Báo cáo Thực tập 6 tuần tại Công ty Giầy Thăng Long

Xuất nhập khẩu là tất yếu khách quan và có vai trò hết sức quan trọng đối với các quốc gia. Đặc biệt là ở nước ta, xuất khẩu là con đường đi tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách nhanh nhất. Kinh doanh trong nước trong điều kiện kinh tế thị trường đã khó, kinh doanh xuất khẩu còn khó hơn nhiều bởi đây là quan hệ kinh tế quốc tế. Song dù khó khăn và phức tạp đến đâu, nếu có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, thông qua chính sách vi mô, sự vận dụng năng lực sáng tạo của công ty phát triển hơn nữa, công ty sẽ nâng cao được uy tín của mình trên thị trường. Với kiến thức được trang bị ở trường, cùng với sự tìm hiểu thực tế để đi tới một số kiến nghị với mong muốn góp phần đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của công ty, tôi hy vọng cùng với thời gian, công ty ngày càng vững mạnh và phát triển không ngừng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường.

doc32 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập 6 tuần tại Công ty Giầy Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh lập theo quyết định số 210/ CNn _ TCLĐ của Bộ Công nghiệp nhẹ, nay là Bộ Công nghiệp. Sau đó, theo quyết định thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước trong nghị định số 386/ HĐBT (nay là Thủ tướng chính phủ) và quyết định số 397/ CNn _ TCLĐ ngày 14/04/1993 của Bộ Công nghiệp nhẹ, Nhà máy giầy Thăng Long đổi tên thành Công ty giầy Thăng Long ngày nay. Công ty giầy Thăng Long là đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty da giầy Việt Nam, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập có tài khoản tại các ngân hàng: _ Ngân hàng Công thương khu vực II _ Hai Bà Trưng _ Hà Nội. _ Ngân hàng cổ phần Công thương Việt Nam. _ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Kể từ khi thành lập đến nay, Công ty đã gặp không ít khó khăn thách thức. Có thể phân chia sự phát triển của Công ty thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Từ năm 1990- 1992 Theo luận chứng kinh tế- kỹ thuật được duyệt, Công ty giầy Thăng Long khi bắt đầu thành lập có số vốn là : 2.420.000.000 đồng, sản phẩm chính của công ty là gia công mũ giầy xuất khẩu cho Liên Xô cũ với công suất 4.000.000 đôi/năm. Trong những năm đầu mới thành lập, công ty đã xây dựng hai xưởng sản xuất và một số công trình phục vụ sản xuất kinh doanh. Nhưng đây là giai đoạn công ty hoạt động trong quá trình chuyển đôỉ từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, lại thêm sự tan rã của Đông Âu và Liên Xô- khách hàng chính và duy nhất của công ty- đã đẩy công ty vào tình thế rất khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty không còn được đầu tư vốn, phải nghỉ chờ cấp trên giải quyết. Song để duy trì sự tồn tại của công ty ban lãnh đạo và CBCNV trong công ty đã có kế hoạch tìm kiếm thị trường mới, thay đổi sản phẩm sang sản xuất giầy vải xuất khẩu. Với chính sách mở cửa, tranh thủ các nguồn vốn vay ngân hàng, vốn ngân sách, công ty vừa đầu tư xây dựng, vừa đào tạo tổ chức lại đội ngũ công nhân từng bước thích ứng với sự phát triển của cơ chế thị trường. Giai đoạn 2: Từ năm 1993 đến nay Kể từ những năm 1992_1993 khi tình hình kinh tế, chính trị ở Liên xô và các nước Đông Âu có nhiều biến đổi, các đơn vị đặt hàng bị cắt đứt, hơn thế quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty lại mang tính thời vụ, thời gian ngừng sản xuất kéo dài (khoảng 3 tháng 5,6,7) đã gây ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh và trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống toàn bộ công nhân viên trong Công ty. Trước tình hình đó lãnh đạo nhà máy cùng toàn thể công nhân viên đã cùng nhau tìm hướng đi mới cho Công ty: Đó là sản xuất giầy vải hoàn chỉnh xuất phát từ nhu cầu to lớn của mặt hàng này ở trong và ngoài nước. Quá trình này gặp nhiều khó khăn do thời điểm đó nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp chưa có mô hình kiểu mẫu thực tế để áp dụng,Công ty lại không được Nhà nước tài trợ về vốn, phải đi vay ngân hàng để tự trang trải. Từ đó đến nay, công ty không ngừng tìm tòi, nghiên cứu nhu cầu thị trường cả trong và ngoài nước, từng bước mở rộng thị trường tăng thị phần. Nhờ đó chất lượng và số lượng sản phẩm của công ty ngày một tăng và đã có vị trí trên thị trường, chiếm được sự quan tâm của khách hàng, đặc biệt là các bạn hàng nước ngoài như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản... và một số thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ,... Trong quá trình hoạt động, công ty còn sáp nhập hai xí nghiệp giầy địa phường không còn khả năng hoạt động làm thành viên, đó là Nhà máy giầy Chí Linh ( tỉnh Hải Dương) và Xí nghiệp giầy Thái Bình ( tỉnh Thái Bình), vào các năm 1999 và 2000. Năm 2001 công ty đã tổ chức lại bộ phận sản xuất công ty tại Hà Nội, thành lập xí nghiệp giầy Hà Nội trực thuộc công ty. Như vậy, đến nay công ty Giầy Thăng Long gồm có 3 xí nghiệp trực thuộc. Đó là xí nghiệp giầy Hà Nội, Xí nghiệp Giầy Thái Bình và Xí nghiệp Giầy Chí Linh. Tất cả các xí nghiệp này thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của công ty. Mọi mặt hoạt động của các xí nghiệp đều được công ty cân đối và giao cho từng đơn vị thực hiện. Công ty chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động kinh doanh, còn các đơn vị thành viên thực chất chỉ đóng vai trò tổ chức sản xuất và hạch toán nội bộ trên cơ sở các nguồn lực được giao để thực hiện kế hoạch về sản phẩm. Với sự phấn đấu không mệt mỏi của toàn Công ty, cho đến nay sau hơn 10 năm hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty đã dần đi vào nề nếp, công tác an toàn phục vụ sản xuất được đảm bảo, trình độ quản lý của cán bộ, trình độ tay nghề của công nhân không ngừng được nâng cao. Công ty đã tạo được uy tín về mặt chất lượng mặt hàng và khả năng đáp ứng các hợp đồng sản xuất cho khách hàng. Các hoạt động,các giá trị tạo ra của Công ty tăng không ngừng. Kể từ năm 1996 Công ty đã bắt đầu làm ăn có lãi, Công ty luôn hoàn thành kế hoạch, chỉ tiêu của Tổng Công ty và thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước. Điều đó thể hiện qua bảng 1. Khái quát quá trình ra đời và phát triển của công ty giầy Thăng Long cho thấy đây là một công ty còn non trẻ, ra đời và phát triển trong giai đoạn môi trường kinh doanh có những thay đổi rất lớn và sâu sắc, song vẫn tạo được những bước tiến nhất định, khẳng định được vị trí của mình trên thương trường. Bảng 1: Một số chỉ tiêu cơ bản từ 2000 - 6/2003 TT Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 1-6/2003 Tốc độ phát triển (%) 01/00 02/01 02/00 1 Tổng sản phẩm sản xuất Đôi 3708052 4609243 4346350 2694864 124,3 94,3 117,21 Trong đó: - Giầy xuất khẩu Đôi 1950948 1560412 1454576 1832667 79,98 93,21 74,56 - Giầy nội địa Đôi 1757104 2748831 2891774 862197 156,4 105,2 164,6 2 Giá trị sản xuất công nghiệp Tr.