, rừng ngập mặn, các đầm lầy sâu trong đất liền,
cửa sông, phá ven biển, cồn cát, và bãi biển.
207Mức tiêu thụ cá trên đầu người ở Việt Nam đã tăng
2 kg sau hai đợt Khảo sát Mức sống Hộ gia đình Việt
Nam do Tổng cục Thống kê tiến hành trong giai
đoạn 2006-2008.
208Tổng cục Thống kê 2009.
209Xem báo cáo của Bộ Thủy sản và Ngân hàng Thế giới
năm 2005, trang 3; Nguyễn Thị Diệu Thúy và
Symington 2008, trang 2; Pomeroy và cộng sự 2009,
trang 1.
210Đây là số liệu từ năm 2008 khi tất cả các chủ tàu có
đăng ký đều được trợ giá nhiên liệu do giá dầu tăng,
làm tăng tỷ lệ tàu có đăng ký. Con số chính thức là
130.000 tàu đủ điều kiện để được trợ giá nhiên liệu.
Tuy nhiên, nhiều tàu được cho là chưa đăng ký và
vẫn nằm "ngoài sổ sách", tuy vẫn duy trì hoạt động
(trong đó khoảng 30.000, hoặc hơn, là kiểu thuyền
thúng không trang bị động cơ thường được sử dụng
để đánh bắt thủ công).
211Pomeroy và cộng sự 2009, trang 2.
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H 165
212Các công cụ chính gồm có Quyết định 358-TTg ngày
29/5/1997 về ưu đãi thuế trong khai thác hải sản xa
bờ, Quyết định số 393-TTg ngày 09/7/1997 quy định
về kiểm soát và sử dụng vốn đầu tư, và Quyết định
số 251/1998/QĐ-TTg ngày 25/12/1998 phê duyệt
chương trình xuất khẩu hải sản đến năm 2005.
Những chính sách này thường được hỗ trợ vay vốn
ưu đãi để các ngư dân đánh bắt xa bờ nâng cấp
công suất tàu và lắp đặt các thiết bị hiện đại và ngư
cụ đánh bắt hiệu quả. Các doanh nghiệp tư nhân
(bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài) khai thác đánh bắt ngoài khơi được giảm
thuế trong ba năm đầu.
213Xem VIFEP và WWF Việt Nam 2009.
214Không có hạn ngạch khai thác hoặc mùa cấm khai
thác. Theo hệ thống tiếp cận nguồn lợi mở của Việt
Nam, tàu cá của các tỉnh khác được phép đánh bắt
ở bất kỳ nơi nào trong lãnh hải quốc gia, với điều
kiện chiều sâu hơn 30 m (định nghĩa vùng “xa bờ”).
Các vùng sâu dưới 30 m thường được coi là vùng ưu
tiên cho các tàu cá đánh bắt gần bờ của địa phương.
Tuy nhiên, sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các tỉnh lân
cận, thậm chí của các cộng đồng địa phương, kết
hợp với các tàu cá bất hợp pháp và sự yếu kém trong
thực thi quy chế, cũng có nghĩa là các tàu thường
xuyên được tìm thấy đang hoạt động bên ngoài khu
vực giới hạn cho họ.
215Theo Hassan và cộng sự (2001) và Đặng Văn Thi và
cộng sự (2002), điều tra đánh bắt cá đáy bằng lưới
kéo đã đưa ra ước tính khoảng 1,1 tấn sinh khối/km
vuông (so với 2,8 tấn vào giữa những năm 1990), và
cho thấy sự thay đổi đáng kể trong thành phần sản
lượng đánh bắt, cộng với số lượng khá ít các loài cá
lớn sống lâu mà trước đây thường rất nhiều. Theo
Nguyễn Chu Hồi (2003) và Nguyễn Thị Diệu Thúy và
Symington (2008), mật độ trung bình của cá đã giảm
đi rất nhiều, và một số loài có giá trị kinh tế cao, như
các xác-đin, tôm hùm, bào ngư, sò điệp, và mực, đã
giảm đáng kể sự phong phú về số lượng.
