Mục lục
Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Đối tượng nghiên cứu 3
6. Khách thể nghiên cứu 3
7. Phạm vi nghiên cứu 3
Nội dung 4
A. Cơ sở lý luận của đề tài 4
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
2. Khái niệm giao tiếp 7
1. 1. Các định nghĩa về giao tiếp 7
2. 2. Đặc trưng giao tiếp 8
2. 3. Các chức năng giao tiếp 1
2. 4. Các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp 1
2. 5. Các vai trò xã hội trong giao tiếp 1
2. 6. Các kiểu hành vi trong giao tiếp 1
2. 7. Phân loại giao tiếp. 1
2. 8. Vai trò của giao tiếp 1
B. Nghiên cứu thực tiễn 1
1. Nhận thức tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày 1
2. Mục đích giao tiếp 1
3. Đối tượng giao tiếp 2
4. Mức độ thân thiết và gần gũi của những người dân 2
5. Các kiểu hành vi ứng xử trong khi giao tiếp 2
6. Nội dung giao tiếp 3
7. Các loại giao tiếp 4
8. Hình thức giao tiếp 4
9. Các nhân tố ảnh hưởng. 4
Kết luận và kiến nghị 4
1. Kết luận 4
2. Kiến nghị 4
Tài liệu tham khảo 5
Phiếu trưng cầu ý kiến
48 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1985 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập Đặc điểm giao tiếp của người dân phố cổ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m lịch sử loài người.
Thứ năm, giao tiếp xã hội là sự lan truyền lây lan các cảm xúc tâm trạng.
2. 3. Các chức năng giao tiếp
* Chức năng thông tin liên lạc
Chức năng này bao quát tất cả các quá trình truyền và nhận thông tin. Hiệu quả của quá trình trao đổi thông tin phụ thuộc cả vào người nhận. Những khác biệt về ngôn ngữ, trình độ nghề nghiệp, vốn hiểu biết và định hướng giá trị sẽ làm cho quá trình trao đổi thông tin gặp ách tắc cản trở. Trong quá trình giao tiếp không có sự phân cực giữa người phát và người nhận thông tin, luôn đổi vai trò cho nhau, tạo nên sự tác động ngược lại, hoặc sự liên hệ ngược. Thành công của giao tiếp phụ thuộc vào hiểu biết bản thân mình và hiểu biết người khác trong quá trình này sự kích thích lẫn nhau và điều chỉnh lẫn nhau được thực hiện
* Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi
Chức năng này chỉ có ở con người với sự tham gia của quá trình nhận thức, cuả ý chí và tình cảm.
Chức năng điều khiển điều chỉnh hành vi trong giao tiếp thể hiện khả năng thích nghi lẫn nhau, khả năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau của các chủ thể giao tiếp, ngoài ra nó còn thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo của các phẩm chất tâm lý cá nhân trong giao tiếp, thể hiện vai trò tích cực của chủ thể giao tiểptong quan hệ giao tiếp
* Chức năng kích động liên lạc
Chức năng này liên quan đến lĩnh vực cảm xúc của con người trong quá trình giao tiếp con người không chỉ truyền thông tin cho nhau hay có tính điều chỉnh lẫn nhau mà còn là yếu tố quan trọng xác định trạn thái cảm xúc của con người
2. 4. Các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp
Nhà nghiên cứu truyền thông Larwell đã đưa ra một số yếu tố cần quan tâm khi truyền đạt thông tin
* Ai? ( chủ thể giao tiếp):
Đây là người tham gia vào quá trình giao tiếp. Chủ thể giao tiép với các đặc điểm cá nhân như tri thức và trình độ hiểu biết, các đặc điểm ngoại hình, tâm lý và xã hội tham gia vào các quá trình giao tiếp. Quá trình giao tiếp còn phụ thuộc khá nhiều vào cách mà chủ thể nhìn nhận đánh giá vấn đề hay đánh giá bản thân.
*Nói gì? ( nội dung và mục đích giao tiếp).
Nội dung của giao tiếp luôn được xác định từ trước trên cơ sở những mục tiêu cụ thể mà chủ thể muốn đạt tới. Mục đích giao tiếp thường nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó: Nhu cầu trao đổi thông tin, nhu cầu chia sẻ tình cảm, nhu cẩu giải trí, nhu cầu khẳng định bản thân trứoc người khác.
*Với ai?( đối tượng giao tiếp):
Hiệu quả giao tiếp không chỉ phụ thuộc vào người nói mà còn phụ thuộc vào người nghe. Nhiều khi đối tượng giao tiếp, tiếp nhận thông tin khác xa so với những gì mà chủ thể truyền đạt. Sự khác nhau này phụ thuộc vào những đặc điểm cá nhân riêng của họ: trình độ học vấn, nghề nghiệp, tuổi tác, giới tinh, quan điểm sống, nhu cầu động cơ cá nhân… do vậy, để giao tiếp thành công chủ thể giao tiếp cần tìm hiểu đối tượng giao tiếp của mình thông qua việc quan sát đối tượng, nắm bắt sự đáp ứng của họ và điều chỉnh kịp thời cho phù hợp.
*Bằng cách nào?( các phương tiện giao tiếp)
Được thực hiện thông qua hệ thông tín hiệu ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, ký hiệu và giao tiếp phi ngôn ngữ
*Hoàn cảnh giao tiếp
Phụ thuộc địa điểm, thời gian trong quá trình giao tiếp được thực hiện
*tâm trạng của người được giao tiếp
Tâm trạng của chủ thể giao tiếp ảnh hưởng đến thái độ, quan điểm. cách nhìn nhận vấn đề, phong cách ứng xử và xu hướng nhận định, đánh giá vấn đề của họ.
*Lây truyền cảm xúc.
Sự lây truyền cảm xúc có thể làm cho quá trình giao tiếp có hiệu quả khác nhau, chủ thể có xu ướng truỳen cảm xúc, tâm trạng hoặc tích cực hoặc tiêu cực cho đối tượng giao tiếp và ngược lại
2. 5. Các vai xã hội trong giao tiếp.
Trong vấn đề giao tiếp cua Nguyễn Hiến Lê, đưa ra hai kiểu phân loại các vai:
Theo kiểu thứ nhất: tác giả phân biệt ba loại vai:
Vai thường xuyên: được đặc trưng bởi lứa tuổi, nghề nghiệp
Vai lâm thời – thể chể: như giáo viên – học sinh, thủ trưởng nhân viên, cha mẹ - con cái, vợ - chồng
Vai lâm thời – tình huống: giữa người mua với người bán, giữa hai ngườiva chạm xe trên đường…
Theo cách thứ hai: tác giả phân biệt:
Vai người nói ngang hàng với người nghe
Vai người nói cao hơn người nghe
Vai người nới thấp hơn người nghe
2. 6. Các kiểu hành vi trong giao tiếp.
+ Hành vi thụ động:
Đây là biểu hiện củ anhững người luôn luôn thụ động, họ luôn hành động theo ý người khác, không dám nói ý kiến riêng của mình vì sợ làm mất lòng người khác, họ tự phủ dịnh mình, chờ ngừoi khác quyết định thay cho bản thân
+ Hành vi lấn át gián tiếp:
Khi giao tiếp cá nhân không dám phát biểu khẳng định ý kiến của mình, mà giả với đồng tình với người giao tiếp, bề ngoài cá nhân khong trực tiếp phẩn đối ý kiên của đối tác mà họ hi vọng đối tác sẽ ngầm hiểu mình.
+ Hành vi lấn át:
Những người luôn luôn áp đặt, ra lệnh cho người khác thích tham gia và quyết định mọi chuyện cho người khác. Họ luôn muốn thắng thế trong các cuộc tranh luận, giành mọi phần lợi về mình thậm chí có những lời nói xúc phạm đến người khác.