đ 76550 90007,6 92751,8 63789 117,58 103,04 121,17 3 Doanh thu Tr.đ 103582 127883 107694 67057 123,46 84,21 103,96 Trong đó: - Doanh thu nội địa Tr.đ 3268,5 35005,4 47123,8 5364,4 1070,9 134,6 144,7 - Doanh thu xuất khẩu Tr.đ 86731,5 85944,6 60367,2 61692,6 99,09 70,23 69,6 4 Nộp ngân sách Tr.đ 2633,52 2380,2 1597 1452,7 90,38 67,095 60,64 5 Lợi nhuận Tr.đ 902 1309,6 1438 60239,9 145,18 109,8 159,12 2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty. Công ty giầy Thăng Long được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Đây là một cơ cấu quản lý mà toàn bộ công việc quản lý được giải quyết theomotj kênh liên hệ đường thẳng giữa cấp trên và cấp dưới trực thuộc. Chỉ có lãnh đạo quản lý ở từng cấp mới có nhiệm vụ và quyền hạn ra mệnh lệnh chỉ thị cho cấp dưới(Tức là mỗi phòng, ban xí nghiệp của Công ty chỉ nhận quyết định từ một thủ trưởng cấp trên theo nguyên tắc trực tuyến). Giám đốc của Công ty là người ra quyết định cuối cùng nhưng để hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của Giám đốc thì cần phải có các bộ phận chức năng. Các bộ phận chức năng này không ra lệnh một cách trực tiếp cho các đơn vị cấp dưới mà chỉ nghiên cứu, chuẩn bị các quyết định cho lãnh đạo, quản lý và thực hiện việc hường dẫn lập kế hoạch, tổ chức thực thi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các mục tiêu trong chức năng chuyên môn của mình. * Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty giầy Thăng Long. Ban giám đốc Phòng Bảo vệ Phòng Tài vụ Phòng Kỹ thuật c.nghệ KCS P. Thị trường g. dịch nước ngoài Phòng Kế hoạch vật tư. Phòng Tổ chức hành chính Phân xưởng cơ điện Xí nghiệp đế cao su Xí nghiệp giầy Thái Bình Xí nghiệp giầy Chí Linh Xí nghiệp giầy Hà Nội : Quan hệ trực tuyến : Quan hệ chức năng * Chức năng của các phòng ban: - Ban giám đốc: Giám đốc là người đưng đầu Công ty, chịu trách nhiệm chung trước Tổng công ty trong công tác điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty. Một Phó giám đốc chịu trách nhiệm trước Giám đốc về tình hình nội chính của Công ty. Một Phó giám đốc chịu trách nhiêm trước Giám đốc về kỹ thuật công nghệ KCS. Xây dựng chương trình kế hoạch với Giám đốc để chỉ đạo thực hiện, phụ trách công tác sản xuất kế hoạch vật tư, an toàn lao động. - Phòng tổ chức hành chính: Thực hiện chức năng làm tốt công tác nhân sự, thực hiện chế độ thanh toán tiền lương... cho cán bộ công nhân viên, làm tốt công tác hành chính phục vụ cho khách hàng trong và ngoài Công ty, đồng thời làm các công tác khác như văn thư, bảo mật, tiếp cận, y tế, vệ sinh,... - Phòng kinh doanh: Gồm 2 phòng + Phòng thị trường và giao dịch nước ngoài: Chức năng của phòng là tham mưu giúp cho Giám đốc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty theo giấy phép đăng ký kinh doanh và triển khai thực hiện các hoạt động về thị trường, tiêu thụ sản phẩm của Công ty. + Phòng kỹ thuật công nghệ: Với chức năng là quản lý toàn bộ công tác kỹ thuật sản xuất của toàn Công ty như ban hành các định mức vật tư nguyên liệu, lập các quy trình công nghệ trong sản xuất thử các loại hàng mẫu chào hàng, quản lý công tác an toàn thiết bị kỹ thuật trong sản xuất. - Phòng tài vụ: Với chức năng chính là quản lý mọi hoạt đông tài chính của Công ty đồng thời quản lý dòng tài chính ra vào nhằm đạt hiệu quả cao nhất. - Phòng bảo vệ quân sự: Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ mọi mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và làm công tác bảo vệ quân sự theo quy định. - Phân xưởng cơ điện: Chức năng của phân xưởng cơ điện là theo dõi sửa chữa toàn bộ hệ thống thiết bị của Công ty đồng thời chế tạo một số công cụ cũng như máy móc đơn giản cho sản xuất. - Xí nghiệp sản xuất giầy Hà Nội: bao gồm 3 phân xưởng: + Phân xưởng chuẩn bị sản xuất: Thực hiện chức năng pha cắt và chuẩn bị mọi thứ cho phân xưởng may. + Phân xưởng may: Với nhiệm vụ tiếp nhận toàn bộ bán sản phẩm từ phân xưởng chuẩn bị sản xuất để may thành đôi mũ giầy. + Phân xưởng gò ráp: Thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận mũ giầy từ phân xưởng may và các phụ liệu từ phân xưởng chuẩn bị cùng với đế từ phân xưởng đế cao su gò ráp thành đôi giầy hoần chỉnh. - Xí nghiệp sản xuất giầy Chí Linh: Chức năng và nhiệm vụ giống như của xí nghiệp giầy vải Hà Nội. - Xí nghiệp sản xuất giầy Thái Bình: Chức năng và nhiệm vụ giống như xí nghiệp giầy vải Hà Nội. - Xí nghiệp đế cao su: Bao gồm hai phân xưởng cán luyện cao su và phân xưởng ép đế. Nhiệm vụ của xí nghiệp này là tiếp nhận cao su nguyên liệu và các hoá chất theo kế hoạch để chế biến thành các loại đế giầy. II- Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong giai đoạn 2000-2003. 1. Nhận xét chung. Thời gian gần đây Công ty thường xuyên tổ chức công tác chế thử và cải thiện mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu của khách hàng, chú trọng việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh. Không ngừng tìm tòi nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, từng bước mở rộng thị trường, tăng thị phần. Luôn đi tìm kiếm thị trường mới,.... Nhờ đó mà Công ty đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. - Chất lượng và số lượng sản phẩm của Công ty ngày một tăng và có vị trí trên thị trường. - Thị trường của Công ty ngày càng mở rộng ra nhiều nước và nhiều khu vực trên thế giới. - Lợi nhuận tăng lên theo hướng ổn định. - Số lượng lao động tăng lên qua các năm, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. - Thu nhập của người lao động trong Công ty cũng tăng lên, đời sống được cải thiện. Bên cạnh đó, Công ty còn nhiều hạn chế: - Thị trường xuất khẩu chủ yếu là một số nước châu á, châu Âu và Bắc Mỹ....thị trường trong nước nhiều tiềm năng thì chưa được khai thác triệt để. - Nguyên phụ liệu của Công ty thì hầu hết phải nhập ở nước ngoài. - Mẫu mã sản phẩm chưa phong phú. - Sản xuất theo mùa nên tháng 5, 6, 7 Công ty rất ít việc làm, một số bộ phận sản xuất phải nghỉ việc. - Thu nhập người lao động chưa cao.... 2. Các đánh gia cụ thể kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty giầy Thăng Long. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty giầy Thăng Long thời kỳ 2000- 6/2003 được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 2: Kết quả kinh doanh của Công ty Giầy Thăng Long Thời kỳ 2000 - 6/2003 TT Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 1-6/2003 Tốc độ phát triển (%) 01/00 02/01 02/00 1 Tổng sản phẩm sản xuất Đôi 3708052 4609243 4346350 2694864 124,3 94,3 117,21 Trong đó: - Giầy xuất khẩu Đôi 1950948 1560412 1454576 1832667 79,98 93,21 74,56 - Giầy nội địa Đôi 1757104 2748831 2891774 862197 156,4 105,2 164,6 2 Giá trị sản xuất công nghiệp Tr.đ 76550 90007,6 92751,8 63789 117,58 103,04 121,17 3 Doanh thu Tr.đ 103582 127883 107694 67057 123,46 84,21 103,96 Trong đó: - Doanh thu nội địa Tr.đ 3268,5 35005,4 47123,8 5364,4 1070,9 134,6 144,7 - Doanh thu xuất khẩu Tr.đ 86731,5 85944,6 60367,2 61692,6 99,09 70,23 69,6 4 Nộp ngân sách Tr.đ 2633,52 2380,2 1597 1452,7 90,38 67,095 60,64 5 Lợi nhuận Tr.đ 902 1309,6 1438 60239,9 145,18 109,8 159,12 Qua bảng trên ta thấy được tổng sản phẩm sản xuất của Công ty có xu hướng giảm. Mặc dù sản lượng sản xuất các năm 2001, 2002 đều tăng hơn nhiều so với năm 2000, năm 2001 so với năm 2000 đạt 124,3%, năm 2002 so với năm 2001 thì sản lượng giầy sản xuất ra năm sau đã giảm đi 202.893 đôi, chỉ đạt mức 94,3%. Điều này được lý giải bởi việc các đơn đặt bị cắt giảm do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trong khu vực, các bạn hàng Đài Loan, Hàn Quốc lâm vào tình trạng khó khăn. Thị trường giầy xuất khẩu có xu hướng giảm mạnh, cụ thể số lượng giầy xuất khẩu năm 2002 chỉ đạt 1.454.576 đôi, giảm 6,79% so với năm 2001 và giảm tới 25,44% so với năm 2000 do đó tỷ trọng doanh thu từ xuất khẩu trong tổng doanh thu của Công ty cũng ít đi và ảnh hưởng đến tổng doanh thu của Công ty. Năm 2002 doanh thu của toàn Công ty chỉ bằng 84,21% so với năm 2001, giảm 15,79%. Tuy nhiên Công ty đã biết khắc phục tình trạng thiếu thị trường bằng cách tung sản phẩm ra bán tại thị trường nội địa. Sản lượng giầy tiêu thụ trong nước năm 2000 chỉ có 1.757.104 đôi thì năm 2002 đã tiêu thụ được đến 2.891.774 đôi, tăng trên 1 triệu đôi. Doanh thu tiêu thụ nội địa tăng mạnhqua các năm, phần nào bù đắp sự suy giảm của doanh thu từ hoạt động xuất khẩu. Doanh thu nội địa năm 2002 đạt 47.123,8 triệu VNĐ, tăng 34% so với năm 2001 và bằng 141,7% so với nă 2000. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhưng không đều qua các năm. Năm 2001 tăng lên 17,58% so với năm 2000 nhưng năm 2002, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ tăng 3,04% so với năm 2001. Doanh thu của Công ty cũng có sự biến động lớn. Từ năm 2000 đến năm 2001 có tăng lên với mức tăng 24,301 triệu VNĐ. Doanh thu sang đến năm 2002 có xu hướng giảm đi, chỉ đạt 107.694 triệu VNĐ. Doanh thu giảm dẫn đến nộp ngân sách Nhà nước cũng giảm. Cụ thể, số giao nộp ngân sách năm 2001 là 2.380,2 triệu VNĐ, bằng 90,38% so với năm 2000 và năm 2002 còn tiếp tục giảm mạnh, nộp ngân sách chỉ còn 1.597 triệu VNĐ, bằng 67,079% so với mức năm 1999. Tuy vậy nhờ tiết kiệm được chi phí đầu vào, chi phí lưu thông... nên lợi nhuận của Công ty vẫn dảm bảo tăng đều. Năm 2001 đạt 1.309,6 triệu VNĐ, tăng 49,18% so với năm 2000, năm 2002 đạt 1.438 triệu VNĐ tăng 9,8% so với năm 2001 và tăng 59.12% so với năm 2000. Mặc dù giá trị sản xuất công nghiệp tăng chậm và xuất khẩu giảm đi nhưng lợi nhuận của Công ty dần đi vào ổn định. Đây là một trong những thành công của Công ty do đã biết kết hợp khai thác cả thị trường Thế giới và nhu cầu tiêu dùng nội địa, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu ngày càng tăng. 3. Phân tích và đánh giá khả năng của Công ty giầy Thăng Long. 3.1. Những mặt mạnh của Công ty giầy Thăng Long. + Công ty có quy mô sản xuất lớn, chủng loại sản phẩm đa dạng có thể đáp ứng mọi đpn đặt hàng của khách hàng. Mẫu mã sản phẩm do phòng kỹ thuật của Công ty thiết kế đa dạng về kiểu dáng, chất liệu. Những mẫu do khách hàng mang đến luôn được đáp ứng theo đúng yêu cầu kỹ thuật. + Có chi phí nhân công rẻ, sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào, đây là mmột điều kiện quan trọng để các công ty giản được chi phí kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. + Có bộ máy quản lý tương đối hoàn chỉnh và hoạt động hiệu quả. Các phòng ban và xí nghiệp sản xuất phối hợp với nhau một cách tương đối nhịp nhàng. 3.2. Những mặt yếu của Công ty giầy Thăng Long. + Trình độ Marketing còn yếu, công nghệ thiếu đồng bộ, lạc hậu so với Thế giới. Tuy đã có nhiều cố gắng cho lĩnh vực Marketing và đầu tư cho công nghệ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế làm cản trở khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường quốc tế. Do thiếu vốn mà vấn đề đầu tư cho quảng cáo, giới thiệu sản phẩm còn yếu, nghiên cứu thiết kế mẫu sơ sài, chủ yếu là do khách hàng tìm đến Công ty và mẫu mã là do khách hàng yêu cầu. Còn máy móc thiết bị của Công ty hầu hết là lạc hậu, được nhập từ những năm 90, chủ yếu để bổ sung thay thế những máy móc đã cũ. + Thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh. + Trình độ kinh doanh quốc tế còn hạn chế. Mặc dù Công ty đã có nhiều cố gắng trong việc tuyển chọn, đào tạo phát triển, sa thải và các biện pháp tạo động lực, song so với các đối tác nước ngoài Công ty vẫn còn thua kém họ rất nhiều + Yếu về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, xuất sứ hàng hoá và khả năng thay đổi mẫu mốt. Nhìn chung, chất lượng sản phẩm của Công ty ở mức trung bình, các quy định quản lý về tiêu chuẩn kỹ thuật xuất sứ hàng hoá thiếu chặt chẽ, khả năng của Công ty trong việc nghiên cứu, thay đổi mẫu mốt còn yếu. 3.3. Những cơ hội của Công ty giầy Thăng Long. + Trong xu thế hội nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên Thế giới, các công ty kinh doanh có nhiều cơ hội để thâm nhập và triển khai thị trường nước ngoài. Công ty giầy Thăng Long có thể nắm bắt cơ hội này. + Công ty giầy Thăng Long được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và Tổng công ty da giầy Việt Nam. Công ty giầy Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước là thành viên của Tổng công ty da giầy Việt Nam, cho nên Công ty được sự hỗ trợ rất lớn về vốn, vay vốn ngân hàng được thuận lợi, nhận được nhiều đơn đặt hàng, được sự hỗ trợ về triển lãm,... Ngoài ra, Chính phủ rất chú trọng đến chính sách hỗ trợ xuất khẩu. 3.4. Những thách thức đối với Công ty giầy Thăng Long. + Đối thủ cạnh tranh mạnh và sự gia tăng nhanh chóng các đối thủ cạnh tranh mới. Công ty có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu vốn là thế mạnh của Công ty như Công ty giầy vải Thượng Đình, Công ty giầy Thuỵ Khuê,... nhưng hiện nay đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Công ty là các sản phẩm giầy của Trung Quốc vì giá bán rất rẻ, mẫu mã phong phú đa dạng. + Nguyên phụ liệu của Công ty hầu hết phải nhập từ nước ngoài. Do chất lượng và giá cả của nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của Công ty, dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. + Nhu cầu về chất lượng và mẫu mã sản phẩm của khách hàng rất cao buộc Công ty phải lựa chọn biện pháp phù hợp. + Do các cuộc xung đột trên thế giới xảy ra liên tiếp đã ảnh hưởng đến thị trường tài chính tiền tệ thế giới, điều này cũng gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của công ty. III. Đánh giá hoạt động quản trị của Công ty trong giai đoạn qua. 1. Đánh giá hoạt động định hướng chiến lược. 1.1 Định hướng chiến lược thị trường xuất khẩu Trong định hướng phát triển, công ty đã đặt thị trường xuất khẩu lên hàng đầu. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá. ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường. Thị trường xuất khẩu hàng hoá của công ty là một vấn đề phức tạp và quan trọng trong quá trình quyết định chiến lược của công ty. Việc lựa chọn thị trường là một quá trình đánh giá các cơ hội thị trường và xác định hướng thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở năng lực sản xuất tiềm năng sẵn có và những thuận lợi mà công ty đang có cùng cơ hội từ thị trường thế giới, công ty đã đưa ra định hướng lựa chọn thị trường xuất khẩu như sau: - Thứ nhất: Tập trung chủ yếu vào thị trường EU. Công ty dự kiến tỷ trọng tiêu thụ giầy dép của EU so với các loại thị trường chiến lược của công ty năm 2004: 70%. - Thứ hai: Thu hút khách hàng tiềm năng và mở rộng thị trường sang Mỹ, Bắc Mỹ và Nhật... Công ty đã đưa ra chiến lược kinh doanh dự kiến tỷ trọng tiêu thụ giầy dép ở thị trường Mỹ, Bắc Mỹ, thị trường Nhật năm 2004 tương ứng là 21,1% và 10,9%. - Thứ ba: Tìm và nối lại quan hệ với các bạn hàng truyền thống như Nga và các nước Đông Âu. Dự kiến tỷ trọng tiêu thụ giầy dép ở thị trường Nga và Đông Âu so với các thị trường chiến lược khác năm 2004 là 7%. Tuy nhiên trước mắt công ty nên tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU, thị trường mà nhu cầu các mặt hàng giầy dép rất lớn, hơn thế nữa lại có mối quan hệ làm ăn trong mấy năm qua. Còn đối với thị trường Mỹ, Nhật cần phải có thời gian khi quan hệ kinh tế, ngoại giao giữa Nhà nước ta và Nhà nước họ được mở rộng. Đây là định hướng có tính quyết định đến việc xây dựng thị trường tối ưu cho Công ty. 1.2. Một số mục tiêu chiến lược cơ bản đến năm 2010 của Công ty. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược của toàn ngành và Tổng công ty da giầy Việt Nam, căn cứ vào sản xuất kinh doanh(nhất là kinh doanh xuất khẩu) của Công ty trong những năm gần đây cũng như căn cứ vào những kết quả bước đầu khi nghiên cứu thị trường, Công ty giầy Thăng Long đã xác định các định hướng chiến lược thông qua xây dựng một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2010: Thứ nhất, Công ty chủ động phấn đấu tăng trưởng với nhịp độ nhanh và hiệu quả, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 150%. Dự kiến đầu năm 2004, giá trị tổng sản lượng tăng 1,73 lần so với năm 2003, sản xuất khoảng 5 triệu đôi giầy dép, đưa giá trị xuất khẩu lên khoảng 15 triệu USD. Bảng 3 : Một số mục tiêu cơ bản đến năm 2010 của Công ty giầy Thăng Long. STT Chỉ tiêu Đơn vị Kế hoạch 2003 Dự kiến 2004 Dự kiến 2005 Dự kiến 2010 1 Tổng doanh thu Tr.iệu VNĐ 120.700 204.800 727.000 1.140.000 2 Doanh thu từ Xuất khẩu Triệu VNĐ 97.500 190.000 700.000 1.050.000 3 Sản lượng giầy vải XK Triệu đôi 2,3 4 15 33 4 Tích luỹ nộp NS Triệu VNĐ 672 1.300 5.600 13.000 (Nguồn: Kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh Công ty giầy Thăng Long giai đoạn 2000-2010) Thứ hai, các sản phẩm về giầy được sản xuất ra phải lựa chọn trên cơ sở có xu thế phát triển mạnh trên thị trường trong và ngoài nước, có khả năng khai thác tối đa công suất, tồn ít vốn và có tiềm lực nguyên liệu nội địa. Công nghệ ngày càng xích lại gần với thời trang trên một cơ cấu sản xuất mềm dẻo, uyển chuyển linh hoạt, nhạy cảm với thị trường và thị hiếu tiêu dùng. Thứ ba, Công ty phải từng bước khắc phục những yếu kém về vốn, kỹ thuật, thị trường, quản lý sản xuất kinh doanh, nguyên vật liệu, máy móc... đồng thời khai thác tốt lợi thế nguồn lực lao động để nâng cao khả năng cạnh tranh, hợp tác quốc tế. Thứ tư, sông song với việc đổi mới về cơ sở vật chất, công ty giầy Thăng Long cần quan tâm đến công tác xây dựng lực lượng sản xuất với cơ cấu sản xuất hiện đại, thích nghi với máy móc và công nghệ tiên tiến, chú trọng cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người lao động để họ tự hào và gắn bó với doanh nghiệp của mình. Thứ năm, Công ty phải lập ra được kế hoạch chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu. Công ty đã chủ động đầu tư trang bị máy móc và công nghệ hiện đại nhằm tăng năng xuất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh bằng chính chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Công ty đã từng bước xâm nhập vào những thị trường nhất định. 2. Đánh giá công tác tổ chức quản trị lao động 2.1. Các hoạt động của quản trị lao động - Kế hoạch nhân sự trong công ty do phó giám đốc nhân sự cùng phòng Tổ chức hành chính chịu trách nhiệm xây dựng, căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh từng thời kì. Công tác tham mưu cho giám đốc trong việc cơ cấu, tổ chức lại bộ máy quản lý công ty cũng đang được tiến hành tại đây. - Công tác tuyển dụng bố trí sử dụng, đánh giá đề bạt thăng tiến, đào tạo trong công ty chủ yếu sử dụng nguồn nội bộ công ty với mục đích tạo động lực phấn đấu cho CBCNV. - Tiền lương thưởng và các hình thức phân phối .Hiện nay công ty đang tiến hành chế độ lương theo sản phẩm, chế độ thưởng của công ty áp dụng thưởng theo 3 tiêu thức là chất lượng, số lượng và thời gian hoàn thành công việc. 2.2. Tình hình sử dụng lao động của công ty Bảng 4: Cơ cấu lao động theo giới của Công ty Năm Lao động nữ Lao động nam Tổng (người) Số LĐ (người) (%) Số LĐ (người) (%) 1999 1.010 63,60 578 36,40 1.588 2000 1.235 65,00 665 35,00 1.900 2001 2.134 67,28 1.038 32,72 3.172 2002 2.387 68,70 1.085 31,30 3.472 2003 2.422 68,49 1.123 31,31 3.555 - Về tổng số lao động của công ty tính đến năm 1999 là 1588 người. Nhưng đến năm 2000 thì tổng số đã là 1900 người tăng thêm 312 người so với cùng kì báo cáo của năm trước và chiếm tỉ lệ tăng là 19,65%.Và đến năm 2001 thì con số này đã là 3172 người lao động, tăng 1272 