216Theo số liệu năm 2008 của Bộ LĐTBXH, tỷ lệ nghèo
ở các tỉnh ven biển gần như tương đương với các
tỉnh khác, nhưng con số bình quân lại che giấu
những khác biệt giữa các tỉnh. Các tỉnh như Thanh
Hóa và Nghệ An có tỷ lệ nghèo và số người nghèo
tuyệt đối cao, được bù lại bởi các tỉnh giàu hơn như
Khánh Hòa, Long An. Ngoài ra, một số tỉnh ven biển
có tỷ lệ nghèo rất cao. Vấn đề là có thể tồn tại sự
khác biệt lớn trong tỷ lệ nghèo giữa các tỉnh ven
biển, hoặc thậm chí trong các huyện/các xã. Xem
thêm Nguyễn Thị Diệu Thúy và Symington (2008)
217Tại thời điểm ghi chép không có các số liệu chi tiết
và đáng tin cậy về khả năng sinh lợi nhuận. Căn cứ
vào các báo cáo đã được công bố, bao gồm cả các
tham chiếu trong chương này, có thể thấy những chỉ
báo mạnh mẽ nói lên rằng nguồn lợi thủy sản bị lạm
dụng quá mức và khả năng sinh lợi đang giảm, nhất
là với đánh bắt ven bờ. Các số liệu mang tính chỉ báo
khác – ví dụ như, số lượng lớn tàu cá ở lại trên bờ khi
giá nhiên liệu tăng đột biến (cho đến khi chính phủ
bắt đầu trợ giá) – cho thấy lợi nhuận từ hoạt động
đánh bắt rất thấp. Điều này làm cho các hệ thống đa
dạng hóa việc làm trở nên hấp dẫn hơn, đặc biệt là
so với nghề cá quy mô nhỏ, và củng cố yêu cầu đầu
tư và quan tâm để có thông tin chính xác.
218Quyết định số 10/2006/QĐ-TTg 2006
219Xem Morgan và cộng sự 2007.
220Ngày 29/9/2008, Hội đồng Liên minh châu Âu đã
thông qua Quy chế EC số 1005/2008 thiết lập một
”hệ thống cộng đồng nhằm ngăn ngừa, ngăn chặn
và loại bỏ đánh bắt bất hợp pháp, không được báo
cáo và không được kiểm soát (IUU)". Quy chế này có
hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Theo Quy chế IUU, việc
nhập khẩu các sản phẩm thủy sản vào Cộng đồng
châu Âu sẽ chỉ được phép khi hàng nhập khẩu có
kèm theo giấy chứng nhận đánh bắt do thuyền
trưởng của tàu cá điền thông tin và được nước mang
cờ tàu xác nhận.
221Quy định mới đã có tác động tiêu cực ngay lập tức
đến nghề cá ở Việt Nam. Doanh số bán cá ngừ giảm
20% vào đầu năm 2010 do các lô hàng bị hoãn lại và
mất nhiều hợp đồng xuất khẩu sang Liên minh châu
Âu. Tuy nhiên, quy chế IUU mới đã đem lại một cơ
hội để Việt Nam đẩy nhanh tiến độ đáp ứng các tiêu
chuẩn quốc tế về ghi chép hoạt động đánh bắt và
giải quyết vấn đề đánh bắt bất hợp pháp, không báo
cáo và không được kiểm soát; và quy chế này cũng
góp phần thúc đẩy chính phủ quyết định gia nhập
Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương, từ vị
trí ban đầu chỉ là một quốc gia hợp tác không phải
là thành viên (xem
201001/Seafood-prices-drop-under-IUU-effects-
889404).
222Các chỉ tiêu khai thác được xác định trong các quy
hoạch phát triển của tỉnh, thường là những văn kiện
nhấn mạnh các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Thâm
chí nếu có số liệu tốt hơn, thì các ước tính về sản
lượng kinh tế và bền vững tối đa có thể chỉ có ý
nghĩa rất nhỏ đến mức khai thác và kiểm soát đánh
bắt, trừ phi có các thoả thuận ở cấp cao hơn và các
quy định được thực hiện ở địa phương.