+ Hành vi tự khẳng định mình:
Là hành vi của những người tự trọng, biết bảo vệ quyền lợi và ý kiến riêng của mình trong sự tôn trọng và không xúc phạm người khác. Họ diễn đạt nhu cầu ước muốn của mình nhưng không làm hại đến những điều đó của người khác
2. 7. Phân loại giao tiếp.
a. Căn cứ vào tính chất trực tiếp hay gián tiếp của quá trình giao tiếp:
* Giao tiép trực tiếp: là sự tiép xúc trao đổi giữa các chủ thể giao tiếp, được thực hiện trong cùng một khoảng thời gian và không gian nhất định. Giao tiếp trực tiếp còn được gọi là đàm thoại
* Giao tiếp gián tiếp: là loại giao tiép được thực hiện thông các phương tiẹn trung gian như: điện thoại, thư tín, sách báo, tivi…
b. Căn cứ vào mục đích của giao tiếp:
* Giao tiếp chính thức: là giao tiép giữa các cá nhân đại diện cho nhóm, hoặc giữa các nhóm mang tính hình thức được thực hiện theo các nghi lễ nhất định, đựoc quy định bởi các chuẩn mực xã hội hay pháp luật
Trong các giao tiếp chính thức nội dung giao tiếp thường rõ ràng, khúc triết, ngôn ngữ đóng vai tro chủ đạo.
* Giao tiếp không chính thức: Là giao tiếp không mang tính hình thức, Không có sự quy định về nghi lễ, đó là giao tiếp giữa cá nhân và nhóm mang tính chất cá nhân, khôgn đại diện cho ai cả
c. Căn cứ vào đối tượng giao tiếp:
* Giao tiếp theo số lượng người tham gia:
- Giao tiếp sóng đôi: là giao tiếp trong đó đối tượng và chủ thể là hai cá nhân tiếp xúc với nhau, là hình thức giao tiếp cơ bản đầu tiên và phổ biến hơn cả trong các hình thức giao tiếp
- Giao tiếp nhóm: là giao tiếp giữa cá nhân với nhóm hoặc giữa các thành viên trong nhóm và ngoài nhóm với nhau. Đây là kiểu giao tiếp đại trà
* Giao tiếp mang tính chất nghề nghiệp:
Các nghề khác nhau cũng quy định các hình thức giao tiếp khác nhau, có bao nhiêu nghề đặc trưng thì có bấy nhiêu hình thức giao tiếp.
2. 8. vai trò của giao tiếp.
Giao tiếp giữ vai trò đặc biệt qua trọng đảm bảo việc định hướng cho sự tác động và tham gia vào quá trình thực hiện kiểm tra hoạt dộng của con người. Giao tiếp như chiếc cầu nối tinh thần làm cho con người xích lại gần nhau hơn, giúp con người trao đổi thông tin và kinh nghiệm, giúp con người tự nhận thức về mình qua người khác để từ đó phát triển hơn về mặt nhân cách. Giao tiếp là nhu cầu không thể thiếu của con người.
Giao tiếp nhằm hình thành, phát triển và vận hành các mối quan hệ người người, giao tiếp đặc trưng cho tâm lý người.
Giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong viẹc hình thành và phát triển con người. qua giao tiếp con người hình thành nên những mối quan hệ xã hội, sự phong phú cac mối quan hệ xã hội sẽ làm phong phú cho đời sống nhân cách của cá nhân. Những nét đặc trưng tâm lý của con người đều được hình thành và phát triển thông qua giao tiếp. Bằng tấm gương giao tiếp chủ thể tự điều chỉnh chính mình cho phù hợp với chuẩn mực xã hội, giao tiếp là cơ chế bên trong cho sự tồn tại và phát triển của mỗi người. Nhờ giao tiếp con người có những thông tin về bản thân và về những nguwoif khác, từ đó họ có thể so sánh đối chiếu để tự đánh giá bản thân mình. Nói cách khác, qua giao tiếp con người biết được giá trị xã hội của nguwoif khác, của bản thân tạo cơ sở cho quá trình giao dục và tự giao dục bản thân chủ thể giao tiếp
B. Nghiên cứu thực tiễn
1. Nhận thức tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày.
Để tìm hiểu nhận thức tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống của chính người dân phố cổ chúng tôi đã đưa ra câu hỏi tục ngữ có câu: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, theo ông (bà) điều này có đúng không? (câu 1).
Kết quả thu được là:
STT
Phương án
n
%
1
Rất đúng
49
32, 67
2
Đúng
94
62, 67
3
Không đúng
7
4, 66
Qua bảng số liệu chúng tôi thấy phần lớn người dân chọn phương án 2 chiếm tỷ lệ cao nhất có 94 người (62, 67%). Điều đó chứng tỏ người dân nhận thấy được vai trò của những người hàng xóm mình. Họ cho rằng những người hàng xòm là những người thường xuyên tiếp xúc qua lại, có thể giúp đỡ họ những lúc khó khăn hoạn nạn một cách kịp thời nhất, như ca dao xưa cũng từng nói “tối lửa tắt đèn có nhau”. Nhưng bên cạnh đó lại có một người không đồng tình với quan điểm đó, có 7 người (4, 66%). Vì họ cho rằng với cuộc sống thực tại ngày nay thì con người thay đổi rất nhiều, mọi người sống không có tình người nữa, thờ ơ, biệt lập nhau, sống theo quan niệm nhà nào nhà nấy lo, chẳng đoái hoài đến hàng xóm láng giềng cả, thời đại của đồng tiền đã làm mất đi hết tình cảm của con người, họ thường chạy theo đồng tiền mà quên hết những nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Điều đó chứng tỏ trong họ đã mất hết niềm tin vào những người hàng xóm của mình.
Dường như câu tục ngữ đó chỉ đúng cho trước kia, mọi người đề cao tình cảm của con người. Ngày nay thì họ đã quên đi điều đó lúc nào không ai hay.
2. Mục đích giao tiếp:
Hoạt động nào cũng có mục đích của nó, mục đích là cái mà chúng ta hướng tới, khi chúng tôi đưa ra câu hỏi nhằm tìm hiểu mục đích giao tiếp của người dân “xin ông (bà) cho biết mức độ quan trọng của những nội dung sau, bằng việc giao tiếp với những người hàng xóm xung quanh” thì có được bảng số liệu sau:
STT
Nội dung
Mức độ
Quan trọng
Bình thường
Không quan trọng
ĐTB
X. h
n
%
n
%
n
%
1
Trao đổi thông tin
64
42, 67
76
50, 67
10
6, 66
2, 35
5
2
Giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau khi gặp khó khăn
113
75, 33
34
22, 67
6
4
2, 75
5
3
Hiểu biết lẫn nhau
84
56
62
41, 33
4
2, 67
2, 53
3
4
Tạo sự thoải mái, vui vẻ trong cuộc sống
105
70
43
28, 67
2
1, 33
2, 42
4
5
Tạo mối quan hệ cần thiết
69
46
75
50
6
4
2, 69
2
Qua bảng số liệu, chúng tôi thấy rằng:
Mục đích “giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau khi gặp khó khăn” có tỷ lệ lựa chọn cao nhất: 113 người (75, 33%) cho rằng đó là mục đích quan trọng nhất. Đây cũng là mục đích rất đúng đắn, chứng tỏ họ nhận thấy sự cần thiết của những hàng xóm và họ hiểu rằng cuộc sống của con người không phải lúc nào cũng như mong muốn, điều quan trọng nhất của con người là lúc khó khăn hoạn nạn được sự giúp đỡ đùm bọc chia sẻ của hàng xóm. Nhưng trên thực tế thì muốn người khác giúp đỡ mình đùm bọc chia sẻ với mình thì trước hết mình phải làm những việc đó trước.
Mục đích “tạo sự thoải mái, vui vẻ trong cuộc sống” đứng vị trí thứ 2 có 105 người (70%) cho rằng đây là mục đích quan trọng. Cuộc sống chỉ thấy đẹp khi con người cảm thấy thoải mái vui vẻ. Đây là ước mơ của nhiều người, không chỉ riêng ai, khi tâm hồn được thoải mái thì họ yêu cuộc sống thế gian này hơn, quý trọng thời gian, không phải tự mình có thể làm được mà cần rất nhiều yếu tố chi phối, đặc biệt là giao tiếp.
Mục đích “hiểu biết lẫn nhau” có 84 người (56%) cho là rất quan trọng. Chúng ta cho rằng đây là một mục đích đáng quý, giao tiếp để hiểu biết lẫn nhau, khi hiểu nhau chúng ta sẽ sống với nhau tốt hơn.