người so với năm trước, với tỷ lệ tăng 66,95%. Năm 2002 số lao động của Công ty là 3.472 người, tăng 300 người so với năm 2001. Năm 2003 là 3.555 người tăng 83 người so với năm 2002. Như vậy nhìn vào chỉ tiêu tổng số lao đông của công ty giầy Thăng Long chúng ta nhận thâý trong thời gian gần đây công ty đã thực hiện được mục tiêu kinh doanh của mình mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh và mục tiêu xã hội là đáp ứng, lo cho hơn 3000 lao động có công ăn việc làm. Tổng số lao động của công ty luôn tăng lên trong những năm gần đây. Trong đó: - Xét về hình thức tác động vào đối tượng lao động ta thấy: +Lao động trực tiếp của công ty chiếm tỷ trọng lớn gần 90% trong tổng số lao động và tăng dần trong 3 năm qua. Năm 1999 tổng số lao động là 1382 người, năm 2000 con số này đã là 1653 người và đến năm 2001 là 2760 người .Như vậy đến năm 2000 số lao động trực tiếp đã tăng 217 người tương ứng với mức tăng 19,61% so với năm 1999 .Bước sang năm 2001 có nhiều biến động đối với công ty. Số người lao động trực tiếp đã tăng lên 1107 người tương ứng với tăng 66,97%. Đến năm 2002 và 2003 số lao động trực tiếp của Công ty tiếp tục tăng nhưng ổn định, cụ thể là năm 2002 tăng 276 người, năm 2003 tăng 71 người so với năm 2002. Quả là một con số đáng nể. Nguyên nhân tăng chủ yếu do công ty đã phấn đấu hoàn thành nhu cầu đặt ra là mở rộng sản xuất kinh doanh, và đến năm 2001 công ty đã sáp nhập thêm chi nhánh giầy Thái Bình.Và một điều quan trọng là do đặc điểm ngành hàng của công ty yêu cầu đòi hỏi lao động trực tiếp là chủ yếu. + Lao động gián tiếp của công ty chiếm tỷ trọng không nhỏ song đã tăng trong 3 năm qua. Cụ thể năm 1999 có 206 lao động gián tiếp đến năm 2000 đã có 247 người .Như vậy tăng 41 người tương ứng với tỷ lệ tăng 19,90% so với năm 1999, đến năm 2001 thì đã tăng lên 412 người tương ứng với tăng 66,80% so với năm 2000. Năm 2002 và 2003 số lao động gián tiếp là 463 và 448 đềutăng lên và ổn định. Sở dĩ có sự tăng đột biến năm 2001 là do trong năm đó Công ty đã sát nhập thêm chi nhánh giầy Thái Bình. Vậy theo hình thức tác động vào đối tượng lao động của công ty ta có nhận xét đều tăng trong 3 năm qua .Điều này chứng tỏ 1 quy mô sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng .Hơn nữa do nhu cầu ,đặc tính của mặt hàng giầy vải và giầy thể thao đòi hỏi một đọi ngũ lao động trực tiếp tương đối lớn. Và điều quan trọng là công ty đã sắp xếp bố trí cho mấy nghìn lao động có công ăn việc làm. - Xét theo giới tính ta thấy : + Lao động nữ: Qua bảng số liệu ta cũng thấy hợp lý tỷ trọng lao động nữ nhiều hơn tỷ trọng lao động nam .Điều này cũng dễ hiểu bởi vì công việc của công ty đòi hỏi sự khéo léo vá nhanh nhẹn của phụ nữ nhiều hơn: ví dụ như công việc may giầy chẳng hạn đa số lao động nữ đảm nhiệm công việc này ,chỉ có 1 số công việc đòi hỏi lao đọng nam như phân xưởng cơ điện , đế cao su. Cụ thể lao động nữ năm 1999 là 1010 người chiếm tỷ trọng 63,60%.Song năm 2000 số lao động nữ là 1235 người chiếm 65% .So với năm 1999 số lao động nữ đã tăng 225 người tương ứng 22,28%.Năm 2001 thì con số này đã là 2134 người chiếm tỷ trọng 67,28% tổng số lao động của năm 2001 và tăng 899 người tương ứng tăng 72,79%. Năm 2002 số lao động nữ là 2.387, chiếm 68,70% tổng số lao động, năm 2003 số này là 2.442, chiếm 68,69%. Số lao động nữ tăng đều qua các năm và với tỷ trọng cũng tăng, như vậy, công ty rất quan tâm đến khâu tuyển dụng lao động cho phù hợp với công việc. + Lao động nam : Trong các năm qua, số lao động nam chiếm tỉ trọng nhỏ, chỉ bằng một nửa số lao động nữ. Cụ thể, năm 1999 số lao động nam là 578 người, chiếm tỉ trọng 36,4% so với tổng số lao động của năm 1999. Đến năm 2000, con số này đã là 665 người tăng 87 người so với năm 1999 tương ứng với tỉ lệ tăng 15,05% làm cho tỉ trọng lại giảm đi 1,4%. Nguyên nhân chủ yếu do năm 2000, mức tăng lên của lao động nữ lớn hơn mức tăng lên của lao động nam. Sang năm 2001, tổng số lao động nam đã tăng 373 người tương ứng với tăng 56,09% so với năm 2000. Năm 2002 số lao động nam là 1.085 người, chiếm 31,30%, năm 2003 số này là 1.113 người, chiếm 31,31% Xét về trình độ lao động của công ty trong giai đoạn 1999-2002. Nhìn chung trình độ lao động của công ty ngày càng được nâng cao điều này phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng,nắm bắt kịp thời sự đổi mới và phát triển của đất nước.Điều này được thể hiện rõ trong biểu sau.Qua bảng số liệu ở ta có nhận xét như sau: + Số lao động có trình độ đại học và cao đẳng chiếm tỉ trọng không lớn lắm. Năm 1999 có 60 người, chiếm tỉ trọng 3,7% trong toàn công ty, đến năm 2000 đã là 65 người, chiếm tỉ trọng 3,42% và đã tăng 5 người so với năm 1999. Sang năm 2001 thì con số này đã lên đến 78 người, chiếm tỉ trọng 2,46% tổng số lao động. Đã tăng so với năm 2000 là 13 người, với tỉ lệ tăng 20%. Năm 2002 thì số này đã là 93 tăng 15 người, chiếm tỷ trọng 2,68%. Như vậy, trình độ đại học và cao đẳng ngày càng được nâng cao, chiếm tỉ trọng ngày càng lớn. Điều này chứng tỏ công ty rất chú trọng nâng cao năng lực cho đội ngũ CBCNV, tuyển dụng thêm nhiều nhân viên mới có trình độ để hiện đại hoá lao động, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh doanh của công ty. + Số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp: chiếm một tỉ trọng không lớn lắm từ 1,54% đến 2% . Cụ thể năm 1999 số lao động này là 31 người chiếm tỉ trọng 1,95%. Đến năm 2000 có 38 người, chiếm 2% tỉ trọng và như vậy đã tăng so với năm 1999 là 7 người, tương ứng với tỉ lệ tăng 22,58% làm cho tỉ trọng lại giảm đi. Nguyên nhân chủ yếu do năm 2001 tổng số lao động của công ty tăng 66,95% so với năm 2000 điều này đã làm cho tỉ trọng về trình độ trung học chuyên nghiệp của năm 2001 chỉ có 1,54% trong khi đó năm 2000 là 2%. Năm 2002 con số này là 45 người, chiếm 1,41%. Như vậy đã giảm 0,59%, đây là một dấu hiệu tốt vì trình độ đại học, cao đẳng thì tăng lên còn trình độ trung học giảm đi. Điều này chứng tỏ một đội ngũ CBCNV của công ty giầy Thăng Long ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn, kĩ thuật. + Công nhân kĩ thuật bậc 5 năm 1999 có 53 người, chiếm tỉ trọng 3,34% và năm 2000 có 62 người, chiếm tỉ trọng 3,26% như vậy, công nhân kĩ thuật có tay nghề bậc 5 của năm 1999 đã tăng 9 người, tương ứng với tỉ lệ tăng 16,98% làm cho tỉ trọng giảm 0.07%. Năm 2001 có 90 người, chiếm tỉ trọng 2,84% tăng 28 người so với năm 2000 tương ứng với tỉ lệ tăng là 45,16%, năm 2002 con số này là 122 người, chiếm 3,51%. Nhìn chung, về trình độ tay nghề của công nhân viên trong công ty trong thời gian