223Xem Tietenberg 2008.
224Nguyễn Thị Diệu Thúy và Symington (2008) báo cáo
về một số đặc tính dễ bị tổn thương trong cộng
đồng ngư dân Việt Nam, ví dụ như sự phụ thuộc vào
nguồn tài nguyên đang cạn kiệt, thiếu vốn và/hoặc
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H166
tín dụng để đầu tư vào các ngư cụ mới hoặc nghề
nghiệp mới, tăng khoảng cách giữa các hộ ngư dân
nghèo và giàu, độ ổn định thu nhập thấp, giảm sức
cạnh tranh của ngư dân địa phương do những
người từ "bên ngoài" có ngư cụ tốt hơn, thiếu điều
kiện tiếp cận thị trường và/hoặc các công nghệ mới,
và các chỉ số kinh tế xã hội thấp hơn các chỉ tiêu
hoặc chỉ số bình quân quốc gia (đặc biệt là thu nhập
bình quân của hộ gia đình, tỷ lệ nghèo, học vấn).
225Hệ thống trung gian tại Việt Nam, mặc dù chịu nhiều
lời chỉ trích, nhưng đã cung cấp một dịch vụ thiết
yếu, mà nếu thiếu sự hỗ trợ tài chính của những
người buôn bán trung gian này thì nghề cá quy mô
nhỏ khó có thể hoạt động được. Những khía cạnh
tiêu cực của hệ thống này (ví dụ như, hạn chế khả
năng tiếp cận thị trường trực tiếp của cá nhân các
ngư dân và/hoặc gây trở ngại cho việc điều chỉnh
các hoạt động của họ theo điều kiện thị trường) sẽ
chỉ được cải thiện nếu ngư dân tự tổ chức thành các
nhóm sản xuất và tham gia nhiều hơn vào các chuỗi
giá trị và thị trường.
226Xem Nguyễn Thị Diệu Thúy và Symington 2008.
227Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/72003.
228Theo Nasuchon (2009), dân số ven biển ở Việt Nam
dự kiến sẽ tăng lên trên 30 triệu người vào năm 2020
(so với khoảng 20 triệu người trong năm 2000). Mật
độ dân số ven biển vào khoảng 255 người/km2 vào
năm 2005 (so với mật độ dân số chung của cả nước
là 246 người/km2). Creel (2003) ước tính rằng mỗi
ngày có khoảng 1.000 người nhập cư đến các thành
phố ven biển của Việt Nam.
229Du lịch ven biển ở Việt Nam đang phát triển nhanh
(xem
trang/VN_SoE/overview/environmental_managem
ent_and_legislation.htm).
230Xem Burke và cộng sự 2003.
231Xem trình bày chi tiết hơn về rừng ngập mặn trong
chương quản lý rừng của Báo cáo Phát triển Việt
Nam.
232Xem Pollnaca và cộng sự 2005.
233Phạm vi thực tế của các phương án thay thế có thể
thay đổi nhiều dọc theo đường bờ biển, tùy theo sự
phát triển song song của du lịch, sản xuất, nuôi
trồng thủy sản, và hải sản, v.v.
234Để nuôi các loài dinh dưỡng thấp, nhu cầu cho ăn bột
cá thường tương đối thấp (do đó không dẫn đến việc
đánh bắt quá nhiều các loại cá tạp, và cũng không
góp phần tạo tổn thất ròng tổng thể về chất đạm hải
sản, vốn là đặc điểm điển hình của việc nuôi các loài
dinh dưỡng cao), ngoài ra các loại đầu vào là chất hóa
học cũng ít hơn so với các loài dinh dưỡng cao.
235Theo dự án "Quản lý tổng hợp hoạt động ở các đầm,
phá" do chính phủ Ý tài trợ, và Tổ chức Nông nghiệp
Lương thực LHQ thực hiện kỹ thuật.
