Báo cáo Thực tập tại Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội

MỤC LỤC. Trang Lời mở đầu Mục lục Chương I:Giới thiệu chung về công ty. 1 1. Lịch sử hình thành công ty. 1 2. Cơ cấu tổ chức của công ty. 1 3. Các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty. 5 Chương II:Thực trạng hoạt động của công ty trong những năm qua. 6 1. Năm đầu tiên đi vào hoạt động năm 2000. 6 2. Năm 2001. 7 3. Năm 2002. 8 4. Năm 2003. 9 5.Năm 2004. 10 6.Năm 2005. 11 7.Năm 2006. 12 Chương III:Đánh giá những mặt hoạt động của công ty trong những năm qua. 15 1. Những mặt đạt được. 15 2. Những mặt hạn chế. 16 Đề xuất đề tài chuyên đề thực tập. 24 Kết luận. 26

docx28 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trong công ty. Mối quan hệ dọc là mối quan hệ giữa ban lãnh đạo công ty với các phòng ban giúp việc trong công ty, nó thể hiện sự trao đổi thông tin hai chiều từ trên xuống và từ dưới lên. Theo đó thì ban giám đốc là người có trách nhiệm và quyền hạn cao nhất trong các hoạt động quản lý và sản xuất kinh doanh của công ty sẽ là người đưa ra các quyết sách, các phương hướng hoạt động của doanh nghiệp cũng như các kế hoạch lớn của doanh nghiệp để giúp doanh nghiệp có được một tầm nhìn xa hơn trong tương lai, có thể nói ban giám đốc như là người cầm lái để chèo chống con thuyền doanh nghiệp đi đúng hướng. Từ các quyết định của ban giám đốc để từ đó truyền đạt xuống tới các phòng ban chức năng. Để từ đó mà các phòng ban chức năng với quyền hạn và trách nhiệm của mình sẽ thực hiện những phần công việc được giao, cố gắng hoàn thành những nhiệm vụ mà ban giám đốc đặt ra để từ đó có được kết quả chung là làm cho doanh nghiệp không ngừng phát triển và mở rộng. Bên cạnh đó cũng có sự liên hệ ngược chiều khi các phòng ban chức năng sẽ có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động của phòng ban mình, về tiến độ thực hiện các công trình, tình hình nhân sự của doanh nghiệp và tình hình luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Với các thông tin mà từ dưới đưa lên thì từ đó mà ban giám đốc sẽ có sự nghiên cứu đánh giá để có thể đưa ra những quyết định phù hợp và những sự điều chỉnh nếu thấy cần thiết về đương lối thực hiện, phương pháp thực hiện, để đưa doanh nghiệp đi theo đúng quỹ đạo. Bên cạnh mối quan hệ dọc còn có mối quan hệ ngang giữa các phòng ban chức năng. Theo đó giữa các phòng ban chức năng sẽ có sự liên lạc trao đổi thông tin lẫn nhau để từ đó mà có sự điều chỉnh cần thiết sao cho các kế hoạch tác nghiệp của các phòng ban không bị chồng chéo, kìm hãm nhau. Theo đó thì phòng kinh doanh với chức năng là tìm hiểu thị trường, đánh giá thị trường, tìm kiếm các hợp đồng xây lắp mới sẽ có vai trò quan trọng khi sẽ là người cung cấp thông tin về thị trường và các bản hợp đồng xây lắp có thể sẽ có trong tương lai để từ đó các phòng ban khác sẽ có sự điều chỉnh hợp lý làm căn cứ để xây dựng kế hoạch cho phòng ban mình. Với các thông tin mà phòng kinh doanh cung cấp thì phòng sản xuất sẽ xây dựng cho mình kế hoạch tiến độ sản xuất sao cho hợp lý để đảm bảo việc thực hiện các công trình sẽ không bị chồng chéo lên nhau, không kìm kẹp nhau trong quá trình thực hiện. Để từ đó có sự điều động máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất được được hợp lý kịp thời. Từ các thông tin từ phòng kinh doanh và phòng sản xuất từ đó phòng nhân sự sẽ có kế hoạch điều động nhân sự sao cho hợp lý, do việc xây lắp các công trình không phải là công việc đều đặn thường xuyên có lúc có ít công trình nên cần ít lao động nhưng lại có nhứng lúc có nhiều công trình được thực hiện cùng lúc do đó nhu cầu về nhân sự luôn thay đổi do vậy mà phòng nhân sự cần nắm chắc các thông tin từ phòng kinh doanh và phòng sản xuất để có kế hoạch điều động nhân sự sao cho hợp lý hiệu quả. Với các thông tin từ các phòng ban chức năng khác thì phòng kế toán tài chính sẽ xây dựng kế hoạch tài chính cho các công trình và các phòng ban để đảm bảo cho việc huy động vốn cho các công trình được thuận lợi. 3. Các lĩnh vực kinh doanh chủ yểu của công ty. Ngay từ tên gọi của công ty chúng ta đã có thể hình dung ra bước đầu các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty. Có thể nói rằng công ty tham gia vào hai lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là. Thứ nhất là mảng xây lắp điện, đây là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu và là quan trọng nhất của công ty, mảng hoạt động này đem lại lợi doanh thu cũng như lợi nhuận chủ yếu cho công ty. Trong mảng hoạt đông này thì công ty thực hiện các công việc chủ yếu là xây dựng các công trình điện và hệ thống điện. Trong đó thì công ty trực tiếp tiến hành các hoạt đông xây lắp bằng đội ngũ nhân viên của công ty. Thứ hai là mảng kinh doanh các thiết bị điện như áp to mát, rơle từ, dây cáp điện, biến thế điện… trong mảng kinh doanh này thì không như phần xây lắp là công ty trực tiếp tiến hành sản xuất còn trong mảng kinh doanh các thiết bị điện thì công ty tiến hành nhập hàng và bán hành thực hiện nghiệp vụ mua bán, mảng kinh doanh này cũng đem lại một phần doanh thu cho công ty và tạo việc làm cho một số nhân viên bán hàng. Ở đây công ty tiến hành nhập hàng về có thể là để cung cấp cho chính hoạt động xây lắp của công ty hay đem cung ứng ra thị trường cho các khách hàng là các công ty điện khác. Chương II Thực trạng hoạt động của công ty trong những năm vừa qua. Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội là một công ty mới được thành lập từ năm 2000 nên quá trình hoạt động của công ty là chưa lâu. Trong những năm qua thực trạng hoạt động của công ty là tương đối tốt và có một số kết quả nhất định. 1.Năm đầu tiên đi vào hoạt động năm 2000. Bước vào năm đầu tiên khi công ty mới được thành lập và bước đầu đi vào hoạt động thì với một công ty còn non trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm nên công ty gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động. Bộ máy quản lý thì chưa ổn định vẫn còn nhiều lộn xộn bất hợp lý, đội ngũ nhân viên thì còn thiếu với nòng cốt là đội ngũ nhân viên trẻ đã từng hoạt động ở các công ty khác nay về với công ty để làm việc, thêm vào đó là thị trường hoạt động chưa nhiều. Công ty chưa có nhiều công trình thi công do vậy mà trong năm đầu tiên thì doanh thu của công ty là chưa nhiều. Với năm đầu tiên đi vào hoạt động thì công ty cũng chưa có nhiều công trình được ký kết do vậy mà công ty chỉ có thể tập trung vào khai thác thị trường, giới thiệu công ty tạo mối quan hệ với các đối tác trong ngành