gần đây đều tăng lên rõ rệt. Điều này đánh giá cao sự quản lí và tuyển dụng công nhân viên của ban lãnh đạo công ty. + Công nhân kĩ thuật bậc 4 : Đây là lực lượng lao động chiếm tỉ trọng lớn trong toàn công ty. Năm 1999 là 992 người, chiếm tỉ trọng là 62,47% tổng số lao động. Năm 2000 con số này đã là 1182 người, tương ứng với tỉ trọng 62,21% tổng số lao động của năm 2000 và so với năm 1999 thì đã tăng lên 190 người, tương ứng với tỉ lệ tăng 19,15%. Năm 2001 con số này đã tăng một cách đáng kể.Tổng số CNV có tay nghề bậc 4 là 2330 người, chiếm tỉ trọng 73,46%. Và đã tăng so với năm 2000 là 1148 người, tương ứng với tỉ lệ tăng 97,12%. Năm 2002 là 2.486 người chiếm 71,60%. + Lao động phổ thông: Năm 1999 có 452 người chiếm tỉ trọng 28,46% năm 2000 có 553 người, chiếm tỉ trọng 29,11% và đã tăng 101 người so với năm 1999 tương ứng với tỉ lệ tăng là 22,35%. Năm 2001 thì đã tăng 72 người so với năm 2000 tương ứng với tỉ lệ tăng là 13,72%. Năm 2002 số này là 732 người tăng lên 107 người, chiếm 21,08% tổng số lao động. 3. Đánh giá công tác quản trị Marketing Công tác quản trị Marketing doanh nghiệp chưa đi sâu tìm hiểu thị trường, cải thiện mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu khách hàng. Chủ yếu là marketing hoàn thiện sản phẩm theo đơn đặt hàng để xuất khẩu. 3.1. Quyết định về sản phẩm xuất khẩu * Quyết định sản phẩm - Chủng loại sản phẩm xuất khẩu: Trong những năm vừa qua Công ty đã quyết định chủng loại sản phẩm xuất khẩu như sau: Bảng 5: Cơ cấu mặt hàng của Công ty giầy Thăng long. Tên hàng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Giầy vải 16.506 29.279 53.000 Giầy nam Cỡ 22-31 Cỡ 32-41 Cỡ 42-48 16.506 249 12.157 4.100 28.983 6.653 17.680 4650 52.492 12070 32.028 8.391 1.2Giầy nữ Cỡ 22-31 Cỡ 32-41 Cỡ 42-48 0 0 0 0 296 91 205 0 508 157 351 0 Giầy thể thao bằng da. Cỡ 21-31 Cỡ 32-41 Cỡ 42-48 1690 0 1690 0 2.016 0 2016 0 3127 0 3127 0 (Nguồn: Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty giầy Thăng Long năm 2000_ 2002) Qua bảng ta thấy hoạt động sản xuất và xuất khẩu của Công ty tập chung chủ yếu vào loại sản phẩm giầy vải nam, đây cũng là một mặt hàng truyền thông mà Công ty đã sản xuất và kinh doanh trong suốt những năm vừa qua. Còn loại giầy nữ và giầy thể thao bằng da xuất khẩu ở dạng cầm chừng, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số các loại giầy. - Quyết định về chất lượng hàng xuất khẩu: Khi sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, Công ty thông qua các quyết định chất lượng hàng xuất khẩu để đảm bảo giữ vững trên thị trường mục tiêu. Sử dụng các chỉ tiêu chất lượng đặc trưng quan trọng nhất của sản phẩm cho phép Công ty có sự đánh giá thật khách quan khoa học và chính xác. + Chỉ tiêu công dụng: Đặc trưng cho hiệu quả có ích của việc sử dụng sản phẩm theo công dụng. Đây là chỉ tiêu có vai trò trọng yếu trong việc đánh giá mức chất lượng sản phẩm. + Chỉ tiêu bảo quản. + Chỉ tiêu độ bền. + Chỉ tiêu công nghệ: đặc trưng chủ yếu cho nguyên liệu ban đầu. + Chỉ tiêu thẩm mỹ: màu sắc, kích cỡ, bố cục, bao bì,... + Chỉ tiêu kinh tế: đặc trưng cho chi phí chế biến, sản xuất, bán hàng, quảng cáo. - Quyết định về bao bì. Bao bì của sản xuất gồm 3 lớp: + Lớp trong là lớp trực tiếp chứa đựng hàng hoá thường được làm bằng các vật liệu polyeste, PVC biến tích với độ bóng và giúp làm sản phẩm nổi bật. + Lớp bao bì ngoài là vật liệu dùng để bảo vệ lớp bao bì trong và sẽ bỏ đi khi chuẩn bị sử dụng hàng hoá: bìa cát tông. + Nhãn hiệu và thông tin mô tả hàng hoá được đặt ngay trên bao gói hay đặt bên trong sản phẩm. Bao gói của Công ty có kiểu dáng phù hợp, thuận tiện cho việc vận chuyển và sử dụng. - Quyết định về nhãn mác: Với hình thức gia công xuất khẩu, Công ty không cần sử dụng nhãn mác của mình mà phải sử dụng nhãn mác của đối tác trên sản phẩm do mình làm ra. Đây là điều bất lợi với Công ty vì nó không làm nổi bật nhãn hiệu và hình ảnh của Công ty với khách hàng quốc tế. - Quyết định về phát triển sản phẩm. + Qua kết quả nghiên cứu khách hàng, theo yêu cầu của các đơn đặt hàng, Công ty tiến hành sản xuất, thiết kế các mẫu hàng mới hoàn toàn hoặc các sản phẩm có cải tiến và được khách hàng đánh giá cao. + Đối với mặt hàng gia công thì nguyên liệu và mẫu mã hoàn toàn do phía đối tác cung cấp do đó Công ty chỉ việc làm theo những yêu cầu đó. Đay là nguồn mẫu mã tốt giúp Công ty có thể bắt chước để thiết kế các sản phẩm của mình. * Quyết định về giá xuất khẩu. - Việc xác định giá xuất khẩu mặt hàng giầy vải được Công ty nghiên cứu các vấn đề sau: + Công ty xác định kỹ mục tiêu của mình, như đảm bảo việc xâm nhập thị trường, tối đa hoá lợi nhuận hay giành được vị thé trên thị trường. + Công ty xây dựng cho mình đồ thị đường cầu thể hiện số lượng hàng hoá chắc chắn sẽ bán được trên thị trường trong một khoảng thời gian cụ thể theo các mức giá khác nhau. Nhu cầu càng không co giãn thì mức giá do Công ty xác định càng cao. + Công ty tính toán xem tổng chi phí thay đổi như thế nào khi mức sản xuất khác nhau. + Công ty nghiên cứu giá cả của các đối thủ cạnh tranh để sử dụng làm căn cứ khi xác định vị trí giá cả cho hàng hoá của mình. + Lựa chọn kỹ thuật định giá của Công ty: định giá trên cơ sở tính toán các chi phí liên quan đến mỗi sản phẩm và cộng thêm lợi nhuận mục tiêu của Công ty. - Quyết định đồng tiền tính giá. Đồng tiền tính giá được Công ty sử dụng trong các trường hợp thường là các ngoại tệ mạnh, đảo bảo tính ổn định và hoán đổi như: USD, FRF,GBP, DM. - Quyết định chiết khấu: Để khuyến khích khách hàng mua với khối lượng lớn, thanh toán trước thời hạn, mua trái vụ, Công ty đã khuyến khích bằng những hình thức: + Chiết giá vì thanh toán sớm: Khách hàng khi thanh toán được hưởng chiết khấu trả sớm 1%. + Chiết khấu vì số lượng mua hàng: Khách hàng mua hàng với số lượng từ 1.000 _ 2000 đôi được hưởng chiết khấu 2% giá và từ 2000 đôi trở lên được hưởng 3% giá. + Chiết khấu thời vụ. - Quyết định giao hàng và thanh toán: + Điều kiện giao hàng: Các hợp đồng ký kết bởi công ty và các đối tác thường sử dụng phương pháp giao hàng theo FOB Hải Phòng hoặc FOB Nội Bài. + Điều kiện thanh toán: Để đảm bảo an toàn trong thanh toán, trước khi hợp đồng được ký kết, công ty đều yêu cầu phía đối tác mở L/C và chuyển tiền cho công ty tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với chi phí chuyển tiền do bên người nhập khẩu chịu. * Quyết định phân phối xuất khẩu. Hiện nay công ty giầy Thăng Long đang áp dụng 3 loại kênh phân phối sau: Kênh 1: Công ty xuất nhập khẩu trong nước Người nhập khẩu Thị trường tiêu thụ Công