236Xem ở
EN /WCD / 5 .%20S t e v en%20Swan%20Co -
management%20VN%20experiences%20EN.pdf.
237Xem Pomeroy và Guieb 2008.
238Dưới sự hỗ trợ của Hợp tác Kỹ thuật Đức.
239Xem Schmitt 2009.
240Xem ở
vol15_1May09/clams-and-cockles.htm.
241Xem ở
p a c i fi c / v i e t n am - b e n - t r e - c l a m - h a n d -
gathered/assessment-downloads-1/12.10.2009-
Ben-Tre-Clam-Fishery-Final-Report.pdf.
242Ví dụ như, lưỡi câu vòng và dụng cụ gỡ câu cho rùa
biển khi đánh bắt bằng tàu giăng dây câu dài và sử
dụng các dụng cụ nhằm giảm sản lượng khai thác
phụ khi đánh bắt bằng lưới kéo.
243Sumaila và Pauly 2006; VIFEP và WWF Việt Nam
2009.
244Xem VIFEP và WWF năm 2009. Các nghiên cứu cho
thấy, trong nhiều trường hợp, trợ cấp cho nghề cá ở
Việt Nam bị ảnh hưởng chất lượng cả trực tiếp và
gián tiếp do đánh bắt quá mức. Được thúc đẩy bởi
các cải cách kinh tế trong chương trình "Đổi Mới" với
mục tiêu tìm cách mở rộng tiếp cận thị trường thế
giới, các trợ giá nhiên liệu và trợ cấp để nâng cấp tàu
là những nguyên nhân cụ thể dẫn đến tình trạng
thừa năng lực đánh bắt. Các trợ cấp dành cho nghề
cá Việt Nam đã lên đến tổng cộng 316.633.000 USD
vào năm 2006, trong đó chỉ có 48.537.000 USD được
phân loại là trợ cấp "tốt". Trợ cấp "tốt" đi kèm với các
chương trình tạo ra sự đầu tư ở mức tối ưu xã hội
cho các tài sản vốn tự nhiên, nghĩa là tối đa hóa tiền
tô kinh tế. Trái lại, các trợ cấp "xấu" bao gồm tất cả
các hình thức đầu vào về vốn và đầu tư cơ sở hạ tầng
từ các nguồn công cộng để giảm chi phí hoặc tăng
cường doanh thu. (Cần lưu ý rằng, Việt Nam cũng
duy trì trợ cấp cho hoạt động đánh bắt như một
phương tiện để duy trì sự hiện diện của quốc gia ở
các vùng biển và góp phần đảm bảo an ninh biên
giới).
245Xem ở
ment/4648-460-bln-vnd-earmarked-for-marine-
reserves.
246 Bao gồm cả khả năng hỗ trợ của các bên liên quan
ở địa phương và tính khả thi của mô hình đồng quản
lý, chưa kể đến tiềm năng cung cấp các lợi ích tích
cực từ Khu Bảo tồn Biển cho đa dạng sinh học.
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H 167
247Tài liệu hướng dẫn Khu bảo tồn biển của NOAA-
WWF-IUCN với tiêu đề “Khu bảo tồn biển (MPA) của
bạn hoạt động như thế nào?”
( đã
được dịch ra tiếng Việt và được áp dụng ở một số
MPA, mặc dù chưa trở thành hệ thống trong toàn bộ
mạng lưới MPA.
248 “San hô có khả năng phục hồi nhanh” đề cập đến
các rạn san hô có khả năng phục hồi nhanh chóng
sau khi bị tác động bởi một sự kiện tác động mạnh
và căng thẳng, ví dụ như nhiệt độ tăng cao gây ra
tình trạng chết trắng ở san hô. Thông qua quá trình
quy hoạch thận trọng, các MPA có thể được thiết
kế và phân vùng theo các cách thích hợp nhằm bảo
vệ các cộng đồng san hô có khả năng gần như
nguyên vẹn dù phải đối mặt với sự xáo trộn lớn
hoặc những sự kiện như chết trắng. Xem ở
html.