đặc biệt là các công ty nhà nước. Thêm vào đó là công ty tập trung đi vào ổn định bộ máy quản lý cũng như cách thức quản lý công ty. Sắp xếp bố trí đội ngũ nhân sự, tuyển dụng đào tạo đội ngũ công nhân. Do vậy mà trong năm đầu tiên thì công ty đạt được một số kết quả sau. Chỉ tiêu Đơn vị tính Doanh thu Xây lắp Triệu đồng 1000 Bán hàng Triệu đồng 100 Lợi nhuận Triệu đồng 100 Vốn hoạt động Vốn điều lệ Triệu đồng 500 Vốn đi vay Triệu đồng 200 Số lao động Người 110 Số công trình thực hiện Công trình 10 2. Năm 2001. Sau năm thứ nhất gặp nhiều khó khăn trong hoạt động như hạn hep về thị trường, bộ máy quản lý chưa ổn định. Đến năm thứ hai thì hoạt động của công ty đã đi vào quỹ đạo và dần ổn định. Với bộ máy quản lý đã được thiết lập ổn định cùng phương pháp quản lý đã được xác lập nên công ty đã có được nhiều bước phát triển so với năm trước. Thị trường hoạt động của công ty đã được mở rộng ra các tỉnh thành phía bắc, công ty bước đầu đã có những bản hợp đồng xây lắp ở các tỉnh ngoài như hợp đồng xây dựng các công trình điện ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh… Nhờ đó mà tạo được thêm việc làm cho công nhân viên trong công ty, quảng bá được hình ảnh của công ty tới các đối tác. Cùng với việc thị trường xây lắp được mở rộng hơn thì kéo theo đó thị trường bán hàng cũng được mở rộng nhờ đó mà doanh thu từ hoạt động xây lắp cũng như hoạt động bán hàng đã được tăng lên đáng kể. Nhờ có những việc thị trường được mở rộng số công trình xây lắp được tăng lên do vậy mà số lượng lao động trong công ty cũng được tăng lên nếu như năm trước số lượng lao động của công ty là 110 thì đến năm 2001 số lao động trong công ty đã tăng lên là 130 người, trong đó số lượng công nhân là 100 người. Nếu như trong năm 2000 công ty chỉ có được 10 bản hợp đồng xây lắp thì đến năm 2001 công ty đã ký kết được 15 bản hợp đồng xây lắp với các đối tác trong đó có các hợp đồng xây dựng trạm biến áp cho các tỉnh thành và những hợp đồng lắp đặt tủ điện cho các công trình công cộng. Nhờ đó mà trong năm 2001 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã lên tới 2 tỷ đồng và doanh thu từ hoạt động bán hàng thì đạt 200 triệu đồng. Trong năm 2001 này thì số vốn hoạt động của công ty cũng đã được tăng lên trong khi số vốn điều lệ vẫn là 500 triệu thì lượng vốn đi vay là 600 triệu đồng nhờ đó mà tổng số vốn của công ty đạt 1,1 tỷ đồng. Nhưng so với yêu cầu phát triển của công ty thì số vốn ấy còn rất nhỏ bé. Công ty đang mong muốn có thể vay thêm được nhiều vốn hơn nữa để có thể mở rộng khả năng sản xuất trang bị máy móc thiết bị. Trong quá trình tìm hiểu tại công ty thì em thấy rằng việc lập kế hoạch trong công ty đã không được coi trọng khi mà kế hoạch tổng thể của công ty chưa được xây dựng hợp lý, còn các kế hoạch tác nghiệp thì hầu như chưa có. Chỉ tiêu Đơn vị tính Doanh thu Xây lắp Triệu đồng 2000 Bán hàng Triệu đồng 200 Lợi nhuận Triệu đồng 300 Vốn hoạt động Vốn điều lệ Triệu đồng 500 Vốn đi vay Triệu đồng 600 Số lao động Người 130 Số công trình thực hiện Công trình 15 3. Năm 2002. Sau năm thứ nhất gặp nhiều khó khăn trong hoạt động như hạn hep về thị trường, bộ máy quản lý chưa ổn định. Đến năm 2002 thì hoạt động của công ty đã đi vào quỹ đạo và ổn định. Với bộ máy quản lý đã được thiết lập ổn định cùng phương pháp quản lý đã được xác lập nên công ty đã có được nhiều bước phát triển so với năm trước. Thị trường hoạt động của công ty đã được mở rộng ra các tỉnh thành phía bắc, công ty đã có những bản hợp đồng xây lắp ở các tỉnh ngoài như hợp đồng xây dựng các công trình điện ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hải Dương… Nhờ đó mà tạo được thêm việc làm cho công nhân viên trong công ty, quảng bá được hình ảnh của công ty tới các đối tác. Cùng với việc thị trường xây lắp được mở rộng hơn thì kéo theo đó thị trường bán hàng cũng được mở rộng nhờ đó mà doanh thu từ hoạt động xây lắp cũng như hoạt động bán hàng đã được tăng lên đáng kể. Nhờ có những việc thị trường được mở rộng số công trình xây lắp được tăng lên do vậy mà số lượng lao động trong công ty cũng được tăng lên nếu như năm trước số lượng lao động của công ty là 130 thì đến năm 2002 số lao động trong công ty vẫn giữ ở mức là 130 người, trong đó số lượng công nhân là 100 người. Nếu như trong năm 2001 công ty chỉ có được 15 bản hợp đồng xây lắp thì đến năm 2002 công ty đã ký kết được 20 bản hợp đồng xây lắp với các đối tác trong đó có các hợp đồng xây dựng trạm biến áp cho các tỉnh thành và những hợp đồng lắp đặt tủ điện cho các công trình công cộng. Nhờ đó mà trong năm 2001 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã lên tới 3,1 tỷ đồng và doanh thu từ hoạt động bán hàng thì đạt 300 triệu đồng. Với việc quy mô lao động không tăng trong năm 2002 mà khối lượng công việc lại tăng lên thì công ty đã phải trang bị thêm máy móc thiết bị để có thể tăng năng suất lao động, nhờ có máy móc thiết bị mới mà chất lượng các công trình đã được nâng lên rõ rệt thêm vào đó là nó góp phần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình. Trong năm 2002 này thì số vốn hoạt động của công ty cũng đã được tăng lên trong khi số vốn điều lệ vẫn là 500 triệu thì lượng vốn đi vay là 700 triệu đồng nhờ đó mà tổng số vốn của công ty đạt 1,2 tỷ đồng. Nhưng so với yêu cầu phát triển của công ty thì số vốn ấy còn rất nhỏ bé. Công ty đang mong muốn có thể vay thêm được nhiều vốn hơn nữa để có thể mở rộng khả năng sản xuất trang bị máy móc thiết bị. Trong quá trình tìm hiểu tại công ty thì em thấy rằng việc lập kế hoạch trong công ty trong năm 2002 này tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn chưa được coi trọng khi mà kế hoạch tổng thể của công ty chưa được xây dựng hợp lý, còn các kế hoạch tác nghiệp thì hầu như chưa có. Chỉ tiêu Đơn vị tính Doanh thu Xây lắp Triệu đồng 3100 Bán hàng Triệu đồng 300 Lợi nhuận Triệu đồng 500 Vốn hoạt động Vốn điều lệ Triệu đồng 500 Vốn đi vay Triệu đồng 700 Số lao động Người 130 Số công trình thực hiện Công trình 20 4. Năm 2003. Cùng với đà phát triển của năm 2002 thì đến năm 2003 này công ty cũng vẫn duy trì được mức tăng trưởng và phát triển. Thị trường hoạt động của công ty đã được mở rộng ra các tỉnh thành phía bắc, công ty đã có những bản hợp đồng xây lắp ở các tỉnh ngoài như hợp đồng xây dựng các công trình điện ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh… Nhờ đó mà tạo được thêm việc làm cho công nhân viên trong công ty, quảng bá được hình ảnh của công ty tới các đối tác. Cùng với việc thị trường xây lắp