- Mục đích “tạo ra mối quan hệ cần thiết” có 69 người (46%) cho rằng là quan trọng. Tạo lập được một mối quan hệ cần thiết không phải là dễ, đó là cả một vấn đề, khi tạo lập được rồi thì rất tốt cho cuộc sống.
Mục đích “trao đổi thông tin” có 64 người (42, 67%) cho là quan trọng, đây là mục đích mà ít người lựa chọn nhất, điều đó chứng tỏ rằng người dân cũng ý thức được có những thông tin mình không biết, thông qua giao tiếp với những người xung quanh họ có thể biết.
Để thấy rõ sự sắp xếp vị trí của các mục đích này ta xem xét biểu đồ sau, với quy ước điểm trung bình: quan trọng 3 điểm; bình thường 2 điểm, không bình thường 1 điểm.
Biểu đồ: Mục đích giao tiếp của người dân phố cổ (tính theo điều trung bình).
C¸c môc ®Ých
§iÓm trung b×nh
2, 69
3
2
1
0 1 2 3 4 5
2, 36
2, 75
2, 53
2, 42
Chú giải:
1. Giao tiếp để trao đổi thông tin
2. Giao tiếp để giúp đỡ những khó khăn
3. Hiểu biết lẫn nhau
4. Tạo mối quan hệ thân thiết
5. Tạo sự thoải mái vui vẻ trong cuộc sống.
Qua biểu đồ nhận thấy mục đích giao tiếp để giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau khi khó khăn có tỷ lệ lựa chọn cao nhất với điểm trung bình 2, 75. Chúng tôi cho rằng sở dĩ đây là mục đích cao nhất của người dân phố cổ vì phần lớn họ cảm nhận thấy trong cuộc sống không bao giờ êm đẹp như mình nghĩ, mà có rất nhiều lúc trắc trở khó khăn cần phải có sự giúp đỡ đùm bọc của những người xung quanh, điều đó là rất cần thiết.
Mục đích giao tiếp để “trao đổi thông tin” có điểm trung bình thấp nhất 2, 36. Chúng tôi cho rằng mục đích này ở vị trí thấp nhất là vì người dân hiện nay chỉ một số người có tư tưởng mối giao tiếp để trao đổi thông tin, phần lớn họ có những mục đích lớn hơn, đem lại những lợi ích cho bản thân nhiều hơn. Liên hệ với mục đích “tạo mối quan hệ cần thiết” ở vị trí thứ hai 2, 69 điểm. Đây là hai mục đích khỏc nhau về bản chất nhưng lại chung nhau về tìm hiểu xem người đó có thể tin cậy được không.
3. Đối tượng giao tiếp.
Để tìm hiểu đối tượng giao tiếp của người dân, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi “xin ông (bà) cho biết những người mà ông (bà) muốn giao tiếp là” (câu 20) kết quả thu được là.
STT
đối tượng giao tiếp
n
%
1
Tôi muốn giao tiếp với tất cả mọi người
114
76
2
Tôi chỉ muốn giao tiếp với những người mang lại lợi ích cho bản thân tôi
20
13, 3
3
Tôi rất hạn chế giao tiếp với mọi người
16
10, 7
Qua bảng số liệu chúng ta thấy:
Phần lớn mọi người được hỏi thì đều trả lời họ muốn giao tiếp với mọi người. Điều đó chúng tỏ họ muốn giao tiếp với tất cả mopị người bất kể người đó như thế nào, người đó có thiện cảm hay không có thiện cảm.
Có 20 người (13, 3%) lại cho rằng họ chỉ muốn giao tiếp vói những người mang lại lợi ích cho bản thân họ. Điều đó chứng tỏ họ chỉ muốn giao tiếp với những người có chức có quyền trong xã hội để được hưởng hoa hồng từ phía họ. Với thực tại hiện nay vấn đề này đang có chiều hướng ra tăng, cần phải có những suy nghĩ đúng đắn hơn.
Có 16 người (10, 7%) cho rằng họ rất hạn chế giao tiếp với mọi người. Điều này cũng rất đúng với những người phố cổ nói riêng và người dân Hà Nội nói chung. Họ rất ít tiếp xúc với những người xung quanh của mình, họ chỉ giao tiếp khi cần thiết, ngoài ra họ thường ở trong nhà làm những việc riêng.
4. Mức độ thân thiết và gần gũi của những người dân.
Khi chúng tôi đặt ra câu hỏi nhằm tìm hiểu về mức độ thân thiết và gần gũi của những người dân sống cùng ngõ xóm “xin ông (bà) cho biết khi tiếp xúc với những người xung quanh ông (bà) cảm thấy như thế nào? (câu 11). kết quả thu được:
STT
Múc độ
n
%
1
Tôi cảm thấy thoải mái với tất cả mọi người
39
26
2
Tôi chỉ cảm thấy thoải mái với một số người
111
74
3
Tôi không cảm thấy thoải mái với bất kỳ ai
0
0
Qua bảng số liệu chúng ta thấy rằng chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất thuộc về ý kiến cho rằng “tôi chỉ cảm thấy thoải mái với một số người” là 74%. Điều đó chứng tỏ rằng mức độ thân thiết, gần gũi của những người dân sống cùng ngõ xóm hầu như là rất ít. Nếu như họ nói rằng chỉ cảm thấy thoải mái với một số người thì đây có thể là những người họ hàng thân quen, những người họ có thiện cảm, những người bạn bè hay hàng xóm thân thiết, còn ngoài ra họ không quan tâm đến những người khác. Đây là một thực trạng thường xuyên xảy ra đối với người dân phố cổ nói riêng và người dân Hà Nội nói chung. Thông thường họ sống theo kiểu “đèn nhà ai nhà ấy rạng” lạnh lùng và vô cảm đối với cuộc sống của những người mà họ cảm thấy không cần thiết phải biết đến. Chính vì điều này đã làm cho tính cố kết cộng đồng ngày càng giảm đi.
Có 39 người chiếm 26% lại đưa ra ý kiến rằng họ cảm thấy thoải mái với tất cả mọi người. Nhưng số lượng những người đó là không nhiều. Những người này thường rất thích giao tiếp với tất cả mọi người.
Trong số những người được hỏi thì không người nào chọn ý kiến “tôi không cảm thấy thoải mái với bất kỳ ai. Như vậy hầu như người nào cũng có những người bạn thân thiết của riêng mình. Để thấy rõ sự tương quan giữa đối tượng giao tiếp và mức độ thân thiết của người dân, chúng ta cũng đi xem xét biểu đồ sau:
74
76
80
60
40
26
13, 3
10, 7
20
0 1 2 3
Biểu đồ so sánh câu 11 và câu 20
Đối tượng giao tiếp
Mức độ thân thiện
Chú giải:
1. Tôi muốn giao tiếp với tất cả mọi người
- Tôi cảm thấy thoải mái với tất cả mọi người.
2. Tôi chỉ muốn giao tiếp với những người mang lại lợi ích cho bản thân tôi.
- Tôi chỉ cảm thấy thoải mái với một số người.
3. Tôi rất hạn chế giao tiếp với tất cả mọi người.
- Tôi không cảm thấy thoải mái với bất kỳ ai.
Qua đó chúng ta có thể thấy mức độ tương quan quan giữa đối tượng giao tiếp với mức độ thân thiết.
Trong số 150 người được hỏi có 16 người (10, 7%) cho rằng tôi rất hạn chế giao tiếp với tất cả mọi người” (câu 20) nhưng sau đó chúng tôi lại kiểm tra lại với câu hỏi 14 thì họ cho rằng “tôi không cảm thấy thoải mái với bất kỳ ai”. Như vậy chứng tỏ rằng họ rất ít giao tiếp với những người xung quanh mình.
Từ biểu đồ chúng ta cũng thấy rõ có sự chênh lệch giữa lời nói và việc làm của họ.
Có 114 người (76%) cho rằng họ muốn giao tiếp với tất cả mọi người, Nhưng khi hỏi mức độ thiện cảm thì lại chỉ có 39 người (26%) cho rằng tôi cảm thấy thoải mái với tất cả mọi người. Như vậy giữa lời nói của họ và việc làm của họ có sự chênh lệch khá rõ một mặt là thích giao tiếp với tất cả mọi người, mặt khác lại chỉ cảm thấy thoải mái với một số ít người, điều đó có nghĩa muốn giao tiếp với tất cả mọi người nhưng mức độ thiện cảm lại tùy từng trường hợp cụ thể.