249Sử dụng lưỡi câu vòng để thay thế lưỡi câu hình chữ
J theo kiểu truyền thống khi đánh bắt bằng tàu
giăng dây câu dài đã được áp dụng ở cấp vùng và
chứng minh khả năng giảm tỷ lệ tử vong của rùa
biển tới 80%, trong khi không tạo ra ảnh hưởng xấu
đến chỉ tiêu đánh bắt (cá ngừ).
250Chương trình Người quan sát trên các tàu cá giăng
dây câu dài của Việt Nam được Bộ NN&PTNT và WWF
triển khai từ năm 2007, với số lượng tham gia ban
đầu chỉ có 10 tàu triển khai chương trình người quan
sát trên boong và kết hợp thử nghiệm lưỡi câu vòng
ở một số tàu được chọn. Chương trình đã tạo ra một
cơ hội mới và quan trọng để thu thập các số liệu cơ
bản về nghề cá (ví dụ như mức đánh bắt, và thành
phần loài đánh bắt), đồng thời khuyến khích áp
dụng lưỡi câu vòng như một phương tiện giảm sản
phẩm khai thác phụ (không chủ đích). Hiện nay,
chương trình này đang được liên kết với các nỗ lực
nhằm cung cấp các khuyến khích dựa vào thị trường
(chẳng hạn như áp dụng mức giá cao hơn và nguồn
cung ưu đãi hơn) cho các tàu đánh bắt cá ngừ bằng
lưỡi câu vòng và/hoặc có người quan sát trên
boong. Xem ở
wwf_offices/vietnam/?185281/Fisheries-Bycatch-
Reduction-Program-Catches-On.
251Cộng hòa Dân chủ Công-gô là một ví dụ về một quốc
gia giàu tài nguyên khoáng sản nhưng đã thất bại
trong nhiều năm để chuyển đổi vốn tài nguyên thiên
nhiên này thành sự phát triển bền vững. Chi-lê hay
Bốt-xoan-na đã sử dụng tài nguyên khoáng sản của
mình một cách khôn ngoan và nhờ đó, đã đạt được
các kết quả và tác động phát triển quan trọng.
252Bộ TN&MT – bài trình bày của ngành mỏ Việt Nam
tại Hội nghị Khu vực về Khai thác mỏ, tổ chức ngày
15/10/2008 Xinh-ga-po. Dầu và than đóng góp hơn
90% sản lượng công nghiệp hàng năm của ngành
khai thác mỏ Việt Nam.
253Niên giám thống kê năm 2009
254Ước tính của các cán bộ Ngân hàng Thế giới, 2009.
255Cần lưu ý một điều quan trọng là, nhiều vấn đề liên
quan đến khai thác mỏ và phát triển khoáng sản tại
Việt Nam không được thảo luận trong chương này,
cụ thể là: vai trò của nhà nước, đặc biệt là các công
ty nhà nước; khai thác mỏ quy mô nhỏ và khai thác
tận thu; xúc tiến đầu tư và đàm phán với các công ty
lớn, vị thế cạnh tranh của khoáng sản Việt Nam trên
thị trường quốc tế; các vấn đề cân nhắc về cơ sở hạ
tầng để phát triển khoáng sản; cân nhắc cụ thể về
đánh thuế khai thác mỏ và các chính sách tài chính
cũng như quản lý thuế; và các vấn đề bao quát như
ý nghĩa của chương trình nghị sự về biến đổi khí hậu
và khí hậu ấm lên trên toàn cầu đối với sự phát triển
khoáng sản ở Việt Nam.
256Bộ TN&MT "Báo cáo tổng kết 13 năm thực hiện Luật
khoáng sản 1996", năm 2009, Bộ TN&MT trình lên
Quốc hội. Bộ Công Thương "Báo cáo về khoáng sản
xuất khẩu, 2007”
257Nhóm công tác Khai thác mỏ của các doanh nghiệp,
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, Trình bày luận
điểm ngày 1/12/2009.