được mở rộng hơn thì kéo theo đó thị trường bán hàng cũng được mở rộng nhờ đó mà doanh thu từ hoạt động xây lắp cũng như hoạt động bán hàng đã được tăng lên đáng kể. Nếu như trong năm 2002 công ty chỉ có được 20 bản hợp đồng xây lắp thì đến năm 2003 công ty đã ký kết được 20 bản hợp đồng xây lắp với các đối tác trong đó có các hợp đồng xây dựng trạm biến áp cho các tỉnh thành và những hợp đồng lắp đặt tủ điện cho các công trình công cộng. Nhờ đó mà trong năm 2003 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã lên tới 4 tỷ đồng và doanh thu từ hoạt động bán hàng thì đạt 310 triệu đồng. Trong năm 2003 này thì số vốn hoạt động của công ty cũng đã được tăng lên trong khi số vốn điều lệ vẫn là 500 triệu thì lượng vốn đi vay là 900 triệu đồng nhờ đó mà tổng số vốn của công ty đạt 1,4 tỷ đồng. Nhưng so với yêu cầu phát triển của công ty thì số vốn ấy còn rất nhỏ bé. Công ty đang mong muốn có thể vay thêm được nhiều vốn hơn nữa để có thể mở rộng khả năng sản xuất trang bị máy móc thiết bị. Chỉ tiêu Đơn vị tính Doanh thu Xây lắp Triệu đồng 4000 Bán hàng Triệu đồng 310 Lợi nhuận Triệu đồng 600 Vốn hoạt động Vốn điều lệ Triệu đồng 500 Vốn đi vay Triệu đồng 900 Số lao động Người 130 Số công trình thực hiện Công trình 20 5. Năm 2004. Cùng với đà phát triển của năm 2003 thì đến năm 2004 này công ty cũng vẫn duy trì được mức tăng trưởng và phát triển. Thị trường hoạt động của công ty đã được mở rộng ra các tỉnh thành phía bắc, công ty đã có những bản hợp đồng xây lắp ở các tỉnh ngoài như hợp đồng xây dựng các công trình điện ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh… Nhờ đó mà tạo được thêm việc làm cho công nhân viên trong công ty, quảng bá được hình ảnh của công ty tới các đối tác. Cùng với việc thị trường xây lắp được mở rộng hơn thì kéo theo đó thị trường bán hàng cũng được mở rộng nhờ đó mà doanh thu từ hoạt động xây lắp cũng như hoạt động bán hàng đã được tăng lên đáng kể. Nhờ có những việc thị trường được mở rộng số công trình xây lắp được tăng lên do vậy mà số lượng lao động trong công ty cũng được tăng lên nếu như năm 2003 số lượng lao động của công ty là 130 thì đến năm 2004 số lao động trong công ty là 130 người, trong đó số lượng công nhân là 100 người. Nếu như trong năm 2003 công ty chỉ có được 20 bản hợp đồng xây lắp thì đến năm 2004 công ty đã ký kết được 25 bản hợp đồng xây lắp với các đối tác trong đó có các hợp đồng xây dựng trạm biến áp cho các tỉnh thành và những hợp đồng lắp đặt tủ điện cho các công trình công cộng. Nhờ đó mà trong năm 2004 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã lên tới 5 tỷ đồng và doanh thu từ hoạt động bán hàng thì đạt 550 triệu đồng. Trong năm 2003 này thì số vốn hoạt động của công ty cũng đã được tăng lên trong khi số vốn điều lệ đã được đăng ký lên là 1 tỷ đồng thì lượng vốn đi vay là 1,2 tỷ đồng nhờ đó mà tổng số vốn của công ty đạt 2,2tỷ đồng. Nhưng so với yêu cầu phát triển của công ty thì số vốn ấy còn rất nhỏ bé. Công ty đang mong muốn có thể vay thêm được nhiều vốn hơn nữa để có thể mở rộng khả năng sản xuất trang bị máy móc thiết bị. Chỉ tiêu Đơn vị tính Doanh thu Xây lắp Triệu đồng 5000 Bán hàng Triệu đồng 550 Lợi nhuận Triệu đồng 650 Vốn hoạt động Vốn điều lệ Triệu đồng 1000 Vốn đi vay Triệu đồng 1200 Số lao động Người 130 Số công trình thực hiện Công trình 25 6. Năm 2005. Với việc năm 2004 công ty đã tăng vốn điều lệ lên là 1 tỷ đồng thì đã tạo điều kiện rất lớn cho công ty có thể mở rộng sản xuất, khai thác thêm thị trường mới, trang bị thêm máy móc thiết bị… nhờ đó mà trong năm 2005 này công ty đã có những bước phát triển rất tốt. Thị trường hoạt động của công ty đã được mở rộng ra các tỉnh thành phía bắc, công ty đã có những bản hợp đồng xây lắp ở các tỉnh ngoài như hợp đồng xây dựng các công trình điện ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh… Nhờ đó mà tạo được thêm việc làm cho công nhân viên trong công ty, quảng bá được hình ảnh của công ty tới các đối tác. Cùng với việc thị trường xây lắp được mở rộng hơn thì kéo theo đó thị trường bán hàng cũng được mở rộng nhờ đó mà doanh thu từ hoạt động xây lắp cũng như hoạt động bán hàng đã được tăng lên đáng kể. Nhờ có những việc thị trường được mở rộng số công trình xây lắp được tăng lên do vậy mà số lượng lao động trong công ty cũng được tăng lên nếu như 2004 số lượng lao động của công ty là 130 thì đến năm 2005 số lao động trong công ty đã tăng lên là 140 người, trong đó số lượng công nhân là 110 người. Nếu như trong năm 2004 công ty chỉ có được 25 bản hợp đồng xây lắp thì đến năm 2005 công ty đã ký kết được 35 bản hợp đồng xây lắp với các đối tác trong đó có các hợp đồng xây dựng trạm biến áp cho các tỉnh thành và những hợp đồng lắp đặt tủ điện cho các công trình công cộng. Nhờ đó mà trong năm 2005 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã lên tới 5,5 tỷ đồng và doanh thu từ hoạt động bán hàng thì đạt 800 triệu đồng. Trong năm 2005 này thì số vốn hoạt động của công ty cũng đã được tăng lên trong khi số vốn điều lệ đã tăng lên là 1 tỷ đồng thì lượng vốn đi vay là 2 tỷ đồng nhờ đó mà tổng số vốn của công ty đạt 3 tỷ đồng. Nhưng so với yêu cầu phát triển của công ty thì số vốn ấy còn rất nhỏ bé. Công ty đang mong muốn huy động thêm được nhiều vốn hơn nữa để có thể mở rộng khả năng sản xuất trang bị máy móc thiết bị. Cùng với việc công ty đã không ngừng phát triển thì công tác lập kế hoạch trong công ty cũng có nhiều cải thiện nhưng nó vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức tới vị trí vai trò của nó trong công tác quản lý điều hành công ty cũng như trong công tác sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu Đơn vị tính Doanh thu Xây lắp Triệu đồng 5500 Bán hàng Triệu đồng 800 Lợi nhuận Triệu đồng 720 Vốn hoạt động Vốn điều lệ Triệu đồng 500 Vốn đi vay Triệu đồng 800 Số lao động Người 140 Số công trình thực hiện Công trình 35 7. Năm 2006. Bước vào năm 2006 với hành trang là những thành công từ năm trước nên công ty đã có những dự định phương hướng phấn đấu cho năm 2006 là mức doanh thu sẽ đạt từ 7 đến 8 tỷ đồng trong đó doanh thu từ hoạt động xây lắp sẽ đạt khoảng 6 đến 6,5 tỷ đồng. Thị trường thì được mở rộng nhiều bản hợp đồng mới được ký kết. Doanh thu bán hàng sẽ đạt được mức 1 tỷ đồng. Thị trường hoạt động của công ty đã được mở rộng ra các tỉnh thành phía bắc, công ty đã có những bản hợp đồng xây lắp ở các tỉnh ngoài như hợp đồng xây dựng các công trình điện ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh… Nhờ đó mà tạo được thêm