Tương quan giữa đối tượng giao tiếp và mức độ thiện cảm gần gũi. Có 13, 3% người dân cho rằng “tôi chỉ muốn giao tiếp với những người mang lại lợi ích cho bản thân tôi” và có tới 74% người dân lại cho “tôi chỉ cảm thấy thoải mái với một số người”. Như vậy ở đây họ chỉ cảm thấy thoải mái với những người mang lại lợi ích cho bản thân họ thì họ giao tiếp. Điều đó cũng rất đúng khi mà nền kinh tế thị trường đang phát triển cuộc sống không còn bình yên nữa mà họ phải hoạt động rất nhiều để đảm bảo sự tồn tại, chính vì vậy mà họ quên đi tất cả những tình cảm tinh thần của làng xóm láng giềng, đồng tiền đã đảo lộn cuộc sống của con người.
Để tìm hiểu thêm mối quan hệ giữa những người dân với nhau như thế nào, chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Ông (bà) đánh giá như thế nào về mối quan hệ của mình với những người xung quanh” (câu 12).
Kết quả thu được là:
STT
Đánh giá
n
%
1
Rất tốt với tất cả mọi người
53
34
2
Chi tốt với một số người
99
66
3
Thường xuyên căng thẳng xung đột với tất cả mọi người
0
0
Qua bảng số liệu cho chúng ta thấy phần lớn mọi người cho rằng họ chỉ tốt với một số người, có tới 99 người chiếm 66%. Chúng tỏ không phải người nào cũng tốt được mà có sự chọn lọc, họ cho rằng chỉ có thể tốt những người mình có thiện cảm, những người tốt với họ còn ngoài ra họ không tốt với ai cả, điều đó là một suy nghĩ hoàn toàn sai lầm, trên đời này không phải mình tốt với người ta mà người ta tốt lại ngay được, mà có sự gián tiếp của người khác, lúc này có người này giúp lúc giúp, lúc khác lại có người khác giúp, chính những suy nghĩ đó đã làm mất dần tính đoàn kết của con người, mọi người giao tiếp với nhau theo nhóm, theo đối tượng, theo sở thích. Dường như nó đang ngày càng phát triển theo chiều hướng đó.
Chính trong suy nghĩ của họ tin rằng mình tốt với một số người cho nên cũng nghĩ rằng chí có một số người tốt lại mà thôi. Đó là quy luật “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Mình cho cái gì thì nhận lại cái đó, ít khi người ta cho không ai cái gì. Điều đó là không đúng, mình tốt với người này thì sẽ có người khác tốt lại với mình. Khi mà chúng ta cũng tốt với nhiều người thì cũng có rất nhiều người tốt lại, chúng ta hãy sống thực với chính bản thân mình.
Để kiểm tra xem mức độ thân thiết thực của người dân, chúng tôi đưa ra thêm câu hỏi: “Ông (bà) đánh giá như thế nào về những người hàng xóm của mình? (câu 13).
Kết quả thu được
STT
Nhận thức
n
%
1
Tất cả mọi người đều tốt
30
20
2
Chỉ có một số người tốt
119
79, 33
3
Tất cả đều không tốt (8)
1
0, 67
STT
Nhận thức
n
%
1
Tất cả mọi người đều tốt
30
20
2
Chỉ có một số người tốt
119
79, 33
3
Tất cả đều không tốt (8)
1
0, 67
Qua bảng số liệu cũng cho thấy được mối quan hệ thực của họ có 119 người (79, 33%) cho rằng chỉ có một số người tốt. Điều đó là rất đúng. Vì họ chỉ tốt với một số người thì chắc chắn chỉ có một số người tốt lại với mình mà thôi. Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy mình hãy sống thực với chính bản thân mình đã, sau đó mới có thể nói đến tốt với người khác được.
Có 30 người ở (20%) cho rằng tất cả mọi người đều tốt. Đây là một suy nghĩ đúng đắn, nhưng chỉ là số ít.
Có thể biểu diễn mối tương quan về mối quan hệ giữa những người dân với nhau theo biểu đồ sau:
%
73
80
66
60
34
40
18
20
Mèi quan hÖ
1
0 1 2 3
Biểu đồ so sánh câu 12 và câu 23
Chú giải:
1. Phải tốt với mọi người - tất cả mọi người đều tốt.
2. Chỉ tốt với một số người - Chỉ có một số người tốt.
3. Thường xuyên căng thẳng xung đột với tất cả mọi người.
- Tất cả đều không tốt
Qua biểu đồ cho thấy rõ mối quan hệ giữa những người dân với nhau. Có 99 người (66%) cho rằng mình chỉ tốt với một số người và 119 người (79, 33%) cho rằng chỉ có một số người tốt với mình. Điều đó chứng tỏ rằng họ chỉ tốt với một số người, và họ cũng nhận thấy chỉ có một số người tốt với mình mà thôi.
5. Các kiểu hành vi ứng xử trong khi giao tiếp.
Khi chúng tôi đưa ra câu hỏi nhằm tìm hiểu hành vi ứng xử của người dân “nếu gặp một người hàng xóm nhưng ông (bà) không có thiện cảm” với người đó, ông (bà) sẽ thì thu được bảng số liệu sau:
STT
Thái dộ
n
%
1
Vẫn niềm nở chào hỏi như những người khác
32
21, 3
2
Chào hỏi qua loa xã giao
72
48
3
Mỉm cười hoặc gật đầu
29
19, 3
Tỏ thái độ cho thấy mình khó chịu, không thoải mái
4
2, 7
5
Không tỏ thái độ gì cả coi như là không biết
13
8, 7
Qua bảng số liệu cho thấy.
Có 72 người (48%) cho răng khi gặp một người không có thiện cảm với mình thì họ sẽ chào hỏi qua loa xã giao. Điều đó chứng tỏ họ cố gắng chào để lấp đi chỗ trống, như là một sự ép buộc, chào cho qua mà không biểu lộ một chút gì tình cảm, họ thờ ơ, chào để lấy lệ sợ người khác đánh giá không tốt về mình.
Điều này gặp rất nhiều trong thực tế hiện nay, dường như họ đang cố gắng che dấu bộ mặt thật của mình, khoác bên ngoài là một chiếc áo bảo vệ bằng một lời chào hỏi qua loa để tránh khỏi sự đàm tiếu của những người hàng xóm của mình.
Có 32 người cho rằng họ sẽ niềm nở chào hỏi như với những người khác, bằng mặt chứ không bằng lòng, bề ngoài tỏ vè bình thường nhưng trong lòng thì rất khó chịu.
Có 29 người (19, 3%) cho rằng họ sẽ mìm cười hoặc gật đầu. Điều đó cũng chỉ thể hiện sự chào qua loa mà thôi.
Bên cạnh đó vẫn có số người lự chọn thái độ khó chịu, không thoải mái, có 4 người (2, 7%). Biểu lộ cảm biacs thực của mình. Hành vi ứng xử không chỉ thể hiện ở cử chỉ, nét mặt mà còn thể hiện ở hành động.
Để tìm hiểu mức độ chia sẻ của người dân, chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Xin ông (bà) cho biết, ông (bà) sẽ hành động như thế nào khi nhà hàng xóm từ sự giúp đỡ của ông (bà)? (có người ấm, có tang, có việc báo hỉ …) (câu 16).
Kết quả thu được là:
STT
Hành động
n
%
1
Nhiệt tình giúp đỡ hết sức có thể, không kể hàng xóm như thế nào
80
53, 3
2
Giúp đỡ nếu đó là hàng xóm thân thiết, hòa hợp với mình
63
42
3
Không giúp được gì mà chỉ hỏi để biết thông tin
7
4, 7
4
Không quan tâm, lờ đi, coi như là không biết
0
0
Qua bảng số liệu cho thấy:
Chiếm vị trí cao nhất là phương án cho rằng họ sẽ giúp đỡ nhiệt tình không kể hàng xóm như thế nào, cả 80 người chiếm 53, 3%. Điều đó chứng tỏ rằng họ cũng rất biết quan tâm đến những người xung quanh mình. Nhưng trong trường hợp mà hàng xóm cân tới sự giúp đỡ của họ.