ty Việc sử dụng kênh phân phối này giống như hình thức xuất khẩu uỷ thác mà công ty uỷ quyền cho một đơn vị khác xuất khẩu hàng hộ mình. Các công ty nhận uỷ thác xuất khẩu cho công ty là công ty xuất nhập khẩu tổng hợp, công ty sử dụng cách này khi việc mở rộng thị trường đối với công ty là khó khăn và công ty không dám chấp nhận một rủi ro trong xuất khẩu. Tuy nhiên công ty cũng phải chi trả một lượng chi phí uỷ thác tương đối lớn và việc tiếp cận thực tế khó khăn, đây là những bất lợi của loại kênh này. Kênh 2: Người nhập khẩu Thị trường tiêu thụ Công ty Với kênh này, công ty ký kết các hợp đồng trực tiếp với khách hàng nước ngoài. Đây là kênh được công ty sử dụng nhiều nhất vì nó đem lại cho công ty nhiều lợi ích. Công ty vừa có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với các đối tác, vừa phải đảm bảo về mặt tối đa hoá lợi nhuận do không phải chia sẻ với người khác. Những ý kiến phản hoòi từ phía khách hàng là những thông tin hữu ích giúp công ty hoàn thiện quá trình sản xuất kinh doanh. Hãng buôn xuất khẩu Thị trường tiêu thụ Công ty Kênh 3: Công ty xuất khẩu hàng hoá thông qua hàng buôn xuất khẩu của nước ngoài đặt tại Việt Nam. Khi giao dịch với các hãng này Công ty gặp thuận lợi giống như việc bán hàng trong nước vì công ty không phải xin giấy phép xuất khẩu vận chuyển hàng hoá. Mặt khác sử dụng kênh này cũng cung cấp những thông tin nhanh nhất, ít tốn kém chi phí cho công ty vì khách hàng được trực tiếp việc mua đứt bán đoạn tại trong nước. 3.2. Quyết định xúc tiến thương mại Trong thời gian qua, công ty đã sử dụng các hình thức XTTM sau: * Quảng cáo: Để kích thích việc tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường, công ty tiến hành quảng cáo trên nhiều phương tiện thông tin trong cũng như ngoài nước. Nội dung quảng cáo bao gồm những khía cạnh: +Thông báo cho thị trường về sản phẩm mới hay ứng dụng mới của sản phẩm. + Thông báo sự thay đổi giá. + Giải thích các nguyên tắc sử dụng hàng hoá. + Mô tả dịch vụ. + Giới thiệu hình ảnh Công ty. Các phương tiện quảng cáo. + Các báo chí, tập san trong và ngoài nước. + Lịch, sổ tay có in về Công ty. + Bưu phẩm gửi trực tiếp và thư riêng. * Xúc tiến bán: Công ty sử dụng các hình thức sau: + Catalog: Được in ấn bằng tiếng nước ngoài với những thông tin cần thiết về sản phẩm như màu sắc, kích cỡ, chất lượng và chủng loại các mặt hàng. + Hàng mẫu: Công ty gửi hàng mẫu đến tận tay các đối tác để họ có những đánh giá chính xác về sản phẩm của Công ty. Các danh mục hàng mẫu được Công ty thiết kế và sản xuất đạt được các thông số, kiểu dáng chuẩn nhất, chất lượng tốt nhất để gây được phản ứng tích cực của người nhận. * Xác định chi phí cho xúc tiến thương mại của Công ty: Với khả năng sản xuất kinh doanh còn hạn chế, nên nguồn kinh phí mà Công ty giành cho hoạt đông xúc tiến thương mại là rất nhỏ. Thông thường Công ty xác định chi phí cho xúc tiến thương mại theo phần trăm doanh số bán của từng năm. Tuy nhiên các hoạt động xúc tiến chỉ diễn ra trong những thời kỳ nhất định khi Công ty muốn mở rộng thị trường hoặc muốn định vị lại hình ảnh của Công ty. IV. Các kết quả đạt được và một số hạn chế 1. Các kết quả đạt được - Nhờ những cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty, sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp chỉ đạo đề ra kế hoạch và bộ phận thực hiện, sự huy động tối đa mọi nguồn lực, Công ty giầy Thăng Long đã từng bước khắc phục được sự hụt hẫng về thị trường tiêu thụ sản phẩm, kim ngạch qua các năm tăng lên. Nguyên nhân kiến cho Công ty ngày càng thu hút được nhiều đơn đặt hàng có giá trị lớn đó là do Công ty đã biết tận dụng thế mạnh của mình so với các quốc gia xuất khẩu giầy khác trong khu vực. Nguồn nguyên liệu tự nhiên sẵn có, chi phí nhân công rẻ cùng với chính sách khuyến kích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. - Kim ngạch xuất khẩu ủa Công ty hàng năm đều tăng lên với mức tăng đáng kể trong khi đó số lượng giầy xuất khẩu không tăng nhiều. Điều này chứng tỏ Công ty đã từng bước nâng cao được giá của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Công ty đã hướng hoạt động kinh doanh vào loại sản phẩm có giá trị cao, mẫu mã tương đối phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. - Nhận thức được năng lực hiện có của Công ty không đủ vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu rộng lớn của toàn bộ thị trường, Công ty đã loại bỏ dần các thị trường phụ, tập trung vào các thị trường chính EU. - Để có thể giảm bớt chi phí và cải tiến bộ máy hoạt động của mình, Công ty giầy Thăng Long thực hiện giảm bớt lực lượng quản lý, khai thác và sử dụng đội ngũ cán bộ có hiệu quả. Công ty giầy Thăng Long đã xây dựng được một mô hình quản lý tương đối hoàn chỉnh và hoạt động hiệu quả. Các phòng ban quản lý và bộ phận sản xuất phối hợp với nhau một cách linh hoạt, hợp lý và nhịp nhàng. - Nâng cao trình độ người lao động chính là biện pháp tăng lợi nhuận Công ty, nâng cao văn minh doanh nghiệp, Công ty luôn tạo mọi điều kiện về thời gian, giúp đỡ vật chất để cho cán bộ công nhân viên trong Công ty có thể tham gia các khoá đào tạo, nâng cao tay nghề, trình dộ học vấn và nhận thức của mỗi người. 2. Một số hạn chế của Công ty cần được khắc phục. Mặc dù đã đạt được một số thành công nhất định, tuy nhiên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình Công ty giầy Thăng Long cũng vấp phải một số tồn tại cần được khắc phục. Thứ nhất, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn còn dựa vào các kế hoạch sản xuất và kinh doanh do Tổng công ty đưa xuống điều này khiến cho Công ty không chủ động trong hoạt động của mình. Ngoài ra,việc sản xuất hiện nay của Công ty hầu như chỉ được thực hiện khi có đơn đặt hàng do ccs bạn hàng đem đến, nó không cho phép Công ty thấy được định hướng trong dài hạn không làm cho Công ty nhận biết được cônh việc phải làm trong cả một giai đoạn. Thứ hai, Công ty đã xây dựng cho mình chiến lược về mặt hàng, lấy mặt hàng giầy vải nam làm sản phẩm chủ đạo nhưng các sản phẩm xuất khẩu của Công ty chưa đảm bảo đa dạng về chủng loại mẫu mã. Công ty giầy Thăng Long với mặt hàng giầy vải nam chỉ đáp ứng được một bộ phận nhỏ dân số trong khi nhu cầu các sản phẩm khác như giầy da, giầy thể thao,giầy nữ, giầy trẻ em,... lớn hơn rất nhiều thì lại không đáp ứng được. Công tác thiết kế mẫu chưa được Công ty quan tâm đúng mức, mẫu mã chủ yếu là do khách hàng đem đặt. Điều này khiến cho sản phẩm của Công ty kém lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm của các hãng khác như Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc. Chất lượng sản phẩm còn ở mức trung bình. Thứ ba, do chưa chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường và quảng cáo sản phẩm, quảng cáo nhãn hiệu của Công ty mà khách hàng hiện nay của Công ty giầy Thăng Long chưa nhiều về số lượng, đa số là khách hàng quen biết lâu năm. Công ty chưa lôi kéo được khách hàng, chỉ có một số ít khách hàng tự tìm đến với Công ty. Vì thế, phương thức kinh doanh của Công ty thường bị động, không thể dự đoán được mỗi năm có bao nhiêu đơn vị đặt hàng bởi bạn hàng thường ngẫu nhiên. Thứ tư, Công ty giầy Thăng Long thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ kinh doanh trong môi trường thương mại quốc tế. Trong công tác giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài, rất dễ bị lúng túng và đôi khi đưa ra những quyết định sai lầm, không đạt mục tiêu đề ra, Công ty thường để mất thế chủ động vào tay khách hàng vì vậy gây bất lợi lớn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty. Thứ năm, trong công tác sản xuất hàng xuất khẩu, tuy Công ty đã tích cực tìm kiếm nguồn nguyên liệu trong nước nhưng vẫn còn một số nguyên liệu chưa thể tìm được nguồn thay thế, vẫn phải trông chờ từ việc nhập khẩu từ nước ngoài. Mặc dù vậy, việc nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài không phải lúc nào cũng đáp ứng kịp tiến độ thực hiện đơn đặt hàng kéo theo sự bị động, chậm trễ trong xuất khẩu các sản phẩm của Công ty. Thứ sáu, nguồn vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn còn hạn hẹp do chưa huy động hết mọi nguồn vốn có thể. Nguồn vốn Nhà nước cấp quá nhỏ bé nếu so với nhu cầu đổi mới và trang bị công nghệ tiên tiến. Hoạt động kinh doanh của Công ty chưa đảm bảo cho các nhà kinh doanh an tâm đầu tư. Tuy đã từng bước đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu, tăng doanh thu nhưng hiệu quả sử dụng vốn của Công ty chưa đạt yêu cầu, thể hiện ở việc tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư chưa cao. Qua phân tích, ta có thể nhận thấy nguyên nhân của những tồn tại trên là do từ khi thành lập đến nay, việc sản xuất kinh doanh của Công ty giầy Thăng Long thực hiện theo các chỉ tiêu của Tổng công ty cũng đồng thời là định hướng dài hạn mà Công ty cần phải vươn tới. Do đó, Công ty thiếu tính chủ động trong hoạt động của mình. Các khả năng nắm bắt cơ hội, các mối đe doạ đến khả năng cạnh tranh của Công ty ngày càng gia tăng theo chiều hướng xấu. Để khắc phục những vấn đề tồn tại trên, giải pháp tốt nhất cho Công ty là xây dựng một chiến lược kinh doanh thích ứng với sự biến động và cạnh tranh gay gắt của môi trường kinh doanh tương lai. V. Phương hướng kinh doanh của công ty trong thời gian tới Công ty giầy Thăng Long trực thuộc Tổng công ty da giầy Việt Nam, là một công ty Nhà nước, công ty phải đối phó với không ít những biến động và biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh trong cơ chế mới. Bên cạnh đó, những khó khăn về thị trường, năng lực thực tế cạnh tranh, vốn là những vấn đề đang được đặt ra đòi hỏi công ty phải có những biện pháp giải quyết. Công ty đã xác định cho mình một định hướng phát triển trong tương lai. trước hết, công ty tăng cường công tác cho cán bộ công nhân viên, ổn định tổ chức, giải quyết công ăn việc làm và tạo nên sự yên tâm tư tưởng để cán bộ công nhân viên hiểu rõ những thuận lợi, khó khăn của công ty, từ đó thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc đóng góp xây dựng công ty. Công ty sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh theo hướng đa dạng hóa mặt hàng trong đó giầy vải xuất khẩu là then chốt. Ngoài ra công ty đang mở thêm hướng xây dựng, điện, giao thông, và một số ngành hàng phục vụ kinh tế dân sinh. Với những định hướng như vậy, công ty cũng đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu đối với từng bộ phận. Cụ thể đối với bộ phận sản xuất, công ty xác định: Cần tăng cường cải tiến hợp lý hoá dây chuyền sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, tăng thu nhập, khuyến khích phát huy sáng kiến, khuyến khích các biện pháp nâng cao tay nghề cho công nhân đặc biệt quan tâm đến những công nhân có tay nghề còn thấp. Đối với bộ phận kinh doanh, công ty xác định cần thực hiện một số nhiệm vụ sau: Giữ vững bạn hàng truyền thống, phát triển theo hướng đa dạng hoá ngành nghề, có thể tăng cường hình thức hàng đổi hàng để có thể quay vòng chắc và có lợi hơn; mở rộng phát triển thị trường; thực hiện nghiêm chỉnh Luật thuế mới, thực hiện khoán quản có hiệu quả; giữ vững mối quan hệ có hạn ngạch, đồng thời phát triển thị trường phi hạn ngạch. Tăng cường phát triển những ngành hàng mới bên cạnh những ngành then chốt là da giầy. Mục tiêu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đạt 1.050.000 triệu VNĐ. Cùng với việc đề ra phương hướng, nhiệm vụ cũng như tích cực tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm hỗ trợ hoạt động của bộ phận sản xuất và bộ phận kinh doanh, Công ty cũng quan tâm và cố gắng hoàn thiện công tác quản lý, công ty tiến hành tinh giảm lao động quản lý, tăng cường lực lượng lao động trực tiếp. Công ty giầy Thăng Long đã xây dựng được một mô hình quản lý tương đối hoàn chỉnh và hoạt động hiệu quả. Các phòng ban quản lý và xí nghiệp sản xuất phối hợp với nhau một cách linh hoạt hợp lý và nhịp nhàng. Trên đây là một số mục tiêu và phương hướng mà công ty đề ra để thực hiện trong thời gian tới. Tuy nhiên trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn như hiện nay, với nguồn vốn và quy mô còn hạn chế thì việc thực hiện đúng mục tiêu này là hoàn toàn không dễ dàng. Kết luận Xuất nhập khẩu là tất yếu khách quan và có vai trò hết sức quan trọng đối với các quốc gia. Đặc biệt là ở nước ta, xuất khẩu là con đường đi tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách nhanh nhất. Kinh doanh trong nước trong điều kiện kinh tế thị trường đã khó, kinh doanh xuất khẩu còn khó hơn nhiều bởi đây là quan hệ kinh tế quốc tế. Song dù khó khăn và phức tạp đến đâu, nếu có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, thông qua chính sách vi mô, sự vận dụng năng lực sáng tạo của công ty phát triển hơn nữa, công ty sẽ nâng cao được uy tín của mình trên thị trường. Với kiến thức được trang bị ở trường, cùng với sự tìm hiểu thực tế để đi tới một số kiến nghị với mong muốn góp phần đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của công ty, tôi hy vọng cùng với thời gian, công ty ngày càng vững mạnh và phát triển không ngừng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC033.doc
Tài liệu liên quan