việc làm cho công nhân viên trong công ty, quảng bá được hình ảnh của công ty tới các đối tác. Cùng với việc thị trường xây lắp được mở rộng hơn thì kéo theo đó thị trường bán hàng cũng được mở rộng nhờ đó mà doanh thu từ hoạt động xây lắp cũng như hoạt động bán hàng đã được tăng lên đáng kể. Nhờ có những việc thị trường được mở rộng số công trình xây lắp được tăng lên do vậy mà số lượng lao động trong công ty cũng được tăng lên nếu như năm trước số lượng lao động của công ty là 140 thì đến năm 2001 số lao động trong công ty đã tăng lên là 160 người, trong đó số lượng công nhân là 120 người. Nếu như trong năm 2005 công ty chỉ có được 35 bản hợp đồng xây lắp thì đến năm 2006 công ty đã ký kết được 45 bản hợp đồng xây lắp với các đối tác trong đó có các hợp đồng xây dựng trạm biến áp cho các tỉnh thành và những hợp đồng lắp đặt tủ điện cho các công trình công cộng. Nhờ đó mà trong năm 2006 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã lên tới 6,5 tỷ đồng và doanh thu từ hoạt động bán hàng thì đạt 1,2 tỷ đồng. Trong năm 2005 này thì số vốn hoạt động của công ty cũng đã được tăng lên trong khi số vốn điều lệ vẫn là 1 tỷ đồng thì lượng vốn đi vay là 2,2 tỷ đồng nhờ đó mà tổng số vốn của công ty đạt 3,2 tỷ đồng. Nhưng so với yêu cầu phát triển của công ty thì số vốn ấy còn rất nhỏ bé. Chỉ tiêu Đơn vị tính Doanh thu Xây lắp Triệu đồng 6500 Bán hàng Triệu đồng 1200 Lợi nhuận Triệu đồng 1000 Vốn hoạt động Vốn điều lệ Triệu đồng 1000 Vốn đi vay Triệu đồng 2200 Số lao động Người 160 Số công trình thực hiện Công trình 45 Với những thành công ở năm 2006 thì phương hướng của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội trong năm 2007 sẽ là. Công ty cố gắng phấn đấu đến hết năm 2007 mức doanh thu của công ty sẽ đạt khoảng từ 9 đến 9,5 tỷ đồng trong đó doanh thu từ hoạt động xây lắp là chủ yếu sẽ đạt khoảng từ 7 đến 8 tỷ đồng còn doanh thu từ hoạt động bán hàng sẽ là khoảng từ 1,5 đến 2 tỷ đồng. Theo đó công ty cố gắng lợi nhuận của năm 2007 sẽ đạt được khoảng 2 tỷ đồng. Trong năm nay công ty cũng cố gắng đưa số vốn hoạt động của công ty lên con số 5 tỷ đồng trong đó số vốn điều lệ của công ty vẫn là 1 tỷ đồng còn sẽ huy động được từ các nguồn khác khoảng 4 tỷ đồng. Công ty cũng phấn đấu trong năm nay sẽ ký kết được thêm nhiều hợp đồng mới, mở rộng thị trường… Chương III Đánh giá những mặt hoạt động của công ty trong những năm qua. 1.Những mặt đạt được. Mặc dù công ty đang hoạt động trong lĩnh vực xây lắp điện, một ngành mà các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn nắm nhiều vị thế độc quyền cùng với khó khăn đó thì việc công ty mới được thành lập từ năm 2000 vẫn còn rất non trẻ, thiếu kinh nghiệm tham gia thị trường nhưng công ty đã đạt được khá nhiều thành công trong thực tế hoạt động ở những năm qua. Với mức tăng trưởng không ngừng được nâng cao năm sau cao hơn năm trước, công ty đã không ngừng có được những bản hợp đồng xây lắp mới không chỉ riêng trong nội thành Hà Nội với các dự án xây dựng mạng lưới chiếu sáng đô thị, hệ thống điện cho các công trình dân sinh và các bệnh viện trường học… bên cạnh đó công ty còn có các bản hợp đồng xây dựng cho các tỉnh thành phía bắc các công trình xây dựng đường dây truyền tải điện mới hay nâng cấp các đường dây truyền tải điện cũ, xây dựng các trạm biến áp. Cùng với việc các bản hợp đồng xây lắp không ngừng được ký kết thì kèm theo đó là doanh thu từ hoạt động xây lắp không ngừng tăng lên nếu như khi công ty mới đi vào hoạt động trong năm 2000 thì doanh thu từ hoạt động xây lắp chỉ đạt khoảng một tỷ đồng thì đến năm 2002 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã đạt được ba tỷ đồng. Cùng với đà tăng trưởng đó thì đến cuối năm 2006 doanh thu từ hoạt động xây lắp của công ty đã đạt đến con số bảy tỷ đồng. Nhờ có những bản hợp đồng mới được ký kết, doanh thu không ngừng tăng lên thì công ty đã tạo được công ăn việc làm cho các cán bộ công nhân viên trong công ty, cũng như tạo thu nhập ổn định cho mọi người trong công ty. Tính đến cuối năm 2006 thì mức lương trung bình trong công ty đạt được là 1,2 triệu đồng một người một tháng. Bên cạnh hoạt đông xây lắp thì công ty còn kinh doanh trong lĩnh vực thương mại với việc buôn bán cung cấp các thiết bị điện như áp to mát, giơ le từ… mặc dù đây không phải là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty nhưng nó cũng góp phần đem lại doanh thu không nhỏ cho công ty cũng như tạo việc làm cho công nhân viên. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh cung cấp các thiết bị điện của công ty nếu như trong năm 2000 thì chỉ đạt được 200 triệu đồng thì đến năm 2002 mức doanh thu này đạt được khoảng 500 triệu đồng và đến cuối năm 2006 thì mức doanh thu đã đạt được khoảng 1,2 tỷ đồng. Để đạt được những thành tựu trên thì công ty phải luôn cố gắng trong việc hoàn thành các bản hợp đồng với tiến độ và chất lượng đảm bảo. Để có thể hoàn thành tốt các công trình thì toàn bộ cán bộ công nhân viên luôn tự nhấn mạnh ý thức tinh thần trách nhiệm, lấy chữ tín trong công việc làm đầu. Vì họ biết rằng khi hoạt động trong một ngành mà các doanh nghiệp nhà nước luôn có vị trí độc quyền và kèm theo đó là các doanh nghiệp nhà nước với tiềm lực và kinh nghiệm của mình thì luôn có ưu thế trong việc cạnh tranh và thi công các công trình điện. Do vậy mà các cán bộ công nhân viên trong công ty chủ yếu là các lao đông trẻ với bầu nhiệt huyết tuổi trẻ đã không ngừng phấn đấu để hoàn thành tốt công việc, phát huy tính hiệu quả của các doanh nghiệp tư nhân là luôn có được năng suất và hiệu quả trong công việc. Môi trường làm việc trong công ty luôn rất chuyên nghiệp với sự năng động và sáng tạo của các lao động trẻ. Với đội ngũ nhân viên kỹ thuật trẻ và có trình độ chuyên môn tốt nghiệp từ các trường kỹ thuật như đại học Bách khoa Hà Nội, đại học công nghiệp Hà Nội… thì công ty có được một dàn nhân viên giỏi đảm bảo có thể thực hiện được các công việc khó khăn mà yêu cầu về kỹ thuật phức tạp. Nên trong nhiều công trình xây lắp điện với sức trẻ và tinh thần trách nhiệm cao thì công ty đã luôn hoàn thành được các bản hợp đồng đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng được các đối tác đánh giá cao và tin tưởng. Có thể nói rằng điểm mạnh của công ty là luôn hoàn thành tốt các công trình đã ký kết với tiến độ và chất lượng đảm bảo, do vậy mà trong thời gian tới công ty cần phải cố gắng phát huy hơn nữa mặt mạnh này để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thị trường. 