Như vậy trong các trường hợp khác thì chắc họ không tham gia nhiệt tình. Những việc lớn hệ trọng của gia đình như có người ốm, có tang, cóviệc hỉ … mà đợi hàng xóm tham gia một cách tự nguyện hầu như không có. Cũng do nguyên nhân là hàng xóm láng giềng ít giao tiếp với nhau, nhà nào biết nhà nấy, khi nào cần sự giúp đỡ thì đến không thì thôi, chằng cần quan tâm nhà đó có việc gì.
Có 63 người (42%) cho rằng họ chỉ giúp đỡ nếu đó là hàng xóm thân thiết, hòa hợp với mình. Như vậy có nghĩa là không phải ai cũng nhận được sự giúp đỡ của họ, mà tùy thuộc người đó là ai như thế nào. Điều đó thể hiện không có sự đoàn kết gắn bó giữa những người hàng xóm với nhau. Bình thường không quen biết nahu khi gặp những trường hợp xảy ra nằm ngoài sự mong đợi của mình thì vẫn phải sẵn sàng ra cứu giúp, huống chi nói gì khi họ cần tới sự giúp đỡ mà không nhiệt tình thì quả thật họ không có tình người.
Bên cạnh đó còn có 7 người (4, 7%) cho rằng không giúp đỡ gì mà chỉ hỏi để biết thông tin. Trường hợp này cũng đang xảy ra rất nhiều ở những người dân thành phố. Họ biết nhưng để đấy không quan tâm, nếu như người ta mời thì đến không thì cứ coi như là không biết điều này đã làm cho không ít trường hợp nhà có việc gì quan trọng như có người chết thì “tự gia đình đó đưa nhau và đi chôn” chẳng có sự tham gia của hàng xóm láng giềng. Nguyên nhân cũng xuất phát từ chính họ, họ không quan tâm đến người khác thì làm sao có người quan tâm lại được. Thể hiện một tính cách ích kỷ, chỉ biết mình mà không biết người.
Khi đưa ra câu hỏi “xin ông (bà) cho biết, ông (bà) có bao giờ coi những việc làm ảnh hưởng không tốt đến người khác, xâm phạm không gian, tài sản chung hay không? (câu 16). Kết quả thu được.
STT
Phương án
n
%
1
Không
123
82
2
Có
27
18
Qua bảng số liệu cho thấy phần lớn mọi người đều chọn phương án đúng, có 123 chiếm 82%. Như vậy đa số họ thấy được quyền lợi, trách nhiệm đối với bản thân mình và đối với những người sống xung quanh.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn 27 người (18%) lại chọn phương án 2. Như vậy trong cuộc sống không phải ai cũng ý thức được điều mình làm, cai cũng có những sai lầm, thiếu sót. Để tìm hiểu những việc mà họ làm ảnh hưởng không tốt đến người khác, xâm phạm tài sản chung, chúng tôi đưa ra câu hỏi : “Nếu có, xin ông (bà) cho biết những việc làm đó là” kết quả thu được:
STT
Việc làm
n
%
1
Xác rải bừa bãi
6
22, 22
2
Xây dựng cơi nới tùy tiện
4
14, 81
3
Phá hoại tài sản chung
0
0
4
Gây ồn
13
48, 15
5
Làm mất trật tự an ninh
3
11, 11
Qua bảng số liệu chúng tôi thấy:
Có 13 người (46, 15%) cho rằng việc làm mà ảnh hưởng không tốt đến người khác, xâm phạm không gian, tài sản chung là việc gây ồn. Điều đó cần phải hoan nghênh vì đã chấp nhận nói ra sự thật. Những người này thường làm nghề buôn bán, kinh doanh.
Có 6 người (22, 22%) cho rằng họ xả rác bừa bãi. Điều đó thể hiện không có ý thức trách nhiệm, chỉ biết sạch mình mà không để ý đến xung quanh. Nhiều khi biết nhưng mà cố tình làm sai.
Có 4 người (14, 81%) cho rằng họ xây dựng cơi nới tùy tiện.
Có 3 người (11, 11%) làm mất trật tự an ninh.
Nhìn vào bảng số liệu chúng tôi thấy rằng mức độ làm ảnh hưởng đến nhau là rất ít.
Khi chúng tôi đưa ra câu hỏi nhằm tìm hiều ứng xử của người dân như thế nào về những việc làm trên “Nếu những người hàng xóm của ông (bà) có những hành động, việc làm như trên, ông (bà) sẽ phản ứng như thế nào? thì có bảng kết quả sau:
STT
ứng xử
n
%
1
Thờ ơ
22
14, 7
2
Nhắc nhở
114
76
3
Báo chính quyền
12
8
Qua bảng số liệu chugns ta thấy có 114 người (76%) cho răng họ sẽ nhắc nhở. Vì họ cho rằng những việc làm đó cần phải nhắc nhở trước xem người đó phản ứng như thế nào. Đây là hình thức phổ biến nhất. Điều đó chứng tỏ họ cũng có ý thức trách nhiệm với những hàng xóm của mình.
Có 22 người (14, 7%) lại thờ ở với những việc làm của hàng xóm. Điều đó chứng tỏ họ không có ý thức trách nhiệm xây dựng khu phố, họ chỉ biết lo bản thân họ. Những việc làm đó không ảnh hưởng đến mình và gia đình mình thì cần gì phải quan tâm, nếu mà nhắc nhở hay báo chính quyền thì biết đâu họ lại ghét mình và gia đình mình, làm ảnh hưởng đến nhau.
Có 12 người (8%) lại cho rằng nếu trong những trường hợp đó họ sẽ báo chính quyền giải quyết. Thông thường thì họ thường báo chính quyền khi đã nhắc nhở, khuyên bảo rồi nhưng họ không thực hiện thì cần phải có những mức phạt cao hơn đó là báo chính quyền, cơ quan pháp luật của nhà nước.
6. Nội dung giao tiếp.
Trong qúa trình giao tiếp với những người hàng xóm của mình có rất nhiều vấn đề mà họ đề cập đến. Để tìm hiểu xem trong qúa trình giao tiếp với những người hàng xóm của mình thì họ thường đề cập những vấn đề nào nhất. Chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Khi trò chuyện với hàng xóm những vấn đề ông (bà) thường đề cập là” (câu 2). Kết quả thu được:
STT
Nội dung
Mức độ
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không bao giờ
ĐTB
Xếp hạng
n
%
n
%
n
%
1
Công việc, nghề nghiệp
45
30
87
58
18
12
2, 18
3
2
Gia đình
54
36
77
51, 33
19
12, 67
2, 23
2
3
Cá nhân
34
22, 67
82
54, 67
34
22, 66
2, 03
5
4
Các vấn đề kinh tế - xã hội có tình thời sự
45
30
84
56
21
14
2, 16
4
5
Chuyện hàng xóm khu phố
69
46
67
44, 67
14
9, 33
2, 4
1
Qua bảng số liệu cho thấy:
Vấn đề mà họ thường đề cập nhiều nhất là vấn đề chuyện hàng xóm, khu phố có tới 69 người (46%), các vấn đề khác như công việc nghề nghiệp gia đình, kinh tế - xã hội có tính thời sự đều mang tính tương đối đứng vị trí thứ 3, 4, 5. Và vấn đề đứng vị trí của cuối cùng là vấn đề cá nhân. Điều đó chứng tỏ rằng họ không thích nói về bản thân cá nhân mình, cũng như những người khác, chuyện riêng tư của mọi người không nên can thiệp và rất dễ bất đồng quan điểm, gây xích mích, cãi nhau mất đi tình làng nghĩa xóm. Những vấn đề mà họ thường quan tâm nhiều nhất là những vấn đề xóm làng, mang tính tập thể, chung chung, cần có sự tham gia của nhiều người.
Để làm sáng tỏ những vấn đề mà họ thường đề cập chúng tôi đi sâu vào từng vấn đề cụ thể.
6. 1. Những vấn đề công việc, nghề nghiệp, cá nhân và gia đình.