258Khuyến nghị từ Báo cáo Hội thảo: Phát triển Khoáng
sản và Phát triển bền vững, Hà Nội, tháng 5/2010
259Một ví dụ là ilmenit được khai thác ở bờ biển miền
Trung Việt Nam. Hầu hết các công ty xuất khẩu
ilmenit (46% Ti2O3), nghĩa là mức thấp nhất trong
chuỗi chế biến titan.
260Tổng cộng có 128 văn bản quy phạm pháp luật
(gồm luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, chỉ thị,
thông tư) đã được ban hành để điều tiết, quản lý
ngành khai thác mỏ ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có
thêm 26 văn bản pháp lý khác đã được các cơ quan
chính phủ soạn thảo và trình lên cấp trên, đang chờ
phê duyệt và ban hành.
261Luật Đầu tư 2005 là sự hợp nhất giữa Luật Đầu tư
Nước ngoài 1987 (sửa đổi bổ sung năm 1992, 1996,
2000 và Luật Xúc tiến Đầu tư Tư nhân 1996.
262Nguồn: Các tác động phát triển bền vững của cơ chế
khuyến khích đầu tư: Một nghiên cứu tình huống cụ
thể trong ngành khai thác mỏ ở Việt Nam
263Nghị định ngày 27/12/ 2005 và công văn của Thủ
tướng Chính phủ ngày 11/4/2006.
264Vũ Hán, “Địa phương cấp giấy phép tràn lan”, báo
CAND trực tuyến tại địa chỉ
com.vn/vi-VN/kinhte/2010/7/133523.cand dated 08
July 2010.
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H168
265Chính phủ cũng đã theo đuổi một chương trình tích
cực nhằm phổ biến các văn bản và quy định pháp
luật cho công chúng và tiến hành các chiến dịch phổ
biến về các quy tắc và quy định của Luật Khoáng
sản. Từ năm 2006, Bộ TN&MT đã lập một trang web
dành riêng và tổ chức các buổi đào tạo trực tuyến
về pháp luật về khoáng sản.
266Các cục/vụ của Bộ TN&MT gồm địa chất, khai thác
mỏ, tài chính, và hợp tác quốc tế.
267Các doanh nghiệp nhà nước khác trong ngành công
nghiệp nặng bao gồm Tổng công ty Xi măng Việt
Nam, Tổng công ty Hoá chất Việt Nam, và Tổng công
ty Thép Việt Nam.
268Nghị định số 80/2006/ND - CP ngày 2006/09/08 của
Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
Luật Bảo vệ môi trường 2005; Nghị định số
21/2008/NĐ-CP ngày 28/2/2008 của Chính phủ về
thay đổi một số điều quy định tại Nghị định số
80/2006 / NĐ-CP ngày 08/09/2006; Thông tư số
05/2008/TT-BTNMT ngày 08/12/2006 của Bộ TN&MT
hướng dẫn thực hiện đánh giá môi trường chiến
lược và đánh giá tác động môi trường và cam kết
bảo vệ môi trường; Quyết định số 13/2006/QĐ-
BTNMT ngày 08/09/2006 của Bộ trưởng Bộ TN&MT
ban hành về Quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội
đồng thẩm định.
269Vụ Môi trường, Bộ TN&MT.
270Các quy phạm quy chuẩn, ví dụ như liên quan đến
xói lở, bồi lắng, đa dạng sinh thái.
271Phỏng vấn Vụ trưởng Vụ Đánh giá Môi trường, Bộ
TN&MT, tháng 5/2010
272Bùi Quang Bình, “Các lĩnh vực khai thác mỏ trong
nghiên cứu môi trường” tại địa chỉ
truong-vung-khai-khoang, 22 May 2009
273Nguồn: Vinacomin. Ước tính dựa trên tỷ lệ bóc vỉa
(lượng vật liệu khô phải đào để sản xuất 1 tấn than
đá) là 7,5 tấn.