2. Những mặt hạn chế. Tuy công ty có được những mặt mạnh về chất lượng công trình luôn được đảm bảo đúng yêu cầu đề ra, các công trình luôn hoàn thành với tiến độ đặt ra, đảm bảo những yêu cầu về kỹ thuật. Nhưng trong thời gian qua do công ty vẫn còn non trẻ nên chưa được nhiều người biết tới nên khả năng mở rộng thị trường của công ty vẫn còn rất hạn hẹp. Do hoạt động trong lĩnh vực xây lắp các công trình điện, các mạng lưới hệ thống điện dân sinh cũng như công nghiệp có tính chất đặc thù nên thị trường của ngành cũng có những đặc thù riêng không giống như các lĩnh vực hoạt động sản xuất khác. Nên vấn đề thị trường cho công ty trong thời gian tới là một vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết để có thể mở rộng quy mô doanh nghiệp. Thêm vào đó là vấn đề vốn để hoạt động của công ty cũng là một vấn đề khó khăn. Do đây là doanh nghiệp tư nhân, kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù lại là công ty mới đi vào hoạt động do đó việc huy động vốn từ các nguồn khác nhau là rất khó khăn, chính vì việc huy động vốn là khó khăn nên nó ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng mở rộng sản xuất của công ty cũng như việc tìm kiếm thị trường mới, thực hiện các bản hợp đồng. Vì nhiều khi có những bản hợp đồng lớn đòi hỏi cần có lượng vốn lớn cần huy động thì công ty sẽ gặp khó khăn do đó sẽ không thể dễ dàng thực hiện được. Và thêm vào đó nếu công ty muốn thâm nhập vào một lĩnh vực kinh doanh mới thì cũng sẽ khó khăn khi thiếu vốn. Một vấn đề nữa đối với công ty là đội ngũ nguồn nhân lực trong công ty. Tuy ở trên đã nói công ty có đội ngũ công nhân viên kỹ thuật giỏi nhưng điều đó là chưa đủ. Vì trong công ty đội ngũ công nhân viên kỹ thuật này còn ít nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi huy động vào các công trình khi mà các công trình được tiến hành đồng thời. Thêm vào đó là công ty vẫn còn non trẻ nên kinh nghiệm trong các hoạt động hoạt động chưa nhiều do đó các nhân viên tuy có trình độ và sự năng động nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tế thì sẽ ảnh hưởng không ít tới các hoạt động thực tế của công ty.. Một vấn đề nữa của công ty là vấn đề công nghệ xây lắp. Với việc hoạt động trong ngành đặc thù thì yếu tố công nghệ trở nên rất quan trọng. Bên cạnh một đội ngũ nhân viên có trình độ thì cần phải có một công nghệ hiện đại đi kèm. Trong điều kiện thị trường hiện nay với việc công nghệ không ngừng phát triển thì công nghệ đóng vai trò quyết định đêan sự thành công của các công trình cũng như sự phát triển của công ty. Công nghệ càng hiện đại kết hợp với một đội ngũ nhân viên có trình độ sẽ góp phần tạo ra năng suất lao động cao, đảm bảo cho công trình có được một chất lượng như ý muốn với các yêu cầu về kỹ thuật được đảm bảo, không xảy ra các sự cố bất ngờ, nâng cao được uy tín cho công ty trên thị trường. Do công ty mới được thành lập và đi vào hoạt động với số vốn còn ít nên khả năng trang bị công nghệ là thấp chưa đảm bảo được so với yêu cầu phát triển của công ty trong thời gian tới. Do vậy mà vấn đề công nghệ cũng là một vấn đề mà công ty sẽ cần phải quan tâm trong thời gian tới để đảm bảo công ty có thể phát triển nhanh và hiệu quả. Một điểm yếu cần khắc phục trong thời gian tới của công ty là công tác kế hoạch trong công ty. Trong thời gian thực tập tại công ty thì em thấy rằng công tác lập kế hoạch ở các phòng ban trong công ty là một mảng yếu khi mà công tác kế hoạch chưa được coi trọng trong công ty. Các kế hoạch chung dài hạn cũng như những kế hoạch tác nghiệp hầu như không được xây dựng một cách rõ ràng, các kế hoạch được xây dựng chỉ mang tính chất hình thức. Trên đây là những vấn đề nổi cổm nhaats của công ty trong thời gian qua mà trong thời gian tới công ty cùng với sự phát triển của mình và những yêu cầu của thị trường cạnh tranh mà công ty sẽ phải đi vào giải quyết để có thể trở thành một công ty vững mạnh trong lĩnh vực xây lắp điện. Do thời gian thực tập chưa lâu và do những yếu tố khác nên em cin đi sâu vào phân tích bốn vấn đề mà em cho là bức xúc nhất của công ty trong thời gian qua. Thứ nhất đó là vấn đề vốn hoạt động của công ty. Do công ty mới đi vào hoạt động nên đây là một công ty nhỏ hoạt động chưa lâu với số vốn điều lệ của công ty là một tỷ đồng. Thì so với thị trường đây là một khoản vốn nhỏ bé chưa thấm vào đâu so với các công ty nhà nước cũng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh này. Vói việc đây là một công ty trách nhiệm hữu hạn thì khả năng huy động vốn của nó sẽ là không cao khi mà không thể tham gia các thị trường huy động vốn lớn như là thị trường chứng khoán hay phát hành cổ phiếu nên việc huy động vốn trở lên rất khó khăn, việc tăng vốn hoạt động chủ yếu vẫn được lấy từ lợi nhuận để lại của công ty qua các năm. Với doanh thu hoạt động của công ty trong năm qua là gần tám tỷ đồng thì việc huy động vốn từ lợi nhuận để lại sẽ là không nhiều. Chính vì việc hạn chế trong vấn đề vốn mà đã khiến cho công ty gặp không ít các khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thiếu vốn khiến cho vấn đề trang bị công nghệ sản xuất trở lên khó khăn, việc mua mới các máy móc thiết bị hiện đại là khó khi mà những máy móc này có giá thành mà công ty lại không có nhiều vốn để huy động. Chính vì lẽ đó mà việc nâng cao năng suất lao động trong công ty trở lên khó khăn. Thiếu vốn còn làm cho việc luân chuyển vốn trong công ty trở lên khó khăn khi mà nhiều công trình cùng được thực hiện đồng thời sẽ làm cho các hoạt động bị ảnh hưởng. Nguyên nhân của tình trạng thiếu vốn của công ty thì chủ yếu là các nguyên nhân sau. Nguồn huy động vốn của công ty là không nhiều khi mà với việc đây là công ty trách nhiệm hữu hạn việc huy động vốn được thực hiện chủ yếu từ việc đóng góp của các cổ đông và phần lợi nhuận để lại. Nhưng cả hai nguồn này thì không lớn và cũng không phải thường xuyên có thể huy động được nhất là việc huy động từ sự đóng góp của các cổ đông, còn lấy từ lợi nhuận để lại cũng không thể có nhiều do công ty mới thành lập, quy mô còn nhỏ nên doanh thu và lợi nhuận chưa nhiều do đó không thể huy động nhiều được. Việc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng không phải là một vấn đề đơn giản khi mà đây là doanh nghiệp nhỏ mới được thành lập và đi vào hoạt động, quy mô còn nhỏ do đó việc thế chấp tài sản để đi vay cũng không phải đơn giản và cũng không thể vay nhiều. Vì doanh nghiệp với quy mô nhỏ hoạt động chưa lâu nên chưa gây được nhiều tiếng vang trên thị trường, chưa có nhiều uy tín và chưa được nhiều người