Mỗi một người đều có những quan điểm khác nhau, có người thì thích chia sẻ những vấn đề của cá nhân cũng như những vấn đề của gia đình mình cho hàng xóm, để được sự trao đổi giúp đỡ khi cần thiết và cũng có những người lại không muốn điều đó. Để xem xét thái độ của người dân về vấn đề chia sẻ thì chúng tôi đưa ra câu hỏi: Ông (bà) cảm thấy như thế nào khi hàng xóm can thiệp vào những vấn đề riêng của mình hoặc gia đình mình? (câu 2) kết quả thu được:
STT
Thái độ
n
%
1
Khó chịu
66
44
2
Bình thường
57
38
3
Thoải mái
27
18
Như vậy qua bảng số liệu cũng cho ta thấy phần lớn số người được hỏi đều cho rằng họ rất khó chịu khi mà hàng xóm can thiệp với những vấn đề riêng của mình hay gia đình. Điều đó có nghĩa là họ muốn người khác tôn trọng, không muốn đem những việc riêng của mình hay gia đình mình thành một đề tài cho mọi người tranh luận.
Bên cạnh đó một số người lại cho rằng điều đó là bình thường và nếu mình không cho người khác biết chuyện riêng của mình thì làm sao làng xóm có thể biết mà giúp đỡ khi có thể. Nhưng những vấn đề riêng mà không thể nói thì có thể không chấp nhận được.
6. 2. Các vấn đề kinh tế - xã hội - chính trị.
Để tìm hiểu xem mức độ đề cập các vấn đề kinh tế chính trị - xã hội - văn hóa - giáo dục trong nước và thế giới. Chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Xin ông (bà) cho biết mức độ đề cập đến các vấn đề sau khi ông (bà) giao tiếp với những người hàng xóm của mình” (câu 4) kết quả thu được:
STT
Nội dung vấn đề
Mức độ
Thường xuyên
Bình thường
Không bao giờ
n
%
n
%
n
%
1
Các chính sách về bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống phố cổ
35
23, 33
83
53, 33
32
21, 34
2
Các sự kiện kinh tế - xã hội của đất nước và thành phố
31
20, 67
88
58, 67
31
20, 66
3
Các sự kiện chính trị quan trọng
36
24
87
58
27
18
4
Các sự kiện kinh tế chính trị - xã hội quốc tế
28
18, 67
85
56, 67
37
24, 66
5
Giáo dục trong nước và thế giới
65
43, 33
76
50, 67
9
6
6
Tệ nạn xã hội trong nước và thế giới
67
44, 67
76
50, 67
7
4, 66
Qua bảng số liệu cho thấy:
Vấn đề “Tệ nạn xã hội trong nước vàthế giới” được người dân đề cập nhiều nhất, có 67 người chiếm 44, 67%. Sở dĩ họ quan tâm đến những điều đó bởi vì đây là những vấn đề mà rất nhiều người quan tâm không chỉ nhữngngười dân nơi họ đang cư trú mà toàn bộ cả nước quan tâm đến, ví nó ảnh hưởng rất lớn đến qúa trình sống hàng ngày của họ. Gần đây vấn đề này đang được đề cập rất nhiều trên truyền hình, báo, chí… nó trở thành những vấn đề nóng khiến nhiều người muốn tìm hiểu. Điều đó chứng tỏ rằng họ rất quan tâm đến những vấn đề thời sự.
Vấn đề “giáo dục trong nước và quốc tế”cũng là một vấn đề mà được nhiều người dân quan tâm, có 65 người chiếm 43, 33%. Vấn đề này đang gây cư luận xôn xao, đang có những thay đổi lớn trong giai đoạn trong nước và quốc tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của mỗi người dân. Như vậy họ rất quan tâm đến việc giáo dục và dạy dỗ con cái của mình.
Các vấn đề như chính sách bảo vệ các giá trị truyền thống của phố cổ, các sự kiện kinh tế - xã hội của đất nước và thành phố, các sự kiện chính trị trong nước thì được đề cập ở mức độ tương đối đứng vị trí 3, 4, 5.
Vấn đề “Các sự kiện kinh tế, chính trị - xã hội quốc tế” (giàu mỡ, giá vàng, chiến tranh, khủng bố…) thì được người dân ít đề cập nhất, chỉ có 28 người chiếm 18, 67%. Điều đó chứng tỏ rằng không người nào cũng có thể quan tâm đến nó. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy phần lớn họ chỉ đề cập những vấn đề mà đem lại những lợi ích cho họ, còn những vấn đề khác họ ít quan tâm hơn.
6. 3. Những ve địa bàn cư trú.
Để tìm hiểu tính tích cực tham gia vào các công việc chung củ ngõ xóm nơi mình đang sống chúng tôi đưa ra câu hỏi: Ông (bà) có hay tham gia vào các công việc chung của ngõ xóm nơi mình cư trú không?” (câu 5).
Kết quả thu được:
STT
Mức độ
Người
%
1
Lúc nào cũng tham gia tích cực
61
40, 67
2
Chỉ khi nào tôi cảm thấy rảnh rỗi
66
44
3
Chỉ khi tôi cảm thấy hứng thú
11
7, 33
4
Chỉ khi nào khi bị ép buộc
10
6, 67
5
Không bao giờ tham gia
2
1, 33
Qua bảng số liệu cho thấy:
66 người (44%) chọn phương án 2, họ cho rằng họ chỉ tham gia khi mà họ cảm thấy rảnh rỗi. Như vậy chứng tỏ rằng họ không quan tâm nhiều đến việc chung của xóm, họ có thời gian rảnh dỗi thì tham gia một chút cho vui, chứ không nhằm mục đích gì cả, thể hiện một tinh thần trách nhiệm không cao, họ chỉ biết mình mà không quan tâm đến người khác.
Có 10 người (6, 67) cho rằng họ chỉ tham gia khi bị ép buộc. Điều đó có nghĩa là họ không hào hứng chút nào khi tham gia các công việc chung. Đối với họ những việc đó là một sự cưỡng ép, bắt buộc.
Như vậy có thể nói rằng mức độ tham gia của người dân vào những công việc chung là rất ít. Họ chỉ tham gia khi mà họ cảm thấy rảnh rỗi và hứng thú, cưỡng ép. Đây cũng là một thực trạng đang xảy ra rất nhiều ở những thành phố lớn. Họ mải những công việc riêng của mình mà quên đi những công việc chung của hàng xóm. Từ đây cũng dẫn theo là họ rất ít giao tiếp với mọi người xung quanh. Vì những công việc chung là những công việc mà có thể thấy rõ nhất sự đoàn kết thân thiết của mọi người.
Khi chúng tôi đưa ra câu hỏi nhằm tìm hiểu thêm mức độ tham gia của người dân về những công việc chung “khi tham gia vào những công việc chung ấy, ông (bà) cảm thấy như thế nào?” thì có bảng số liệu sau:
STT
Thái độ
Người
%
1
Hào hứng
48
32
2
Bình thường
97
64, 67
3
Không hào hứng
5
3, 33
Qua bảng số liệu cho thấy.
Phần lớn số người được hỏi thì đều cho rằng họ cảm thấy bình thường khi tham gia những công việc chung ấy. Như vậy có nghĩa là những công việc chung ấy không có gì hấp dẫn và cuốn hút họ, để họ có thể tham gia vào. Họ tham gia vào những công việc đó mang tính chất bắt buộc, cưỡng ép, nếu phổ biến, hoặc biết thì tham gia cho đầy đủ còn không thì cho qua, không cần quan tâm mất thời gian. Điều đó chứng tỏ rằng người dân không ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, họ thờ ơ với những công việc chung mà đáng nhẽ ra họ cần tham gia vào để thấy được cuộc sống của những người chung quanh.
Để kiểm tra thêm mức độ nhận thức của người dân khi tham gia vào những công việc tham gia vào các hoạt động chung của khu dân cư có thể làm tăng thêm sự thiện cảm, sự hiểu biết và hợp tác giữa những người hàng xóm với nhau không? (câu 7), kết quả thu được:
STT
Phương án
Người
%
1
Hoàn toàn đúng
64
42, 67
2
Khá đúng
83
55, 33
3
Hoàn toàn không đúng
3
2
Qua bảng số liệu chúng ta thấy: chiếm tỷ lệ % cao nhất thuộc về ý kiến cho rằng “việc tham gia vào những công việc chung của khu dân cư có thể làm tăng thêm thiện cảm, sự hiểu biết và hợp tác giữa những người hàng xóm với nhau chỉ ở mức độ khá đúng, có nghĩa là ở mức bình thường. Điều đó chứng tỏ rằng việc tham gia vào những công việc chung ấy không chỉ tăng thêm thiện cảm, sự hiểu biết và hợp tác giữa những người hàng xóm với nhau, mà nhằm những mục đích khác.