274Báo cáo về dự án nghiên cứu của Tiến sĩ Đào Danh
Phương, Nguyễn Thế Hưng, Nguyễn Thế Bàu, Đoàn
Văn Hải, Tạp chí KHCN Mỏ số 1/2009.
275Báo cáo về dự án nghiên cứu của Tiến sĩ Đào Danh
Phương, Nguyễn Thế Hưng, Nguyễn Thế Bàu, Đoàn
Văn Hải, Tạp chí KHCN Mỏ số 1/2009.
276Nghị định 63/2008/NĐ_CP ngày 13/5/2008.
277Các báo cáo của Vinacomin, 2009
278Dự án xây dựng Các thỏa thuận Phát triển Cộng
đồng, Ngân hàng Thế giới, COCPO, 2010.
279Vũ Xuân Nguyệt Hồng (CIEM) và Nguyễn Thị Lan
(ILSSA), "Quản trị kinh tế và quy trình hoạch định
chính sách ở Việt Nam", tháng 6/2010; Nghị định
63/2008/NĐ_CP ngày 13/5/2008 về thu phí bảo vệ
môi trường từ khai thác khoáng sản
280Xem tại: www.eiti.org
281Danh mục phân loại của Đức được sử dụng song
song với danh mục của Anh, vì đây là thông lệ phổ
biến trong các tài liệu của Việt Nam. Than được phân
loại theo ượng chất dễ bay hơi, thể hiện bằng %
trọng lượng. Như vậy, than non chứa 45-65% chất
dễ bay hơi; than anthraxit 7-12% chất dễ bay hơi.
Điều này tỷ lệ nghịch với giá trị nhiệt lượng, thể hiện
bằng kilojoule/ kg: 28.470 đối với than non và 35.300
đối với than anthraxit.
282Thái Nguyên, Hải Dương, Bắc Giang, Sơn La, Quảng
Nam, Quảng Ninh, Nghệ An, Lạng Sơn, và một số nơi
như U Minh Thượng, U Minh Hạ, và đồng bằng sông
Hồng
283Nguyễn Thanh Hà, Đảo ngược cơ cấu tiêu thụ than
từ năm 2010, trên Tạp chí Thương mại ngày
10/1/2010 tại
941362442/dao_nguoc_co_cau_tieu_thu_than_tu_
nam_2010.html và Báo cáo về khối lượng sản xuất
của Phòng Phân phối sản phẩm, Vinacomin , 2008-
2009.
284Nguồn: Vũ Xuân Nguyệt Hồng (CIEM); Đầu tư 2005-
2009: 4.100 tỷ đồng tăng lên 33.100 tỷ đồng; vốn
chủ sở hữu tăng từ 5.546 tỷ đồng lên 19.583 tỷ đồng;
lợi nhuận trước thuế: 2005 = 3.130 tỷ đồng, 2010 =
3.200 tỷ. Tỷ lệ lợi nhuận/vốn giảm bốn lần trong giai
đoạn này.
285Báo Lao động, Cuộc chiến chống than lậu ở Quảng
Ninh, ngành than nói gì? Số 93 ngày 25/04/2008
286Năm 2009, mức lương tối thiểu ở Việt Nam là 0,65
triệu đồng/tháng trong khi mức lương trung bình
cho cán bộ, nhân viên Vinacomin là 6,16 triệu
đồng/tháng. Nguồn: Phòng Lao động và Tiền lương,
Vinacomin, Niên giám thống kê nhiều năm.
287Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực cho ngành than của
Phòng Lao động và Tiền lương, Vinacomin, 2010.
288 Xem: Vinacomin, Viện KHCN Mỏ, báo cáo giám sát 2008
289Đào Danh Phương, Nguyễn Thế Hưng, Nguyễn Thế
Bàu, Đoàn Văn Hải, Tạp chí KHCN Mỏ số 1/2009.
Q U Ả N L Ý T À I N G U Y Ê N T H I Ê N N H I Ê N
C H Ú T H Í C H 169
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BaocaophattrienVietNam2011 qu7843n l ti nguyn thin nhin.pdf