biết tới do vậy mà việc huy động vốn từ nguồn này là rất khó khăn. Một kênh huy động vốn nữa là việc phát hành trái phiếu và tham gia thị trường chứng khoán. Tuy đây là kênh huy động vốn hiệu quả và có thể huy động được vốn với số lượng lớn nhưng lại gặp phải những vấn đề rất khó khăn khi tham gia thị trường này đó là doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả, có quy mô đủ lớn, có được uy tín trên thị trường có như vậy việc phát hành trái phiếu mới có hiệu quả. Nhưng công ty mới được đưa vào hoạt động do vậy mà có nhiều lĩnh vực hoạt động chưa được hiệuquả và ổn định, công ty lại không được nhiều người biết đến do vậy mà việc phát hành trái phiếu sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thêm vào đó là cơ chế chính sách của nhà nước trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thực sự hiệu quả, tuy rằng luật doanh nghiệp vừa mới được ban hành theo đó khong còn sự phân biệt giữa các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế nữa nhưng điều đó vẫn là chưa đủ khi mà chưa có nhiều chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, chưa có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận các nguồn vốn để có thể huy động vào sản xuất kinh doanh. Với những nguyên nhân mà em mới chỉ ra thì em xin có một số giải pháp đưa ra để có thể góp phần giải quyết được tình trạng thiếu vốn của công ty. Đó là kêu gọi thêm các cổ đông mới tham gia vào công ty để góp vốn. Đây là một điều rất quan trọng khi mà việc huy động vốn từ các cổ đông cũ trở lên khó khăn thì việc huy động thêm các cổ đông mới vào sẽ không chỉ giúp doanh nghiệp có thêm vốn hoạt động, tăng được số vốn điều lệ và vốn lưu động lên mà còn góp phần tăng quy mô doanh nghiệp, có thêm cổ đông mới tham gia có thể sẽ có được những ý kiến mới sáng tạo giúp cho công ty hoạt động hiệu quả hơn. Công ty cũng có thể tăng cường quảng bá hình ảnh của mình tới các đối tác, nâng cao được uy tín của mình trên thị trường để từ đó có thể tiến hành việc đi vay vốn từ các tổ chức tín dụng ngân hàng, các công ty đối tác trở lên dễ dàng hơn. Khi mà nguồn vốn huy động từ các cổ đông cũ và mới bị giới hạn thì việc vay vốn từ các đối tác và các ngân hàng là rất quan trọng, muốn làm được điều này thì trước hết doanh nghiệp phải hoàn thiện bộ máy quản lý sao cho hiệu quả, nâng cao năng suất lao động của công ty, nâng cao hơn nữa chất lượng các công trình mà công ty thực hiện, làm tốt các bản hợp đồng đã ký kết nhờ đó sẽ có được uy tín lớn góp phần cho việc đi vay trở lên dễ dàng hơn. Về phía nhà nước cần tạo ra nhiều điều kiện thông thoáng hơn nữa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng tiếp cận việc huy động vốn, giảm dần tính độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động trong lĩnh vực xây lắp điện. Thứ hai là vấn đề nguồn nhân lực trong công ty. Do hoạt động trong ngành kỹ thuật nên yêu cầu có được một đội ngũ nhân viên kỹ thuật lành nghề là rất quan trọng, nó góp phần quyết định đến sự thành bại của công ty trong việc thực hiện các bản hợp đồng, trong việc xây dựng các công trình. Mặc dù công ty đã có được một đội ngũ nhân viên kỹ thuật nhưng đội ngũ này còn mỏng nên chưa đáp ứng được nhu cầu trong qua trình xây dựng các công trình nhất là khi các công trình được tiến hành đồng thời thì việc phân tán các nhân viên này đi giám sát chỉ đạo các công trình là rất khó khăn do đó công ty cần có nhiều hơn nữa các nhân viên kỹ thuật giỏi. Thêm vào đó thì ngoài các nhân viên kỹ thuật ra thì công ty cũng cần có một đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề để đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu trong quá trình xây dựng vì các nhân viên kỹ thuật là những người chỉ đạo giám sát việc thi công các công trình còn người trực tiếp thi công các công trình đó lại là đội ngũ công nhân. Do vậy nếu có được đội ngũ công nhân lành nghề thì sẽ góp phần nâng cao được năng suất lao động, đảm bảo tiến độ công trình cũng như chất lượng của công trình. Nhưng hiện nay thì lực lượng lao động này của công ty thì vẫn còn thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu. Ngoài các nhân viên kỹ thuật ra thì các nhân viên quản lý cũng có vai trò rất quan trọng khi mà họ đảm bảo cho các hoạt động của công ty được tiến hành một các suôn sẻ. Nếu như các nhân viên kỹ thuật đảm bảo việc thực hiện các công việc bên ngoài công trường thì các nhân viên quản lý đảm bảo thực hiện các công việc bên trong công ty giúp cho công ty có thể hoạt động được trôi chảy. Nhưng hiện nay cả hai mặt này công ty đều thiếu những nhân viên giỏi, đó là vì các nguyên nhân sau. Khả năng đào tạo từ nội bộ của công ty là chưa có, nếu có thì còn thấp, khi mà công ty vẫn còn non trẻ, các nhân viên cũng còn rất trẻ nên khả năng đào tạo chưa có, họ không có những đội ngũ nhân viên lớp trước để đào tạo đội ngũ lớp sau do đó công ty chưa có được sự đào tạo từ nội bộ. Công tác tuyển dụng cũng gặp nhiều khó khăn vì do đây là công việc hay phải đi xa tới các công trình nên cần có chế độ đãi ngộ tốt thì mới có thể thu hút được nhiều người tham gia. Do công ty mới đi vào hoạt động nên bước đầu chưa có được chế độ đãi ngộ hợp lý nên việc thu hút được những lao động có trình độ là rất khó khăn. Hiện nay thì thị trường lao động Việt Nam có yếu điểm chung là thừa thầy thiếu thợ, thiếu những công nhân lành nghề, do vậy mà việc thu hút tuyển dụng cũng gặp nhiều khó khăn, kể cả khi công ty có chế độ đãi ngộ tốt rồi thì việc tuyển dụng cũng khó khăn khi phải cạnh tranh với các công ty khác trong tuyển dụng. Những giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhần lực trong công ty. Với việc công tác tuyển dụng đào tạo quản lý trong công ty còn có nhiều yếu kém thì trước hết là phải hoàn thiện được đội ngũ cán bộ kỹ thuật để từ đó họ có thể tiến hành đào tạo chỉ dẫn cho các công nhân kỹ thuật. Cần có chính sách chế độ đãi ngộ tốt để giữ chân được những nhân viên, công nhân giỏi của công ty ở lại, lấy họ làm lực lượng nòng cốt để tiến hành đào tạo đội ngũ đi sau, truyền đạt cho đội ngũ sau những kinh nghiệm. Bên cạnh đó thì về phía nhà nước cũng cần có những chính sách hợp lý hiệu quả hơn để công tác đào tạo đạt được những thành tựu lớn hơn. Để có thể đưa ra thị trường lao động những công nhân lành nghề có trình độ Công ty cũng cần có nhiều chế độ đãi ngộ tốt hơn cho người lao động, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong công ty giúp họ an tâm trong công tác. Thứ ba là về công tác xây dựng kế hoạch trong công ty. Có lẽ công