7. Các loại giao tiếp.
Để tìm hiểu trong qúa trình giao tiếp với nhữngngười hàng xóm của mình họ thường sử dụng loại giao tiếp nào, chúng tôi đưa ra câu hỏi: “ông (bà) thường dùng loại giao tiếp nào với những người hàng xóm của mình” (câu 9).
Kết quả thu được:
STT
Nội dung vấn đề
Mức độ
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không bao giờ
n
%
n
%
n
%
1
Ngôn ngữ (giao tiếp bằng lời nói)
131
87, 33
19
12, 67
0
0
2
Phi ngôn ngữ (giao tiếp qua cử chỉ, điệu bộ, hành động, thái độ không kèm theo lời nói.
31
20, 67
75
50
44
29, 33
3
Kết hợp cả hai
41
27, 33
77
51, 33
32
21, 34
Qua bảng số liệu cho thấy:
Phần lớn mọi người giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ (giao tiếp bằng lời nói), có 131 người chiếm 87, 33%, một tỷ lệ rất cao.
Điều đó chứng tỏ họ giao tiếp với những người hàng xóm của mình chỉ bằng lời nói bình thường mang tính chất xã giao, như vậy thì khi có thể thiết lập được những quan hệ tốt đẹp được nêu mà chỉ sử dụng ngôn ngữ bằng lời nói mà không kèm theo những biểu hiện ra bên ngoài sẽ làm cho người khác không biết được mình có thiện cảm với người ta không.
Có 31 người (20, 67%) cho rằng trong qúa trình giao tiếp với những người hàng xóm thì họ thường xuyên sử dụng loại giao tiếp phi ngôn ngữ (giao tiếp bằng cử chỉ, điệu bộ, hành động nét mặt, thái độ không kèm theo lời nói). Điều đó thể hiện một sự không tôn trọng với những đối tượng mình không giao tiếp thông thường, người ta chỉ sử dụng loại giao tiếp ngôn ngữ này để làm bổ trợ cho loại ngôn ngữ bằng lời nói giao tiếp.
Có 41 người (27, 33%) chọn phương án 3 (kết hợp cả 2). Đây là một sự lựa chọn đúng đắn vì chugns ta khi truyền đạt cho người khác một vấn đề gì nếu được kết hợp cả điệu bộ, cử chỉ hành động thì khiến cho lời nói thêm sinh động hơn.
Nhưng qua kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn người dân thường giao tiếp với nhau chủ yếu bằng ngôn ngữ lời nói. Họ không biểu lộ những tình cảm của mình. Điều đó chứng tỏ họ không thân thiết với những người hàng xóm xung quanh cho lắm.
8. Hình thức giao tiếp.
Con người giao tiếp với nhau mang tính gián tiếp thông qua các phương tiện khác nhau để tìm hiểu hình thức (phương tiện) mà người dân thường dùng, chúng tôi đưa ra câu hỏi “Ông (bà) thường sử dụng hình thức giao tiếp như thế nào? (câu 10) kết quả thu được:
STT
Hình thức phương tiện
Mức độ
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không bao giờ
n
%
n
%
n
%
1
Trực tiếp gặp mặt
115
76, 67
33
21
2
1, 33
2
Qua thư tay
0
0
45
0
105
70
3
Qua điện thoại
44
29, 33
90
60
16
10, 67
4
Qua Internet
20
13, 33
60
40
70
46, 67
Qua bảng số liệu cho thấy hình thức mà họ thường xuyên sử dụng nhất là hình thức trực tiếp gặp mặt, có 115 người (76, 67%). Sở dĩ họ chọn hình thức này là vì thông qua hình thức giao tiếp trực tiếp gặp mặt họ có thể trao đổi thông tin một cách dễ dàng hơn, thông tin được truyền cho nhau một cách chính xác hơn, dễ hiểu, dễ dàng bày tỏ cảm xúc thái độ của mình.
Hình thức qua điện thoại (di động, cố định) có 44 người chiếm 29, 33%. Thông thường người ta thường sử dụng hình thức này khi có những chuyện quan trọng cần thiết, cần truyền tin nhanh và cũng thường sử dụng trong công việc, nghề nghiệp.
Hình thức Internet (tán ngẫu trực tiếp, gửi tin nhắn, email…) có 20 người (13, 33%). Đây cũng là hình thức sử dụng khá nhiều vì thời đại công nghệ tiên tiến chúng gần như là một công cụ phương tiện hữu ích của con người.
Hình thức gián tiếp qua tay, có tỷ lệ lựa chọn ít nhất. Đây là hình thức không còn phổ biến, nó thường sử dụng trong những trường hợp đặc biệt.
Như vậy có rất nhiều hình thức giao tiếp khác nhau để mọi người có thể giao tiếp với nhau. Trong thời đại khoa học công nghệ, thông tin đại chúng có rất nhiều phương tiện đang được sử dụng rộng rãi có nhiều chức năng như máy điện thoại (di động, cố định), máy tính nó có tác dụng rất lớn trong công việc hàng ngày nhưng để giao tiếp tốt thì hình thức giao tiếp tốt nhất và phổ biến nhất vẫn là hình thức giao tiếp bằng trực tiếp.
9. Các nhân tố ảnh hưởng.
9. 1. Đặc điểm tâm lý cá nhân.
Trong qúa trình giao tiếp con người phải đối diện với rất nhiều đối tượng giao tiếp khác nhau. Mỗi người đều có những đặc điểm tâm lý riêng không ai giống ai. Để tìm hiểu các đặc điểm tâm lý cá nhân có ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp giữa những người dân với nhau hay không, chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Theo ông (bà) những đại đểm sau có ảnh hưởng như thế nào đến qúa trình giao tiếp của ông )bà) với những người hàng xóm của mình? (Câu 21) kết quả thu được.
STT
Đặc điểm
Mức độ
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không ảnh hưởng
n
%
n
%
n
%
1
Lứa tuổi
49
32, 67
61
40, 67
40
26, 67
2
Giới tính
9
6
91
60, 67
50
33, 33
3
Trình độ
28
18, 67
75
50
47
31, 33
4
Nghề nghiệp
25
16, 67
82
54, 67
43
28, 67
5
Địa vị
25
16, 67
82
54, 67
43
28, 67
6
Sở thích riêng
37
24, 67
73
48, 67
40
26, 67
7
Thói quen
26
17, 33
85
56, 67
39
26
8
Cá tính của mọi người
51
34
35
23, 33
35
23, 33
Qua bảng số liệu cho thấy:
Có 51 người (34%) cho rằng cá tính của mỗi người ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp. Qúa trình giao tiếp chỉ diễn ra tốt đẹp khi chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp biết tôn trọng cá tính của nhau khi mà chủ thể hiểu được tính cách của đối tượng giao tiếp thì qúa trình giao tiếp của họ mới thành công được. Tuy nhiên trong cuộc sống mỗi người lại có những tính cách khác nhau, nếu như không bỏ qua nhưng có tính riêng ấy thì khó có thể làm bạn được người khác. Như vậy nếu họ cho rằng cá tính mỗi người làm ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp của họ với những người hàng xóm của mình. Điều đó chứng tỏ rằng họ rất ích kỷ, khó có thể hòa đồng được, sự gắn kết hàng xóm láng giềng là rất ít.
Có 49 người (32, 67%) cho rằng lứa tuổi ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp cùng lứa tuổi với nhau để giao tiếp nhau hơn, có những đặc điểm tâm lý gần giống nhau, nhưng điều đó ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp thì chứng tỏ họ khí có thể sông hòa hợp với mọi người được.
Có 39 người (26%) cho rằng sở thích riêng ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp. Điều đó sẽ tạo nên những nhóm người sống riêng, ảnh hưởng rất lớn đến tình đoàn kết của hàng xóm.
Có 28 người (18, 67) cho rằng trình độ học vấn ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp. Điều đó chứng tỏ họ có sự phân biệt trình độ.