tác xây dựng kế hoạch trong công ty kể cả kế hoạch tổng thể cũng như kế hoach bộ phận là một trong những khâu yếu nhất của công ty. Với điều kiện là một công ty tư nhân lại ở quy mô nhỏ nên công ty chưa có nhiều điều kiện quan tâm đến công tác lập kế hoạch cũng như chưa đánh giá hết tầm quan trọng của công tác kế hoạch hóa trong doanh nghiệp. Công ty mới chỉ dừng lại ở mức xây dựng cho mình những kế hoạch hàng năm mà chưa có được những kế hoạch dài hạn mang tính chiến lược. Thêm vào đó những kế hoạch lại được xây dựng rất thụ động. Kế hoạch tổng thể đã không có được sự chuẩn bị tốt nhất nên dẫn đến những kế hoạch tác nghiệp thường bị thụ động theo trong khi kế hoạch tài chính thì chỉ dừng lại theo từng quý hay theo từng công trình còn kế hoạch nhân sự, sơ đồ thuyên chuyển thì hầu như không có… Sở dĩ có điều này là do những nguyên nhân sau đây. Với một công ty là công ty tư nhân với quy mô nhỏ thì họ không thể có nhiều điều kiện quan tâm chi tiết đến việc xây dựng cho mình một kế hoạch chi tiết mang tính khoa hoc. Thêm vào đó là họ chưa đánh giá hết tầm quan trọng của kế hoạch tới các hoạt động quản lý cũng như sản xuất trong công ty. Họ không thể có những sự quan tâm một cách chi tiết đúng mức như những công ty nhà nước được trong công tác xây dựng kế hoạch. Bên cạnh đó thì đội ngũ nhân viên trong công ty không có được trình độ cũng như kinh nghiệm xây dựng kế hoạch kinh doanh cho công ty, việc thiếu đội ngũ nhân viên giỏi là một yếu tố rất quan trọng vì muốn xây dựng được kế hoạch tốt thì cần có những con người có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, nhạy bén với thị trường. Một nguyên nhân khác dẫn đến công ty chưa xây dựng được kế hoạch cho mình là với điều kiện thị trường hoạt động eo hẹp, nhiều công trình mà công ty thực hiện là sự chuyển lại của các công ty nhà nước khác do vậy mà nhiều khi công ty không thể chủ động trong xác định phương hướng cho những năm sau nên công tác lập kế hoạch cũng gặp rất nhiều khó khăn. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập kế hoạch trong công ty. Với công ty có quy mô nhỏ không cần phải lập kế hoạch là một quan niệm sai lầm vì dù công ty ở quy mô nào thì cũng phải có kế hoạch cho riêng mình để đối phó với những thay đổi của thị trường, để tạo tính chủ động cho doanh nghiệp trong các hoạt động, có kế hoạch chung thì các bộ phận bên dưới mới có căn cứ để xây dựng kế hoạch hoạt động cho riêng mình. Do vậy mà cần phải có sự thay đổi tư duy trong nhận thức vai trò của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường với mỗi doanh nghiệp. Về mặt đội ngũ cán bộ làm kế hoạch trong công ty thì do việc thiếu hụt đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm thì công ty có thể tiến hành tuyển dụng thêm nhân viên có trình độ năng lực hay là đi thuê các công ty tư vấn bên ngoài. Vì các công ty tư vấn là những công ty chuyên về lập kế hoạch dự án thì họ có đầy đủ thông tin về thị trường cũng như các đối thủ cạnh tranh, bên cạnh đó thì họ lại có những cán bộ kế hoạch có trình độ chuyên môn lại làm việc lâu năm trong công tác lập kế hoạch do vậy họ có những kinh nghiệm mà những công ty khác không có được. Thứ tư là về thị trường hoạt động của công ty. Trong điều kiện thị trường kinh doanh là không lớn lại có nhiều doanh nghiệp nhà nước tham gia vào thị trường nên sự cạnh tranh là rất căng thẳng. Với việc ngành điện Việt Nam là ngành có sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất phân phối và truyền tải điện năng thì các công ty tư nhân có rất ít cơ hội trong việc tham gia vào thị trường này. Trong điều kiện đó thì các công trình mà công ty tham gia xây lắp thì có rất nhiều công trình được thực hiện theo sự thuê lại của các doanh nghiệp nhà nước chứ không phải công ty trực tiếp làm việc với bên chủ thầu. Trong những năm qua mặc dù công ty đã nhận được nhiều bản hợp đồng xây dựng các công trình điện, hệ thống điện cho các tỉnh như Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Dương… nhưng đó đều là những công trình mà công ty tiến hành làm thuê cho các doanh nghiệp nhà nước chứ không trực tiếp nhận thầu, điều này làm cho lợi nhuận của công ty bị ảnh hưởng, khả năng mở rộng sản xuất của công ty bị hạn chế. Nó cũng làm cho việc khai thác và mở rộng thị trường của công ty gặp rất nhiều khó khăn. Đối với mỗi công ty khi tham gia hoạt động sản xuất trong bất cứ lĩnh vực nào, sản xuất sản phẩm gì thì thị trường là một yếu tố vô cùng quan trọng. Có thị trường thì hoạt động sản xuất mới có thể tiến hành, sản phẩm sản xuất ra mới có nơi tiêu thụ có như vậy thì công ty mới có thể thu hồi được lượng vốn đã đầu tư. Chính vì vậy mặc dù công ty hoạt động trong lĩnh vực xây lắp và kinh doanh các sản phẩm ngành điện thì yếu tố thị trường là rất quan trọng nhưng trong những năm qua thị trường hoạt động của công ty rất hạn hẹp chỉ bó buộc trong phạm vị các tỉnh phía bắc do vậy mà khả năng vươn ra thị trường cả nước của công ty là rất khó khăn. Nó có những nguyên nhân sau đây. Các doanh nghiệp nhà nước trong ngành điện có quá nhiều sự ưu đãi của nhà nước chính vì vậy mà tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Khi mà các doanh nghiệp nhà nước với tiềm lực của mình kèm theo đó là đã hoạt động lâu năm trong ngành lại có sự ưu đãi của nhà nước nên luôn có lợi thế trước các công ty tư nhân trong các cuộc cạnh tranh để giành hợp đồng xây dựng. Các công ty tư nhân với quy mô nhỏ tiềm lực về vốn và công nghệ đều không thể sánh được với các doanh nghiệp nhà nước cho nên họ luôn chịu lép vế mỗi khi đứng ra cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước cho nên họ luôn đóng vai trò là nhà thầu thứ cấp, thực hiện lại các hợp đồng của các doanh nghiệp nhà nước mà công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội cũng không phải là ngoại lệ. Thêm vào đó là công ty cũng chưa đó đủ uy tín để được các chủ thầu tin tưởng giao cho những công trình xây lắp quan trọng. Những giải pháp nhằm mở rộng thị trường cho công ty. Về phía nhà nước cần phải có chính sách phá bỏ dần vị thế độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, để tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong ngành. Cùng với đó cũng cần phải hạn chế những ưu đãi đối với các doanh nghiệp nhà nước để cho họ cũng phải kinh doanh trong những điều kiện như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Công ty cũng dần từng bước mở rộng quy mô, có những chính sách để khai thác thị trường, mở rộng thị trường nhằm hạn chế dần sự phụ thuộc của công ty