Đặc điểm nghề nghiệp và địa vị, thói quen đứng vị trí ngang nhau, đứng vị trí thứ 5, 6, 7.
Nhìn chung những đặc điểm trên không có ảnh hưởng nhiều đến qúa trình giao tiếp của những người dân.
9. 2. Không gian sống.
Chúng tôi nhận thấy khu phố cổ có đặc trưng là nơi tập trung dân cư, với hơn 10 vạn người sinh sống. Điều kiện sống tối thiểu trong khu phố khó mà tin nổi. Diện tích phụ bình quân 1m2/người, trên 50% số hộ có 6 người trong một buồng, mật độ vi khuẩn trong 1m3 môi trường gấp 5 lần tiêu chuẩn môi trường sạch, trung bình có 4 đến 5 hộ ở trong một ống nhà mà trước kia là của một gia đình. Với cuộc sống chất chội và sinh hoạt thiếu thốn như vậy người dân có thấy ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp không, chúng tôi đưa ra câu hỏi “ông (bà) có cho rằng việc sống trong một không gian chật hẹp có ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp với những người hàng xóm hay không? (câu 22) kết quả thu được:
STT
Mức độ
Người
%
1
Rất ảnh hưởng
76
50, 7
2
ít ảnh hưởng
54
36
3
Không ảnh hưởng
20
13, 3
Qua bảng số liệu cho thấy:
Phần lớn những người được hỏi cho rằng với không gian hoàn cảnhật hẹp như vậy thì rất ảnh hưởng đến qúa trình giao tiếp của họ. Họ cho rằng không gian chật hẹp dẫn đến nhiều phức tạp như việc họ phải sống khép nép hơn, mọi lời ra tiếng vào trong gia đình cũng phải giữ, phải biết ứng xử với những người xung quanh tránh những bất đồng quan điểm, đặc biệt là khó khăn trong việc đi lại. Điều đó chứng tỏ qúa trình giao tiếp của họ chịu ảnh hưởng nhiều của ngoại cảnh.
Bên cạnh đó có 20 người (13, 3%) lại cho rằng không gian ở sống ít ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp của họ đến những người xung quanh giữa giao tiếp và không gian sống độc lập nhau. Điều đó chứng tỏ họ vẫn có thể giao tiếp tốt mà không cần phải có không gian rộng lớn.
9. 3. Truyền thống gia đình.
Khi chúng tôi đưa ra câu hỏi nhằm tìm hiểu truyền thống gia đình có ảnh hưởng đến quỏ trỡnh giao tiếp của người dân “ông (bà) có cho rằng mình kế thừa được các mối quan hệ láng giềng tốt đẹp với những người hàng xóm từ cha mẹ của mình không ? (câu 24).
Kết quả thu được:
STT
Phương án
Người
%
1
Tôi kế thừa được nhiều
94
62, 7
2
Tôi ít kế thừa
39
26
3
Tôi không kế thừa
17
11, 3
Qua bảng số liệu cho thấy.
Có 94 người (62, 7%) cho rằng họ kế thừa được nhiều từ cha mẹ trong mối quan hệ với hàng xóm láng giềng. Điều đó chứng tỏ là đặc điểm giao tiếp của họ chịu ảnh hưởng nhiều từ phong tục, tập quán văn hóa của truyền thống gia đình. ở phố cổ thì có rất nhiều hộ gia đình có mấy thế hệ sống chung với nhau trong cùng một nhà, nhiều người có khả năng chuyển ra một khu trung cư hay nơi khác để sinh sống nhưng họ lại không thích, họ thích cuộc sống nơi mảnh đất này nhằm lưu giữ những truyền thống nơi mình đang sinh sống. Chúng tôi nhận thấy rằng việc kế thừa những giá trị truyền thống văn hóa của gia đình trong mối quan hệ với hàng xóm láng giềng là rất tốt. Nó là nền tảng vững chắc cho thế hệ sau kế tiếp những truyền thống tốt đẹp của thế hệ trước.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Qua thực tiễn nghiên cứu tại khu phố cổ chúng tôi đưa ra những kết luận sau:
- Phần lớn người dân nhận thức được tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày, cần phải giao tiếp những người hàng xóm mình.
- Hầu như mọi người trong xóm đều biết nhau nhưng ít khi giao tiếp với nhau.
- Họ ít tham gia vào những công việc chung của ngõ xóm nơi họ đang cư trú. Do đó khó thiết lập những quan hệ tình làng nghĩa xóm.
- Loại giao tiếp chủ yếu mà người dân thường sử dụng là giao tiếp bằng lời nói và hình thức giao tiếp bằng trực tiếp gặp mặt.
- Mức độ thân thiết tùy vào đối tượng giao tiếp, họ ít thân thiện với hàng xóm của mình.
- Giao tiếp với nhau chỉ nhằm mục đích giúp đỡ những lúc gặp khó khăn hoạn nạn chứ không nhằm trao đổi thông tin hay hiểu biết lẫn nhau…
- Họ thường đề cập đến nhữn vấn đề liên quan đến quyền lợi và sát thực với cuộc sống của mình như giáo dục, tệ nạn xã hội trong nước và thế giới.
- Không gian sống, lứa tuổi truyền thống gia đình có ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp của họ.
Nhìn chung mối quan hệ giao tiếp giữa những người dân trong cùng ngõ xóm có rất nhiều vấn đề cần tìm hiểu sâu hơn. Người dân phố Cổ nói riêng và người Hà Nội nói chung rất ít khi tiếp xúc với nhau, họ không thiên về tình cảm làng xóm nhiều, sống độc lập và không phụ thuộc vào háng xóm láng giềng. Phải chăng chính cuộc sống hiện đại của nền kinh tế thị trường đã nảy sinh tính cách này. Cuộc sống bận rộn họ không có nhiều thời gian giao tiếp với những người hàng xóm của mình. Điều đó đã làm cho tình làng nghĩa xóm không có sự gắn kết với nhau.
2. Khuyến nghị.
- Cần phải tổ chức nhiều hơn các hoạt động phong trào chung để nhiều người tham gia vào, qua đó giúp mọi người hiểu nhau, chia sẻ, hợp tác với nhau, thiết lập các mối quan hệ.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân, giao tiếp không chỉ đùm bọc giúp đỡ khi khó khăn hoạn nạn mà quan trọng hơn là hiểu nhau, tạo sự thoải mái vui vẻ trong cuộc sống.
- Nhận thức được vai trò của hàng xóm láng giềng mà có thể giao tiếp với nhau nhiều hơn.
- Thay đổi quan niệm “đèn nhà ai nhà ấy rạng” mà biết quan tâm chia sẻ với những người hàng xóm. /.
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Anh, Kỹ năng giao tiếp của sinh viên, Luận án PTS, Hà Nội, 1992.
2. Hoàng Anh - Kim Thanh, Giao tiếp sư phạm, Hà Nội, 1995.
3. Nguyễn Thanh Bình - Vũ Kim Thanh, Giáo trình Tâm lý học giao tiếp - ĐHSP Hà Nội - 1999.
4. Vũ Hiếu Dân - Ngân Hà, Văn hóa Tâm lý học gia đình, Nxb Văn hóa thông tin - 2001.
5. Trần Thị Minh Đức, Giáo trình Tâm lý học xã hội, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội 1994.
6. Nguyễn Thanh Giang, Giao tiếp trực tiếp của công nhân trong ngày làm việc tại công ty Dược phẩm Hà Tây, Luận văn.
7. Trần Hiệp, Tâm lý học xã hội - những vấn đề lý luận, Nxb Giáo dục, 1988.
8. Phạm Minh Hạc, giáo trình Tâm lý học xã hội, Nxb Giáo dục, 1988.
9. Ngô Công Hoàn, Tâm lý học gia đình, Trường ĐHSP Hà Nội 1999.
10. Nguyễn Thị Huế, Tìm hiểu giao tiếp của người cao tuổi quận Thanh Xuân Hà Nội, Luận văn 1996.
11. Nguyễn Văn Lê, Vấn đề giao tiếp, Nxb Giáo dục Hà Nội trung tâm nghiên cứu trẻ em.
12. Trần Thị Kim Ngọc- Mối quan hệ giao tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu trong thời đại ngày nay, Khóa luận 2006.
13. Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLH 29.doc