vào những hợp đồng thuê lại của các doanh nghiệp nhà nước có như vậy thì hình ảnh của công ty mới được nhiều người biết tới. Cùng với đó thì công ty cũng phải dần trang bị những máy móc thiết bị hiện đại, trang bị những công nghệ sản xuất mới vào xây dựng có như vậy mới nâng cao được vị thế cạnh tranh của công ty trên thị trường. ĐỀ XUẤT ĐỀ TÀI CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP Đề tài 1: Nâng cao công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty. Lý do chọn đề tài. Trong thời gian thực tập tại công ty thì em nhận thấy rằng công tác kế hoạch trong công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội là một trong những mảng yếu của công ty do vậy mà em mong muốn đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác lập và thực hiện kế hoạch trong công ty. Công tác lập kế hoạch trong công ty có những yếu kém sau Chưa có được những kế hoạch tổng thể mang tính khái quát, những kế hoạch tổng thể chỉ là những kế hoạch hàng năm mà chưa có những kế hoạch dài hơi mang tính chất tầm nhìn chiến lược về tương lai của công ty. Đội ngũ cán bộ làm kế hoạch yếu về năng lực chuyên môn chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác lập kế hoạch. Công ty chưa đánh giá hết tầm quan trọng của công tác kế hoạch trong công tác quản lý và điều hành công ty. Vai trò của kế hoach bị coi nhẹ. Phương pháp lập kế hoạch chưa có sự logic khoa học. Các kế hoạch tác nghiệp thì chưa được xây dựng một cách chi tiết hợp lý. Đề tài 2 : Khai thác và mở rộng các kênh huy động vốn. Lý do chọn đề tài. Vốn là một vấn đề rất quan trọng đối với công ty, công ty có hoạt động được hay không có thể hoàn thành tốt các hợp đồng hay không thì cần phải có vốn. Muốn kinh doanh thì cũng cần có vốn nhưng với công ty trong những năm qua thì việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn khi mà các kênh huy động vốn bị hạn hẹp. Việc huy động vốn ở công ty gặp những khó khăn sau. Doanh thu tuy lớn nhưng khả năng huy động vốn từ phần lợi nhuận để lại thường là không nhiều vì lợi nhuận còn phải dùng vào nhiều việc khác. Vay vốn từ các ngân hàng, tổ chức tài chính lại chịu nhiều rằng buộc. Công ty chưa thể phát hành trái phiếu hay tham gia thị trường chứng khoán. Đề tài 3: Mở rộng thị trường hoạt động cho công ty. Lý do chọn đề tài. Thị trường là yếu tố sống còn với mỗi công ty khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thị trường thị công ty mới có thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh mới tiêu thụ được sản phẩm. Nhưng trong những năm qua công ty lại gặp những khó khăn nhất định khi mà muốn mở rộng thị trường. Những khó khăn khi mở rộng thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn có vị trí độc quyền, kèm theo đó là sự ưu đãi của nhà nước với các doanh nghiệp này. Quy mô của doanh nghiệp chưa đủ lớn để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước. Thiếu những người am hiểu thị trường, có khả năng khai thác và mở rộng thị trường. Kết luận Trong thời gian thực tập tại công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội em đã thu được nhiều kinh nghiệm trong công tác cũng như cũng có những cái nhìn một cách sơ bộ về thị trường xây lắp các công trình điện cũng như thị trường kinh doanh các sản phẩm điện. Qua thời gian thực tập em đã tìm hiểu được những khó khăn của công ty trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như những thành tựu của công ty trong những năm hoạt đông vừa qua. Em thấy rằng thực trạng hoạt động của công ty sau bảy năm thành lập là khá tốt khi mà doanh thu của công ty không ngừng tăng lên, đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty được cải thiện khi mà mức lương được nâng dần qua các năm. Thông qua lần thực tập này em cũng nhận thấy những khó khăn của những công ty tư nhân đang hoạt động trong lĩnh vực mà nhà nước vẫn nắm thế độc quyền.Vì sự độc quyền này mà kìm hãm các công ty tư nhân phát triển, tạo ra môi trường cạnh tranh không bình đẳng. Em mong rằng qua những hạn chế mà em chỉ ra trong bài báo cáo và những đề xuất trong đó sẽ góp phần nào đó cho công ty có thể khắc phục những khó khăn đó. Lời nói đầu Sau khi kết thúc bảy kỳ học trong trường đại học kinh tế quốc dân, em được đến làm việc thực tập tại công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điên Hà Nội. Ở đây em đã có được bước đầu những kinh nghiệm trong công tác làm việc. Kết hợp với những kiến thức trong trường đã được các thầy cô truyền đạt và khi đến công ty được sự hướng dẫn của anh Đặng văn Long là giám đốc công ty kiêm trưởng phòng kinh doanh em đã có được một số hiểu biết nhất định trong công việc. Cùng với sự giới thiệu của anh Đặng văn Long và sự tìm hiểu của bản thân thì em thấy rằng đây tuy là một công ty tư nhân mới được thành lập và đi vào hoạt động trong bảy năm vừa qua nhưng công ty đã có những thành tựu không phải nhỏ khi mà cả doanh số bán hàng và doanh số từ hoạt động xây lắp của công ty liên tục tăng lên qua các năm. Qua quá trình thực tập cùng sự hướng dẫn của cô giáo Đặng thị lệ Xuân và anh Đặng văn Long thì em đã hoàn thành được bài báo cáo thực tâp tổng hợp trong đó em trình bày những hiểu biết của mình về lịch sử hình thành của công ty cũng như cơ cấu tổ chức và các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty. Và qua đó em cũng trình bày những phân tích và đánh giá về thực trạng hoạt động của công ty trong bảy năm qua, những mặt đạt được và chưa được của công ty. Do em mới chỉ đến công ty thực tập trong năm tuần qua nên chưa thể hiểu hết được tất cả các hoạt động của công ty nên bài báo cáo này chỉ là những hiểu biết hết sức sơ bộ của em. Kết cấu bài Chương I: Giới thiệu chung về công ty. Chương II: Thực trạng hoạt động của công ty trong những năm qua. Chương III: Đánh giá những mặt hoạt động của công ty trong những năm qua. MỤC LỤC. Trang Lời mở đầu Mục lục Chương I:Giới thiệu chung về công ty. 1 1. Lịch sử hình thành công ty. 1 2. Cơ cấu tổ chức của công ty. 1 3. Các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty. 5 Chương II:Thực trạng hoạt động của công ty trong những năm qua. 6 1. Năm đầu tiên đi vào hoạt động năm 2000. 6 2. Năm 2001. 7 3. Năm 2002. 8 4. Năm 2003. 9 5.Năm 2004. 10 6.Năm 2005. 11 7.Năm 2006. 12 Chương III:Đánh giá những mặt hoạt động của công ty trong những năm qua. 15 1. Những mặt đạt được. 15 2. Những mặt hạn chế. 16 Đề xuất đề tài chuyên đề thực tập. 24 Kết luận. 26

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCty TNHH TM Ky thuat dien HN KH.docx
Tài liệu liên quan